Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Nâng cao hiệu quả huy động vốn từ khách hàng cá nhân tại NHNNPTNT Hà Nội – Phòng giao dịch Quang Trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.81 KB, 77 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Ý nghĩa
NHNN&PTNT
NHTM
NHNN
TMCP
NHTMCP
PGD
TCTD
VNĐ
TP
KD
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Nhà nước
Thương mại cổ phần
Ngân hàng thương mại cổ phần
Phòng giao dịch
Tổ chức tín dụng
Việt Nam Đồng
Thành phố
Kinh doanh
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ:


Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của PGD Quang Trung 25
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Vốn luôn là mối quan tâm hàng đầu, không chỉ của các doanh nghiệp mà
còn của các tổ chức tài chính. Bởi vốn đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong việc
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, là tiền đề, là cơ sở để cho doanh
nghiệp hay các tổ chức tài chính ra quyết định về hoạt động kinh doanh của mình.
Đặc biệt đối với các ngân hàng - loại hình doanh nghiệp kinh doanh một lĩnh vực
đặc biệt với loại hàng hóa đặc biệt: “Tiền tệ” – thì vốn lại càng có ý nghĩa to lớn
hơn. Trong đó, thành phần vốn từ các bộ phận dân cư đóng một vai trò hết sức
quan trọng, ảnh hưởng đặc biệt tới nguồn vốn huy động từ các Ngân hàng.
Trong giai đoạn hiện nay, sự ra đời của nhiều ngân hàng mới đã mang đến
một môi trường kinh doanh cạnh tranh, cùng với đó là sự bất ổn của nền kinh tế,
làm phát cao và các chính sách của Nhà nước làm ảnh hưởng lớn đến tâm lý người
dân gửi tiền, nhất là những khoản tiền gửi dài hạn, đã khiến cho hoạt động huy
động vốn từ khách hàng cá nhân của các Ngân hàng gặp ít nhiều khó khăn. Vì thế,
vấn đề chất lượng huy động vốn khách hàng cá nhânđược đặt ra và trở nên bức
thiết hơn bao giờ hết.
Là một trong những Phòng giao dịch hàng đầu tại khu vực miền Bắc, với
thâm niên nhiều năm hoạt động và phát triển, trong bối cảnh khó khăn chung đó,
hoạt động huy động vốn của NHNN&PTNT Hà Nội – Phòng giao dịch Quang Trung
vẫn thu được những kết quả khả quan, với chất lượng huy động vốn khách hàng cá
nhân được đánh giá tương đối tốt. Thế nhưng, bên cạnh những thành tích đạt
được, chất lượng huy động vốn khách hàng cá nhân vẫn còn một số hạn chế.
Xuất phát từ thực tế cùng quá trình thực tập, em xin chọn đề tài “Nâng cao
hiệu quả huy động vốn từ khách hàng cá nhân tại NHNN&PTNT Hà Nội – Phòng
giao dịch Quang Trung” làm đề tài viết chuyên đề thực tập của mình.
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 4 Lớp LTDH9-NHM

Chuyên đề tốt nghiệp
2. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu và tính cấp thiết của đề tài, chuyên đề này nhằm:
- Hệ thống hóa các kiến thức đã học về hoạt động huy động vốn nói chung và chất
lượng huy động vốn nói riêng của ngân hàng.
- Phân tích thực trạng chất lượng huy động vốn từ khách hàng cá nhân của
NHNN&PTNT Hà Nội – Phòng giao dịch Quang Trung.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng huy động vốn từ khách hàng
cá nhân của NHNN&PTNT Hà Nội – Phòng giao dịch Quang Trung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài chọn vấn đề nâng cao chất lượng huy động vốn từ
khách hàng cá nhân của NHNN&PTNT Hà Nội – Phòng giao dịch Quang Trung là đối
tượng nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động huy động vốn từ
khách hàng cá nhân của Ngân hang NN&PTNT Hà Nội – Phòng giao dịch Quang
Trung trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng để nghiên cứu đề tài này là phương
pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp
thống kê…
5. Kết cấu của chuyên đề thực tập
Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên đề thực tập được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn từ khách hàng cá nhân tại
NHNN&PTNT Hà Nội – Phòng giao dịch Quang Trung.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn từ khách hàng cá
nhân tại NHNN&PTNT Hà Nội – Phòng giao dịch Quang Trung.
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 5 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI

NGÂN HÀNG
1.1.Khái quát chung về ngân hàng
1.1.1.Khái niệm ngân hàng
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ hình thành lâu đời nhất trong
số các tổ chức “trung gian tài chính” mà ngày nay mọi người đều quen thuộc.
Cơ sở của sự xuất hiện các Ngân hàng chính là sự phát triển của sản xuất và
lưu thông hành hoá. Đến lượt mình, các Ngân hàng lại tạo ra tiền đề cho sự phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế. Đó là mối quan hệ nhân quả mà trong đó sự phát
triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá là điểm khởi đầu.
1.1.2.Hoạt động của ngân hàng
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các tổ chức trung gian tài chính ngày
càng mở rộng phạm vi và loại hình nghiệp vụ khiến cho quan điểm về ngân hàng
không còn thống nhất giữa các quốc gia như trước đây. Song có thể hình dung
ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thực hiện đồng thời 3 nghiệp vụ
chính: Hoạt động huy động vốn; Hoạt động sử dụng vốn và hoạt động khác.
1.1.2.1.Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ chủ yếu dưới hình thức huy động, cho vay,
đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy dộng vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho
ngân hàng – đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của
ngân hàng.
Nguồn vốn ngân hàng huy động được sử dụng để tiến hành cho vay phục vụ
cho nhu cầu phát triển sản xuất, phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế của địa
phương và của cả nước. Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở
rộng và phát triển sẽ càng tạo uy tín và tiền đề cho ngân hàng trong mở rộng quan
hệ tín dụng với các thành phần kinh tế từ đó mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do
đó, ngân hàng phải căn cứ vào các chiến lược phát triển của địa phương cũng như
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 6 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
của cả nước để đưa ra các chính sách huy động vốn thích hợp nhất đáp ứng nhu
cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

Nguồn vốn của một ngân hàng nằm bên phải bảng cân đối kế toán bao gồm
các khoản mục sau:

Vốn chủ sở hữu
Đây là loại vốn ngân hàng mà ngân hàng cần phải có để có thể hoạt động
ban đầu và được pháp luật cho phép. Vốn này có thể sử dụng lâu dài, hình thành
nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng
mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau.Tuy nhiên trong quá trình hoạt
động, ngân hàng cũng gia tăng vốn của chủ thêo nhiều phương thức khác nhau,
tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể. Đó là nguồn từ lợi nhuận và nguồn bổ sung từ phát
hành thêm cổ phần, góp them vốn

Vốn huy động
Vốn huy động có vai trò đáng kể trong khoản mục nguồn vốn của bảng cân
đối kế toán của ngân hàng. Vốn huy động là vốn mà ngân hàng cần phải dự trữ bắt
buộc theo tỷ lệ quy định của nhà nước, tuy nhiên lại đóng vai trò rất quan trọng
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn huy động được chuyển đến ngân
hàng thông qua các kênh khác nhau dưới nhiều hình thức khác nhau. Lãi suất của
vốn huy động phụ thuộc vào lãi suất trên thị trường cũng như các quyết định về lãi
suất huy động của từng ngân hàng.

Vốn vay
Trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng, nguồn vốn vay nợ là khoản mục
lớn thứ hai bên tài sản nợ sau nguồn vốn huy động. Đối với nguồn vốn này, ngân
hàng không bị đòi hỏi về dự trữ bắt buộc.Tuy nhiên một trở ngại lớn đối với nguồn
vốn này là chi phí vốn - lãi suất - của các khoản vay này thường cao và thường dao
động với biên độ lớn phụ thuộc vào tình trạng tài chính của ngân hàng xin vay.
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 7 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
Chính vì vậy, ngân hàng chỉ dùng tới nguồn vốn vay nợ trong trường hợp có

những nhu cầu thanh khoản đột xuất với quy mô lớn xuất hiện mà các nguồn vốn
huy động hay nguồn tiền từ việc bán các dự trữ thứ cấp là không thể đáp ứng
được. Nguồn vay chính đối với các ngân hàng là từ các khoản tiền gửi của ngân
hàng Trung ương, từ nguồn chiết khấu của ngân hàng Trung ương hoặc từ các
công ty lớn.
1.1.2.2.Hoạt động sử dụng vốn
Các nguồn vốn sau huy động sẽ được ngân hàng phân bổ sử dụng vào các
mục tiêu khác nhau. Nguyên tắc hoạt động của ngân hàng là dự trữ một phần dưới
dạng tiền, phần còn lại được sử dụng vào các nghiệp vụ sinh lời nhằm tạo ra thu
nhập để bù đắp chi phí hoạt động và có lãi. Các nghiệp vụ sử dụng vốn rất phong
phú với nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, có thể chia làm 3 nhóm chính sau:

Nghiệp vụ chiết khấu
Là nghiệp vụ trong đó ngân hàng thực hiện việc mua lại các giấy tờ có giá
với mục đích hưởng một mức lợi tức – thường gọi là lợi tức chiết khấu – tương
xứng với chi phí vốn và rủi ro mà ngân hàng phải đảm nhận khi sở hữu các giấy tờ
có giá đó.Các giấy tờ thường được ngân hàng chiết khấu là thương phiếu, các giấy
nợ như trái khoán hay hối phiếu chấp nhận thanh toán.Sau khi chiết khấu, ngân
hàng có thể giữ tài sản này tới lúc mãn hạn hoặc tiến hành tái chiết khấu hay bán
lại trên thị trường tiền tệ.

Nghiệp vụ đầu tư
Nghiệp vụ trong đó ngân hàng tiến hành mua các chứng khoán với mục đích
thu lợi từ việc sở hữu các chứng khoán này. Lợi tức bao gồm lãi của chứng khoán
do nhà phát hành đưa ra và lợi nhuận mà ngân hàng thu được khi bán lại chứng
khoán với giá cao hơn giá mua vào. Nghiệp vụ đầu tư thường được chia thành hai
nhóm: Đầu tư với mục đích thanh khoản và đầu tư với mục đích lợi nhuận.
Với mục đích thanh khoản, ngân hàng nắm giữ chứng khoán là nhằm tối đa
hoá khả năng sinh lời của tài sản trong khi vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 8 Lớp LTDH9-NHM

Chuyên đề tốt nghiệp
cao.Các chứng khoán ngắn hạn thường được ưu tiên sử dụng cho mục đích này
bởi vì chúng có thể được ưu tiên sử dụng cho mục đích này bởi vì nhu cầu thanh
khoản với chi phí thấp.Các chứng khoán này đợc xem như dự trữ thứ cấp của ngân
hàng.
Ngược lại, với nhóm đầu tư với mục đích lợi nhuận, các chứng khoán trong
nhóm chủ yếu là chứng khoán dài hạn của Chính phủ với mức lãi cao và ngân hàng
thường nắm giữ chúng cho tới ngày mãn hạn. Đây được xem là một nguồn thu
nhập quan trọng của ngân hàng.

Nghiệp vụ cho vay
Cho vay là một chức năng, một nhiệm vụ cơ bản nhất của hệ thống ngân
hàng. Về bản chất, với nghiệp vụ này ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng đối với
một lượng vốn nhất định của mình cho một bên thứ hai để đổi lấy thu nhập về lãi.
Đối với ngân hàng, cho vay là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu, là nguồn thu
nhập chính bù đắp các chi phí trong hoạt động của ngân hàng. Với một ngân hàng
trung bình, thu nhập từ cho vay chiếm 70 – 80% tổng số thu nhập. Tuy nhiên do
mối quan hệ logic giữa thu nhập và rủi ro, cho vay cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn nhiều
mối lo ngại nhất cho các ngân hàng, trong đó rủi ro lớn nhất mà ngân hàng thường
xuyên phải đối mặt là rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn. Do vậy trong
hoạt động của mình, các cán bộ tín dụng của ngân hàng phải luôn đề cao tinh thần
trách nhiệm, cánh giác không ngừng học hỏi để tránh cho ngân hàng những tổn
thất lớn.
Nghiệp vụ cho vay được phân chia theo nhiều tiêu thức kỳ hạn gồm 3 nhóm
là cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn; hoặc phân chia theo
lĩnh vực cho vay thành cho vay công nghiệp, cho vay nông nghiệp, cho vay tiêu
dùng, Các ngân hàng hiện nay đang rất chú trọng phát triển các dịch vụ cho vay
tiêu dùng.
1.1.2.3.Hoạt động khác
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 9 Lớp LTDH9-NHM

Chuyên đề tốt nghiệp
Ngân hàng là hệ thống trung gian tài chính cơ bản trong nền kinh tế, chủ
yếu là hoạt động trong nghiệp vụ trung gian trong thanh toán.Ngân hàng đóng vai
trò là tổ chức đứng giữa bên phải thanh toán và bên hưởng thụ giúp cho quá trình
thanh toán được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả. Trong nền kinh tế ngày càng
phát triển, các mối quan hệ không chỉ diễn ra trong nước mà còn trên phạm vi
toàn thế giới. Nếu không có một hệ thống thanh toán nhanh chóng thuận tiện thì
việc thực hiện các giao dịch, quan hệ kinh tế sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn. Do
vậy việc ngân hàng đứng ra đảm nhận chức năng này có một ý nghĩa rất lớn đối với
sự phát triển của nền kinh tế. Việc ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán thông
qua tài khoản không chỉ tạo cho ngân hàng những nguồn vốn mới mà còn mang lại
cho ngân hàng một nguồn thu nhập thông qua thu phí đối với các dịch vụ thanh
toán.

Chứng khoán hoá tài sản
Là nghiệp vụ trong đó ngân hàng thực hiện phát hành chứng khoán đối với
những nhóm tài sản nhất định – bao gồm phần lớn là các khoản nợ. Nghiệp vụ này
mang lại cho ngân hàng các khoản thu về phí dịch vụ như dịch vụ quản lý, giám sát,
thu nợ, đồng thời nó cũng cho phép ngân hàng có thể đẩy nhanh tốc độ quay vòng
tín dụng.

Bán nợ
Là nghiệp vụ ngân hàng tiến hành bán quyền sở hữu về thu nhập hoặc bán
quyền sở hữu hoàn toàn đối với các khoản vay của mình. Nghiệp vụ này là một
phương pháp phổ biến của các ngân hàng trong việc giải quyết các khoản nợ khó
đòi, cho phép ngân hàng có thể nhanh chóng thu hồi một phần trị giá khoản cho
vay khó đòi.

Bảo lãnh
Với nghiệp vụ này, ngân hàng đứng ra bảo lãnh về một khả năng nào đó -

khả năng thanh toán - của bên được bảo lãnh và cam kết tiến hành thực hiện hoặc
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 10 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
bồi thường nếu bên bảo lãnh không thực hiện được khả năng nêu ra. Nghiệp vụ
này tạo điều kiện cho ngân hàng có thể tận dụng một cách triệt để khả năng đánh
giá, phân tích tài chính của mình trong nỗ lực tối đa hoá lợi nhuận thu về.
1.2.Hoạt động huy động vốn tại ngân hàng
1.2.1.Khái niệm huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hính thức huy động, cho vay, đầu tư và
cung cấp các dịch vụ khác.Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng
– đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Nghiên cứu hoạt động huy động vốn là một việc hết sức cần thiết để qua đó có
những phương pháp quản lý cũng như sử dụng một cách hợp lý nhằm nâng cao
hiệu quả huy động vốn đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Vốn huy động là vốn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân
hàng. Ngân hàng mua quyền sử dụng các khoản vốn của ngân hàng trong một thời
gian nhất định và có trách nhiệm hoàn trả số vốn đó theo đúng kế hoạch.
1.2.2.Các hình thức huy động vốn
Bởi vốn huy động có ý nghĩa quyết định khả năng hoạt động của mỗi ngân
hàng nên nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng của ngân hàng. Các hình
thức huy động vốn ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng vốn huy động được vì vậy
việc đưa ra các hình thức huy động phù hợp, linh hoạt là điều hết sức cần thiết đối
với ngân hàng bởi như vậy họ mới khai thác được hết các nguồn vốn từ các doanh
nghiệp và cá nhân trong mọi thành phần kinh tế.
Nguồn tiền được truyền tải đến ngân hàng theo nhiều kênh khác nhau, với
các hình thức phân loại khác nhau.
1.2.2.1.Phân loại theo đối tượng khách hàng
Khách hàng là nhân tố quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Tuy
nhiên lại bao gồm nhiều đối tượng khách nhau, rất đa dạng. Chính vì vậy trong
hoạt động của ngân hàng sẽ được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau tuỳ

theo đối thượng sử dụng. Đối với hoạt động huy động vốn, dựa theo đối tượng
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 11 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
khách hàng thì hoạt động huy động vốn của ngân hàng được chia thành các hình
thức sau: Tiền gửi của cá nhân; Tiền gửi của doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế
khác.

Tiền gửi của cá nhân
Khách hàng cá nhân chiếm phần lớn đa số trong đối tượng hoạt động của
ngân hàng.Chính vì vậy, các hoạt động dịch vụ của ngân hàng vói đối tượng khách
hàng này cũng rất đa dạng, đặc biệt đối với hoạt động huy động vốn.Với mục đích
gửi tiền chủ yếu là tiết kiệm, bảo quản, đem lại khả năng sinh lời cho mình thì
khách hàng cá nhân đã đếm lại một lượng vốn huy động đáng kể cho ngân hàng
với số tiền nhãn rỗi của mình.Đồng thời lượng vốn huy động được thì rất ổn định
góp phần làm cho ngân hàng có thể dễ dàng sử dụng lượng vốn này để thực hiện
các hoạt động đầu tư của rmình một cách hiệu quả nhất.

Tiền gửi của doanh nghiệp
Không chỉ khách hàng cá nhân mới đóng vai trò quan trọng trong hoạt động
của ngân hàng mà các doanh nghiệp cũng như các tố chức kinh tế khác cũng góp
phần tạo nên sự đa dạng trong hoạt động của ngân hàng.
Trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng, lượng vốn huy động từ
khách hàng là doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác cũng chiếm phần lớn.
Tuy nhiên mục đích gửi tiền của đối tượng khách hàng này là khác so với
khách hàng cá nhân nên ngân hàng chỉ dử dụng được một phần nhỏ trong lượng
vốn huy động được đó là số dư trên tài khoản của các doanh nghiệp cũng như của
các tổ chức kinh tế.Bởi vì mục đích gửi tiền của đối tượng khách hàng này là dùng
để thanh toán cũng như tiến hàng các giao dịch khác nên lượng vốn huy động sẽ
không có thời gian cố định gây khó khăn cho ngân hàng trong việc đem vốn đi đầu
tư sinh lời. Tuy nhiên không phải lúc nào các doanh nghiệp gửi tiền với mục đích

thanh toán,bởi với số tiền nhãn rỗi sẽ được hưởng lãi nếu doanh nghiệp gửi tiền
gửi có kỳ hạn.
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 12 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp

Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác
Trên thực tế tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác là vốn vay của Ngân
hàng đối với các tổ chức đó nhằm tạo khả năng thanh toán cho ngân hàng.Tuy
nhiên trong một số trường hợp, với những ngân hàng có một lượng vốn huy động
lớn có thể đem gửi tại các ngân hàng khác nhằm mục đích hưởng một phần lãi
hoặc được hưởng lãi điều hoà từ hội sở chính của các ngân hàng đó.Điều này giúp
Ngân hàng giảm bớt được một phần chi phí, đem lại lợi nhuận cao hơn cho ngân
hàng.
1.2.2.2.Phân loại theo mục đích huy động
Nếu phân loại theo mục đích huy động thì bao gồm các hình thức sau:

Tiền gửi thanh toán
Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân
hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, ngân hàng sẽ đáp ứng
nhu cầu thanh toán cho khách hàng khi họ có yêu cầu. Nhìn chung lãi suất của loại
tiền gửi này rất thấp nhưng thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng những
dịch vụ ngân hàng với mức chi phí thấp.

Tiền gửi có kỳ hạn
Nguồn vốn này thường có kỳ hạn xác định trước với một lãi suất cao hơn so
với lãi suất của tiền gửi thanh toán.Có thể nói đây là nguồn vốn có chi phí cao nhất
của ngân hàng. Đồng thời do tính ổn định cao trong kỳ hạn bởi mục đích gửi tiền
của doanh nghiệp hay các cá nhân là để hưởng lãi, các khoản cho vay của ngân
hàng chủ yếu được tài trợ bằng nguồn vốn này.


Tiền gửi tiết kiệm
Các tầng lớp dân cư đều có khoản tiền nhàn rỗi, khoản thu nhập chưa sử
dụng đến. Trong điều kiện có thể tiếp cận ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm
nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời. Do lượng tiền nhàn rỗi này của
dân cư được gửi với thời gian cố định nên đây là lượng vốn chủ yếu cho ngân hàng
sử dụng trong hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy, nhằm thu hút ngày
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 13 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi
thói quen giữ tiền tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình
thức huy động vốn đa dang với lãi suất hấp dẫn. Đây cũng là một dạng của tiền gửi
có kỳ hạn nhưng tuy nhiên cũng có một số điểm khác biệt theo quy định của văn
bản pháp luật mà ngân hàng Nhà nước quy định.

Phát hành các giấy tờ có giá
Các giấy tờ có giá là công cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn
trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định để sử dụng cho một mục đích
nào đó.Lãi suất của loại này phụ thuộc vào sự cấp thiết của việc huy động vốn nên
thường cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn thông thường.
Các giấy tờ có giá do Ngân hàng phát hàng bao gồm kỳ phiếu, trái phiếu,
chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá.
1.2.2.3.Phân loại theo kỳ hạn

Tiền gửi ngắn hạn
Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động trong khoảng thời gian ngắn hạn và
thường xác định là từ 0 cho đến 12 tháng.

Tiền gửi trung và dài hạn
Là vốn mà ngân hàng huy động nguồn vốn trung và dài hạn với thời gian từ
12 tháng trở lên.Đây là nguồn vốn ổn định được ngân hàng sử dụng với mục đích

đầu tư mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
1.2.2.4.Phân loại theo loại tiền

Vốn huy động bằng VNĐ
Ngân hàng huy động vốn bằng VNĐ thông qua tất cả các hình thức huy động
vốn khác nhau với các mục đích sử dụng khác nhau.Trong nguồn vốn ngân hàng
huy động được thì nguồn vốn huy động bằng VNĐ chiếm tỷ trọng cao, đáp ứng các
nhu cầu về sử dụng vốn của ngân hàng.

Vốn huy động bằng ngoại tệ
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 14 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngoài huy động vốn bằng VNĐ, ngân hàng cũng tiến hành huy động vốn
bằng ngoại tệ.Số vốn huy động bằng ngoại tệ quy ra VNĐ cũng chiếm tỷ lệ lớn
trong hoạt động của ngân hàng.Mục đích huy động vốn bằng ngoại tệ của ngân
hàng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế cũng như các hoạt động kinh doanh
ngoại tệ của khách hàng cũng như ngân hàng.
Vốn huy động bằng ngoại tệ của ngân hàng chủ yếu là USD hoặc EUR.
1.3.Khái quát về hiệu quả huy động vốn
1.3.1.Khái niệm hiệu quả huy động vốn
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, ngân hàng cũng như các tổ chức tín
dụng khác đang phải đối mặt với các cuộc cạnh tranh khốc liệt. Bất kỳ biến động
nào dù nhỏ hay lớn đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói
chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Vì vậy, hiệu quả trong hoạt động huy
động vốn không chỉ đánh giá chính xác đúng đắn hoạt động huy động vốn nói riêng
mà còn phản ánh khả năng thích nghi và khẳng định sự phát triển trên thị trường
của ngân hàng.
Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Khi so sánh
giữa kết quả và chi phí thì cần phải so sánh dưới dạng thương số, hoặc kết quả/
chi phí hoặc chi phí/ kết quả. Mỗi cách so sánh đó đều cung cấp các thông tin có ý

nghĩa khác nhau. Đặc biệt không thể tính kết quả bằng cách lấy kết quả - chi phí vì
như vậy chỉ cho ra một chỉ tiêu kết quả chứ không phải chỉ tiêu kết quả.
Khái niệm hiệu quả như trên cho thấy rằng chỉ khi nào đạt được kết quả cao
nhất trong điều kiện chi phí thấp nhất mới được coi là có hiệu quả. Tuy nhiên trên
thực tế, việc xác định kết quả nào là cao nhất với chi phí thấp nhất là rất khó.
Như vậy, hiệu quả huy động vốn được thể hiện ở khả năng đáp ứng cao
nhất nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng. Đó chính là sự đáp ứng kịp thời, đầy đủ,
nhu cầu sử dụng vốn với chi phí hợp lý.
1.3.2. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả huy động vốn
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 15 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng huy động vốn của NHTM cần
được xem xét từ nhiều góc độ: đứng trên góc độ của NHTM, đứng trên góc độ của
khách hàng và đứng trên góc độ nền kinh tế.
Cụ thế như sau:
- Đối với ngân hàng
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như ngày nay, thì vốn là một yếu tố
giúp các ngân hàng giữ vững và nâng cao được vị thế của mình. Ngân hàng nào
trường vốn thì sẽ có khả năng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, có khả
năng mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng thêm thu nhập, Nhận thức được vai
trò to lớn của vốn, các ngân hàng liên tục tìm biện pháp để tăng trưởng nguồn vốn
của mình và nâng cao chất lượng của công tác huy động vốn.
Nhu cầu của xã hội ngày càng tăng cao kéo theo sự tăng cao nhu cầu về vốn
của các thành phần kinh tế. Để đáp ứng được nhu cầu này, đòi hỏi ngân hàng phải
có một nguồn vốn đủ lớn, trong khi nguồn vốn tự có lại quá nhỏ bé, không thể đáp
ứng được. Vì vậy, các ngân hàng phải tìm cách để tăng nguồn vốn hiện có của
mình, thực hiện vai trò là “bà đỡ” cho nền kinh tế, vấn đề nâng cao chất lượng huy
động vốn được đặt ra như một tất yêu khách quan và ngày càng trở nên bức thiết.
Các NHTM hoạt động trên thị trường với tư cách là các trung gian tài chính với
chức năng chủ yếu là phân phối lại tiền tệ trong xã hội, thúc đẩy nền kinh tế không

ngừng phát triển. Hoạt động huy động vốn chính là việc thu hút các nguồn vốn
nhàn rỗi trong xã hội để rồi sau đó ngân hàng phân phối đến nơi thiếu vốn (bằng
các hoạt động cho vay, đầu tư). Làm tốt công tác huy động vốn cũng đồng nghĩa
với ngân hàng làm tốt nhiệm vụ quan trọng nhất của mình .Cho nên mọi NHTM
đều ý thức được sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng của hoạt động huy
động vốn.
- Đối với khách hàng
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 16 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
• Đối với khách hàng cá nhân: Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng đã cung cấp
cho dân cư các phương thức tiết kiệm hợp lý và an toàn.
Nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư vốn rất dồi dào. Để thu hút được
nguồn vốn này, ngân hàng đã sử dụng những hình thức huy động phong phú với lãi
suất hấp dẫn, kỳ hạn linh hoạt, Điều này giúp người dân dễ dàng lựa chọn một
hình thức tiết kiệm phù hợp với số tiền và mục đích sử dụng của mình. Do đó, tâm
lý dân cư luôn mong ngân hàng đưa ra những hình thức huy động vốn hiệu quả,
vừa an toàn, vừa có lợi cho cả đôi bên.
• Đối với khách hàng là các tổ chức kinh tế và doanh nghiệp: Các tổ chức kinh tế, các
doanh nghiệp, thông qua nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng, có thể tiến hành
thuận tiện việc giao dịch thanh toán bằng tài khoản tiền gửi thanh toán của mình.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế đều có quan hệ tín dụng với
ngân hàng, nên nếu ngân hàng huy động vốn có hiệu quả thì doanh nghiệp có thể
có được nguồn vốn kịp thời bất cứ lúc nào doanh nghiệp cần vốn. Do đó đứng trên
góc độ doanh nghiệp, việc nâng cao chất lượng huy động vốn của ngân hàng cũng
là cần thiết.
- Đối với nền kinh tế:
Khi nền kinh tế trong giai đoạn phát triển, nghiệp vụ huy động vốn giúp cho
các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế được quy về một mối, từ đó dễ dàng hơn
cho việc phân bổ lại nguồn vốn với một chi phí hợp lý, tránh được tình trạng lãng
phí vốn.

Khi nền kinh tế rơi vào lạm phát thì huy động vốn là một cách để hạn chế
việc cung tiền, góp phần kiểm soát lạm phát.
Tóm lại, việc nâng cao chất lượng công tác huy động vốn của ngân hàng là
cần thiết và vô cùng quan trọng, đối với khách hàng, với nền kinh tế, và đặc biệt là
với bản thân ngân hàng.Nếu chất lượng huy động vốn của ngân hàng không cao sẽ
gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng, hạn chế cho việc giao dịch của khách
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 17 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng và kìm hãm kinh tế phát triển.Ngược lại, ngân hàng có chất lượng huy động
vốn tốt đồng nghĩa với ngân hàng hoạt động tốt, đáp ứng được đầy đủ nhu cầu
của khách hàng và của nền kinh tế.Vì vậy, ngân hàng luôn phải tìm và thực hiện các
biện pháp để nâng cao chất lượng huy động vốn của mình.
1.3.3.Tiêu chí phản ánh hiệu quả huy động vốn
Ngân hàng huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau. Mỗi cách thức
huy động vốn đem lại cho Ngân hàng một nguồn vốn có tính chất khác nhau, với
chi phí khác nhau. Để đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn của một Ngân
hàng ta cần dựa vào các chỉ tiêu cụ thể. Mỗi chỉ tiêu nêu lên một mặt của hoạt
động huy động vốn của Ngân hàng. Sau đây là một số chỉ tiêu:
1.3.3.1.Quy mô vốn huy động / chi phí vốn huy động
Vốn của Ngân hàng được chia làm hai loại: Vốn chủ sở hữu và Nợ. Vốn chủ
sở hữu chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng nhưng có thể
sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng và đặc biệt
là được dùng để đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng.
Nợ chiếm phần lớn trong nguồn vốn của Ngân hàng, nó là nguồn vốn hoạt
động chính đối với mỗi ngân hàng. Cho nên hầu hết các khoản nợ của Ngân hàng
đều liên quan đến chi phí huy động vốn.
Chi phí huy động vốn của ngân hàng bao gồm chi phí trả lãi và chi phí phi trả
lãi. Trong tổng số chi phí vốn huy động thì chi phí trả lãi là chủ yếu. Ngoài ra còn có
các chi phí khác như: Chi phí bảo hiểm tiền gửi, chi phí quản lý, dự trữ bắt buộc, dự
trữ thanh toán, chi phí cho hoạt động marketing, quảng cáo để thu hút khách hàng

gửi tiền, chi phí để mở các quỹ tiết kiệm, chi phí mua máy móc thiết bị, và các chi
phí khác liên quan đến hoạt động huy động vốn.
Chi phí trả lãi mà ngân hàng trả cho khách hàng là chi phí trả lãi dựa trên lãi
suất danh nghĩa, lãi suất ngân hàng công bố cho khách hàng. Chi phí này phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố như kỳ hạn, loại tiền gửi, mục tiêu gửi tiền của khách hàng,
chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ, tiện ích kèm theo, Tuy
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 18 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
nhiện, lãi suất thực tế của từng nguồn vốn huy động đối với ngân hàng là cao hơn
bởi vì ngoài chi phí trả lãi, ngân hàng còn phải bỏ ra nhiều loại chi phí khác nữa, chi
phí phi trả lãi. Vì vậy chỉ tiêu chi phí huy động vốn/ tổng vốn huy động được chia
nhỏ ra lam hai chỉ tiêu khác. Đó là:
- Chi phí trả lãi/ tổng vốn huy độngcho thấy để huy động được một đồng
vốn thì ngân hàng cần phải trả bao nhiêu tiền dựa trên lãi suất công bố cho khách
hàng.
- Chi phí phi trả lãi/ tổng vốn huy động cho thấy một đồng vốn huy động
được ngân hàng bỏ ra chi phí là bao nhiêu cho việc quản lý, cất giữ, bảo quản,
Tóm lại chi phí huy động vốn/ tổng vốn huy động được dùng để đánh giá
xem một đồng vốn ngân hàng huy động được cần phải bỏ ra bao nhiêu chi phí.
Như vậy, khi xem xét hiệu quả huy động vốn, chi phí cho một đồng vốn phải
hợp lý, đảm bảo các khoản thu nhập có thể bù đắp được chi phí này và có lợi nhuận
cho ngân hàng. Chỉ tiêu này càng thấp thì huy động vốn càng có hiệu quả. Tuy
nhiên cũng phải thấy rằng để giảm chi phí huy động vốn thì cần phải giảm lãi suất
huy động và có các chi phí quản lý, bảo quản, dự trữ vốn huy động một cách tối ưu
nhất. Việc đưa ra một lãi suất huy động hợp lý là rất quan trọng, lãi suất không quá
cao - đảm bảo lợi ích ngân hàng, cũng không quá thấp – thu hút được khách hàng
gửi tiền. Đồng thời giảm các chi phí phi trả lãi cũng sẽ làm cho hiệu quả của hoạt
động huy động vốn của ngân hàng hiệu quả hơn.
1.3.3.2.Chênh lệch thu chi lãi / chi phí trả lãi của ngân hàng
Mối liên hệ nguồn vốn và tài sản là mối liên liên hệ giữa huy động vốn và sử

dụng vốn. Đó là hai mặt của quá trình hoạt động của ngân hàng. Tuy nhên, để
đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng, tức là khả năng đáp ứng kịp thời
các nhu cầu về sử dụng vốn hay khả năng sinh lời từ dồng vốn huy động được thì
các ngân hàng cũng thường sử dụng chỉ tiêu chêch lệch thu chi lãi / chi phí trả lãi
của ngân hàng để đánh giá mối liên hệ sinh lời của tài sản và nguồn vốn cũng như
hiệu quả hoạt động huy động vốn.
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 19 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Chênh lệch thu chi lãi
=
Thu lãi – Chi lãi
Chi phí trả lãi Chi phí trả lãi
Chỉ tiêu này cho thấy một đồng chi phí ngân hàng bỏ ra để huy động vốn sẽ
thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ đồng vốn đó. Chỉ tiêu này càng cao thì cho
thấy ngân hàng đã sử dụng rất hiệu quả đồng vốn huy động của mình trong việc tối
thiểu hóa chi phí huy động cho đồng vốn đó. Chỉ tiêu này cao do chênh lệch thu chi
lãi trước thu, chi khác cao và chi phí trả lãi nhỏ. Chỉ tiêu chênh lệch thu, chi lãi/ chi
phí trả lãi cao cũng có thể do chí phí tăng và thu nhập trước thu nhập khác và chi
khác giảm, tuy nhiên tốc độ tăng của chi phí chậm hơn tốc độ giảm của thu nhập
đó.
1.3.3.3.Quy mô vốn huy động / chi phí tiền lương
Trước tiên, để đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thông qua chỉ
tiêu này, cần phải đánh giá chỉ tiêu quy mô vốn huy động / 1cán bộ huy động vốn.
Chỉ tiêu này được tính bằng tổng số vốn mà ngân hàng huy động được trong
một thời kỳ từ khách hàng cá nhân chia cho tổng số lao động trong hoạt động huy
động vốn của ngân hàng trong thời kỳ đó.
Quy mô vốn huy động
=
Tổng số vốn huy động

1 cán bộ huy động
vốn
Tổng số lao động huy động vốn
Chỉ tiêu này cho thấy trong một thời kỳ nhất định, một lao động của ngân
hàng huy động được bao nhiêu vốn, hay nói cách khác chỉ tiêu này cho biết năng
suất huy động vốn của lao động hoạt động huy động vốn trong ngân hàng.
Chỉ tiêu này tăng cho thấy năng suất huy động vốn của ngân hàng tăng lên
khi nguồn vốn huy động tăng nhanh hơn số lao động hoạt động huy động vốn làm
cho chỉ tiêu này tăng lên. Tuy nhiên cũng phải xem xét tới sự giảm của nguồn vốn
huy động và số lượng lao động hoạt động huy động vốn của ngân hàng qua các
năm. Bởi chỉ tiêu này vẫn tăng nếu sự giảm xuống của nguồn vốn huy động được
chậm hơn so với sự giảm xuống của lao động hoạt động huy động vốn.
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 20 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
Chỉ tiêu nguồn vốn huy động trên một lao động hoạt động huy động vốn
tăng qua các năm cho thấy hiệu quả trong việc huy động vốn của ngân hàng. Tuy
nhiên chỉ tiêu này cũng chỉ cho thấy một cách định lượng về khả năng huy động
vốn của lao động hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Chúng không nêu lên
được cơ cấu nguồn vốn huy động cũng như các chi phí phải bỏ ra để huy động vốn,
sự phù hợp của nguồn vốn huy động với mục tiêu sử dụng vốn
Đối với chỉ tiêu quy mô vốn huy động / chi phí tiền lương phải trả cho tổng
cán bộ huy động vốn cho thấy một đồng chi phí phải trả cho một cán bộ huy động
vốn sẽ thu được bao nhiêu đồng vốn huy động.
Quy mô vốn huy động
__________________
=
Tổng số vốn huy động
_____________________________________
Chi phí tiền lương Tổng tiền lương trả cho cán bộ huy động vốn
Chỉ tiêu này càng cao thì càng thể hiện rõ hiệu quả trong huy động vốn của

ngân hàng. Bởi chỉ tiêu này cao khi chi phí thấp và quy mô vốn huy động cao hoặc
là chi phí huy động tăng nhưng tốc độ tăng lại không nhanh bằng quy mô vốn huy
động.Tuy nhiên, cũng phải xét tới sự giảm sút của 2 yếu tố cấu thành nên chỉ tiêu
này. Bởi nếu quy mô vốn giảm nhưng vẫn nhanh hơn tốc độ giảm của chi phí sẽ
làm cho chỉ tiêu này vẫn phản ánh được hiệu quả huy động vốn của ngân
hàng.Như vậy, chỉ tiêu sẽ cho thấy hiệu quả huy động vốn của ngân hàng về mặt
lượng một cách cụ thể.
1.3.3.4.Sự ổn định vốn huy động của các hình thức huy động vốn
Một hình thức huy động vốn được đánh giá là tốt ngoài những yếu tố như
đáp ứng nhu cầu với chi phí thấp cần phải có sự ổn định, tức là không có sự thay
đổi đột ngột trong thời gian sử dụng nguồn vốn đó của ngân hàng.
Thông thường các nguồn vốn huy động đều có thể dự tính được trước thời
gian sử dụng như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm,
Vốn huy động phải có sự tăng trưởng ổn định về mặt số lượng để thoả mãn
nhu cầu tín dụng cũng như nhu cầu của các hoạt động khác. Mặt khác vốn huy
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 21 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
động đó cung cần phải có sự ổn định về thời gian. Chẳng hạn như nếu ngân hàng
huy động được một nguồn vốn lớn đáp ứng được yêu cầu tín dụng nhưng lại
không đánh giá được khả năng ổn định của nguồn vốn đó sẽ làm ảnh hưởng đến
hoạt động của ngân hàng, tạo cho ngân hàng những rủi ro khó lường trước được.
Ngược lại, nếu ngân hàng chỉ huy động được nguồn vốn nhỏ nhưng ổn định về
thời gian sẽ làm cho việc đầu tư của ngân hàng từ nguồn vốn đó đem lại lợi nhuận
cao cho ngân hàng.
Chỉ tiêu này được đánh giá qua mức độ tăng giảm vốn huy động. Nếu vốn
huy động tăng đều qua các năm, có tốc độ gia tăng ổn định, đều đặn thì vốn đó
được coi là có hiệu quả trong việc huy động.
1.3.3.5. Một số chỉ tiêu định tính khác
Bên cạnh các chỉ tiêu định lượng trên, các ngân hàng còn sử dụng một số
chỉ tiêu định tính khi xem xét nguồn vốn huy động có mang lại hiệu quả hay không

như: Cơ cấu, kỳ hạn của nguồn vốn huy động có đảm bảo được sự cân đối kỳ hạn
của các khoản ngân hàng cho vay hay không? Tính thanh khoản của nguồn vốn huy
động có cao hay không? Quy mô của nguồn vốn có ổn định hay không? Cụ thể:
- Cơ cấu, kỳ hạn của nguồn vốn huy động phải đảm bảo được sự cân đối
với kỳ hạn của các khoản cho vay của ngân hàng. Bởi lẽ nguồn tiền mà ngân hàng
cho khách hàng vay có được chủ yếu do ngân hàng đi vay từ các cá nhân, tổ chức
khác trong xã hội. Nếu không có sự tương thích giữa kỳ hạn, cơ cấu nguồn huy
động với các khoản cho vay sẽ dẫn tới sự lãng phí hay thiếu an toàn trong hoạt
động của ngân hàng. Cụ thể, các khoản cho vay trung và dài hạn thì nguồn vốn huy
động cũng phải từ các nguồn trung và dài hạn, các khoản cho vay ngắn hạn thì
nguồn vốn huy động cũng phải từ các nguồn ngắn hạn. Nếu dùng nguồn trung và
dài hạn để cho vay ngắn hạn thì sẽ dẫn tới sự lãng phí, do chi phí bỏ ra để huy
động thì lớn, mà khoản thu về từ cho vay ngắn hạn lại nhỏ. Nếu dùng nguồn ngắn
hạn để cho vay trung và dài hạn sẽ rất dễ gây ra tình trạng mất khả năng thanh
toán. Do với các nguồn huy động ngắn hạn, tuy chi phí huy động nhỏ nhưng thời
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 22 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
gian phải hoàn trả cho khách hàng là ngắn, chưa tính đến khả năng khách hàng có
thể rút tiền bất cứ lúc nào. Bên cạnh đó, các khoản cho vay trung và dài hạn lại
phải chờ đến thời gian đáo hạn mới có thể thu hồi lại được. Trong khi nợ không
đòi được, nguồn vốn đã huy động lại bị giảm, ngân hàng sẽ rất dễ lâm vào tình
trạng khó khăn.
- Tính thanh khoản của nguồn vốn: Quy luật trong hoạt động kinh doanh
dù ở bất cứ lĩnh vực nào là chịu sự rủi ro càng cao thì cơ hội sinh lời càng cao,
nghĩa là để có được khoản lợi nhuận lớn thì phải biết chấp nhận rủi ro và khả năng
mất mát lớn. Do vậy, khi ngân hàng lựa chọn danh mục nguồn vốn có chi phí huy
động thấp thì đồng nghĩa với nó là ngân hàng sẽ phải chịu những biến động bất
thường từ nguồn vốn vì những nguồn vốn có chi phí thấp là những nguồn vốn
thường có kỳ hạn ngắn, tính thanh khoản cao. Khi đó ngân hàng sẽ giảm bớt được
chi phí về lãi suất nhưng bù lại phải tăng thêm chi phí về huy động và tìm kiếm các

nguồn vốn mới, đồng thời cũng phải tăng dự trữ tại ngân hàng để đảm bảo khả
năng thanh toán, không để xảy ra tình trạng mất khả năng thanh khoản. Trong
hoạt động của ngân hàng, mất khả năng thanh khoản sẽ dẫn tới những hậu quả
gây thiệt hại rất lớn. Khi xảy ra tình trạng này, lòng tin của người gửi tại ngân hàng
sẽ bị lung lay. Lo sợ bị mất vốn là tâm lý chung của khách hàng, dẫn tới việc rút vốn
hàng loạt, đẩy ngân hàng nhanh chóng rơi vào tình trạng khó khăn. Điểm đặc biệt
trong hoạt động ngân hàng là khi một ngân hàng bị khủng hoảng sẽ kéo theo sự
khủng hoảng của toàn bộ hệ thống. Do vậy, trong hoạt động của mình, các ngân
hàng luôn đặc biệt quan tâm đến việc đảm bảo khả năng thanh toán. Để hoạt động
huy động vốn đem lại hiệu quả, các nhà quản trị ngân hàng luôn phải cẩn đối giữa
các nguồn vốn huy động với khả năng thanh khoản của chúng.
- Tính ổn định của nguồn vốn: Một nguồn vốn huy động được ngoài yêu
cầu về chi phí hợp lý còn cần phải đảm bảo tính ổn định của nó, tức là không có sự
thay đổi đột ngột trong thời gian sử dụng nguồn vốn đó của ngân hàng. Chỉ tiêu
này được đánh giá qua tốc độ tăng giảm của nguồn vốn qua các năm. Nếu vốn có
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 23 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
tốc độ tăng trưởng đều đặn thì chất lượng huy động vốn của ngân hàng có thể
được coi là tốt. Nếu ngân hàng không đánh giá được tính ổn định của nguồn vốn
thì sẽ ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng, tạo cho ngân hàng những rủi ro
không lường trước được.
1.3.4.Nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả huy động vốn
1.3.4.1. Nhân tố chủ quan
Hiệu quả trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng được đánh giá bằng
tỷ lệ giữa kết quả và chi phí để thu được kết quả đó. Như vậy, ngay trong chính chỉ
tiêu hiệu quả trên đã chỉ ra rằng kết quả và chi phí huy động vừa là bộ phận cấu
thành vừa là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả. Như vậy các nhân tố ảnh hưởng tới
kết quả và chi phí chính là các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động huy động
vốn.
1.3.4.1.1. Chính sách lãi suất của ngân hàng

Lãi suất được coi là giá cả của các sản phẩm dịch vụ tài chính. Ngân hàng sử
dụng hệ thống lãi suất tiền gửi như một công cụ quan trọng trong việc huy động
tiền gửi và thay đổi quy mô nguồn vốn. Để duy trì và thu hút thêm nguồn vốn,
ngân hàng cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh, thực hiện những ưu đãi về giá cho
những khách hàng lớn, gửi tiền thường xuyên. Hơn nữa hệ thống lãi suất cần linh
hoạt, phù hợp với quy mô và cơ cấu nguồn vốn.
Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần phải chú ý rất nhiều đến lãi suất tiền vay để
có thể có các hoạt động kinh doanh hợp lý, đem lại các khoản thu nhập cao nhất
cho ngân hàng để bù đắp được các khoản chi phí đã bỏ ra và vẫn mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng.
1.3.4.1.2. Mạng lưới huy động vốn của ngân hàng
Mạng lưới hoạt động của ngân hàng và các hình thức huy động vốn càng đa
dạng, phóng phú thì kết quả huy động vốn càng nhiều về số lượng do việc thực hiện
được dịch vụ trọn gói và mở rộng dịch vụ ngân hàng. Các khoản tiền tiết kiệm của
dân cư thường là các khoản tiền nhỏ. Vì vậy, nếu việc tiếp cận với ngân hàng khó
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 24 Lớp LTDH9-NHM
Chuyên đề tốt nghiệp
khăn sẽ tạo ra cho khách hàng tâm lý ngại đến ngân hàng. Với một mạng lưới rộng
khắp, tạo ra sự sễ dàng trong việc tiếp cận ngân hàng của người dân thì ngân hàng
sẽ dễ dàng thu hút được các khoản tiền gửi đó một cách có hiệu quả.
1.3.4.1.3. Hoạt động marketing của ngân hàng
Mục tiêu cuối cùng là thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng vừa đảm bảo
khả năng sinh lời, kảh năng cạnh tranh an toàn trong kinh doanh thì marketing đã
trở thành công cụ không thể thiếu được trong Ngân hàng hiện nay.
Hoạt động ngân hàng có tính xã hội hoá cao, phụ thuộc chặt chẽ vào môi
trường kinh doanh như môi trường dân cư, môi trường kinh tế, môi trường chính
trị, nên sự thay đổi của bất kỳ yếu tố nào cũng ảnh hưởng quan trọng đến hoạt
động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng.
Chính sách marketing có hai nhiệm vụ chính:
Nắm bắt kịp thời sự thay đổi môi trường, thị trường cũng như nhu cầu của

khách hàng đối với dịch vụ sản phẩm mà ngân hàng cung cấp.
Xây dựng chính sách, giải pháp thích hợp để thắng đối thủ cạnh tranh đạt
được mục tiêu lợi nhuận.
Việc nắm bắt kịp thời sự thay đổi của môi trường, nhu cầu sẽ giúp ngân
hàng đưa ra được những sản phẩm phù hợp, linh hoạt góp phần dáp ứng được
nhu cầu của khách hàng đồng thời thu hút được lượng vốn lớn. Cũng từ việc
nghiên cứu thị trường, ngân hàng sẽ đưa ra những sản phẩm mới.
Mặt khác chính sách khuếch trương sẽ giúp người dân hiểu rõ ràng, đầy đủ
về ngân hàng thông qua phương tiện thông tin đại chúng xây dựng một hình ảnh
nhân viên ngân hàng tận tình, chu đáo, có trình độ chuyên môn, sẽ tạo lòng tin
với khách hàng.
Như vậy chính sách marketing có ảnh hưởng quan trọng đến khả năng huy
động vốn nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung
1.3.4.1.4. Tổ chức nhân sự
Sinh viên Nguyễn Ngọc Thoa 25 Lớp LTDH9-NHM

×