Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Giá trị tập thơ Từ ấy của Tố Hữu ( Luận văn ThS. Văn học )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 101 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM THU TRANG




GIÁ TRỊ TẬP THƠ “TỪ ẤY”
CỦA TỐ HỮU




LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC








Hà Nội -2014



1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM THU TRANG



GIÁ TRỊ TẬP THƠ “TỪ ẤY”
CỦA TỐ HỮU



LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 60220120


Người hướng dẫn khoa học: TS. Diêu Thị Lan Phương







Hà Nội -2014

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

3

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Diêu
Thị Lan Phương, người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi hoàn thành luận
văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy cô và các cán bộ trong khoa đã cung
cấp cho tôi những kiến thức chuyên môn quý báu, giúp đỡ và tạo điều kiện
thuận lợi về cơ sở vật chất trong suốt thời gian tôi học tập và thực hành ở
Khoa.
Tôi cũng xin cảm ơn Phòng sau đại học, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn đã tạo điều kiện cho tôi có thời gian hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, người thân và
bạn bè đã luôn ở bên cạnh khuyến khích, động viên giúp tôi vượt qua những
khó khăn để hoàn thành khóa học của mình.


Phạm Thu Trang
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

4

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất cứ công trình nào khác.

Tác giả



Phạm Thu Trang
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

5

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Lịch sử vấn đề 7
2.1. Những bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu 7
2.2. Xung quanh tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu 8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10
4. Mục đích nghiên cứu 10
5. Phương pháp nghiên cứu 10
6. Cấu trúc của Luận văn 10
Chương 1. NHÀ THƠ TỐ HỮU VÀ DÒNG VĂN HỌC CÁCH MẠNG 11
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp thơ Tố Hữu 11
1.1.1 Vài nét về cuộc đời Tố Hữu 11
1.1.2. Khái quát về sự nghiệp thơ của Tố Hữu 13
1.2. Tập thơ “Từ ấy” trong sự nghiệp thơ Tố Hữu 16
1.3. Sự phát triển của văn học cách mạng Việt Nam 1930 - 1946 19
TIỂU KẾT 23
Chương 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TẬP THƠ “TỪ ẤY” 24

2.1. Hình tượng cái tôi trữ tình 24
2.1.1. Sự khát khao và say mê lý tưởng của người chiến sĩ cách mạng 24
2.1.2. Những chuyển biến về tình cảm của người chiến sĩ sau khi bắt gặp lý tưởng cách
mạng 33
2.1.3. Sự tin tưởng, lạc quan của người chiến sĩ đối với cuộc cách mạng của dân tộc 40
2.2. Các cảm hứng chủ đạo 44
2.2.1. Cảm hứng yêu nước 44
2.2.2. Cảm hứng nhân đạo 48
2.2.3. Cảm hứng hiện thực 57
TIỂU KẾT 63
Chương 3. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TẬP THƠ “TỪ ẤY” 64
3.1. Thể thơ 64
3.2. Ngôn ngữ và giọng điệu 66
3.2.1. Ngôn ngữ thơ Tố Hữu 66
3.2.2. Giọng điệu thơ Tố Hữu 74
3.3. Niêm luật và vần 79
3.4. Hệ thống hình ảnh 82
3.4.1. Hình ảnh con đường 82
3.4.2. Hình ảnh dòng sông 86
3.4.3. Hình ảnh con thuyền 89
3.4.4. Hình ảnh ngọn cờ 91
TIỂU KẾT 94
KẾT LUẬN 96
MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong lịch sử văn học cách mạng nước nhà, hiếm thấy nhà thơ nào có
những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng như thơ Tố Hữu. Trong thơ ông
lấp lánh tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, tình yêu lí tưởng cách mạng
cao đẹp, trong sáng.
Là cánh chim đầu đàn, thơ Tố Hữu gắn liền với các chặng đường cách
mạng của dân tộc từ trước cách mạng tháng Tám đến thời kỳ đầu đổi mới.
Phong Lan và Mai Hương đã nhận xét: Trên bầu trời của văn học Việt Nam
hiện đại, Tố Hữu luôn được coi là ngôi sao sáng, là người mở đầu và dẫn đầu
tiêu biểu cho thơ ca cách mạng. Sáu mươi năm gắn bó với hoạt động cách
mạng và sáng tạo thơ ca, ông thực sự tạo nên được niềm yêu mến, nỗi đam
mê bền chắc trong nhiều độc giả. Ông là người đem đến cho công chúng và
rồi cũng nhận lại từ họ sự đồng điệu, đồng cảm, đồng tình tuyệt diệu, xứng
đáng là niềm mơ ước của mọi sự nghiệp thơ ca, kể cả những nhà thơ lớn cùng
thời với ông” [1, tr.20]. Hơn nửa thế kỷ, thơ Tố Hữu luôn thu hút được sự
quan tâm của giới phê bình, nghiên cứu văn học và là đối tượng giảng dạy
trong nhà trường phổ thông.
Đặc điểm chính của thơ Tố Hữu là tính trữ tình chính trị. Mọi sự kiện,
vấn đề lớn của đời sống cách mạng, lí tưởng chính trị, những tình cảm chính
trị thông qua trái tim nhạy cảm của nhà thơ đều có thể trở thành đề tài và cảm
hứng nghệ thuật thực sự. Tố Hữu là nhà thơ của lẽ sống lớn, của những tình
cảm lớn, niềm vui lớn của cách mạng và con người cách mạng. Đặc biệt, ở
những bước ngoặt trong đời sống cách mạng của dân tộc, hồn thơ Tố Hữu
thường nhạy bén và dạt dào cảm hứng, kết tinh trong những bài thơ đặc sắc,
đạt đến sự đồng cảm và được hưởng ứng rộng rãi. Nói về tính trữ tình chính
trị trong thơ Tố Hữu, Xuân Diệu có lần khẳng định: “Tố Hữu đã đặt thơ chính
trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”. Như vậy, thơ Tố Hữu là một thành
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

7


công xuất sắc của thơ cách mạng, và kế tục một truyền thống tốt đẹp của thơ
ca Việt Nam qua nhiều thời đại.
Sự nghiệp sáng tác đồ sộ của Tố Hữu là một bộ phận không thể thiếu
trong nền văn học hiện đại. Trong hơn nửa thể kỉ qua, thơ Tố Hữu luôn có
mặt trong sách giáo khoa Ngữ văn ở các cấp học. Thơ ông đã “đốt lửa’ và
“truyền lửa” tới muôn triệu trái tim bạn đọc. Đồng thời thơ Tố Hữu đã trở
thành đối tượng nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, phê bình có tên tuổi
trong nước cũng như nước ngoài, ở nhiều góc độ, bình diện khác nhau.
Chọn đề tài Giá trị của tập thơ “Từ ấy” , người viết mong muốn khẳng
định lại những giá trị và vị trí của tập thơ đối với nền văn học cách mạng giai
đoạn 1930 -1946 nói riêng và nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
Đồng thời góp phần nhìn nhận và đánh giá đầy đủ hơn những những đóng
góp của nhà thơ trên nhiều phương diện.
2. Lịch sử vấn đề
Trong suốt thời gian qua, thơ Tố Hữu luôn là đối tượng nghiên cứu của
các nhà nghiên cứu, phê bình trong và ngoài nước. Xuất phát từ những góc
độ, khía cạnh tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đều gặp gỡ và thống
nhất trong đánh giá: Tố Hữu là một phong cách lớn của nền văn học dân tộc.
Thơ ông không chỉ đặc sắc ở nội dung, tư tưởng mà còn có giá trị đặc sắc về
nghệ thuật như phong cách và ngôn ngữ thơ. Chính vì thế, cho đến nay đã có
rất nhiều công trình biên khảo chuyên sâu về thơ ông.
2.1. Những bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu
Ngay từ khi thơ Tố Hữu mới xuất hiện rải rác trên các báo chí cách mạng
vào những năm cuối thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, cùng với sự đón
nhận nồng nhiệt của công chúng, giới văn học cách mạng đã đánh giá cao thơ
ông. Trong bài viết đầu tiên giới thiệu về thơ Tố Hữu, tác giả K và T đã khẳng
định: “Thơ Tố Hữu là cả một nguồn sinh lực đem phụng sự cho lý tưởng”.
“Với Tố Hữu, chúng ta có một nhà thơ cách mạng có tài” “nhà thơ chiến sĩ”,
“nhà thơ của tương lai”…[33]
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu


8

Từ sau 1954 cho đến sau 1975, có rất nhiều bài viết về thơ Tố Hữu. Đặc
biệt có ba công trình biên khảo chuyên sâu về thơ ông, đó là: “Thơ Tố Hữu”
của Lê Đình Kỵ (1979); “Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói
đồng chí” của Nguyễn Văn Hạnh (1985); “Thi pháp thơ Tố Hữu” của Trần
Đình Sử (1987). Hai công trình đầu tiếp cận thơ Tố Hữu theo phương pháp
truyền thống, kết hợp khảo cứu công phu, khoa học với cảm thụ nghệ thuật
tinh tế. Hai tác giả đã lần đầu tiên nghiên cứu thơ Tố Hữu như một chỉnh thể
toàn vẹn, có hệ thống, với nhiều phát hiện và đánh giá quý báu theo phương
pháp nghiên cứu Mácxít. Công trình “Thi pháp thơ Tố Hữu” của Trần Đình
Sử tiếp cận thơ Tố Hữu theo hướng thi pháp học đem đến những cảm nhận và
đánh giá mới mẻ.
Bên cạnh đó còn có Hà Minh Đức. Ông cũng là một người bền bỉ,
chuyên tâm nghiên cứu về thơ Tố Hữu. Ông có hai lời giới thiệu công phu
cho hai tuyển tập thơ Tố Hữu.
Ngoài ra còn có rất nhiều bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu ở trong và ở
ngoài nước, tiêu biểu như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông,
Nguyễn Đăng Mạnh, Vũ Đức Phúc…Nhìn chung các bài nghiên cứu đều có
sự nhìn nhận đánh giá những giá trị cơ bản và nghệ thuật của thơ Tố Hữu.
2.2. Xung quanh tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu
Hơn nửa thế kỷ qua, từ tập thơ đầu tay “Từ ấy”, đến các tập “Việt Bắc”,
“Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và Hoa”…đã có hàng trăm bài viết, công trình
nghiên cứu phê bình phong phú, đa dạng theo đời thơ Tố Hữu .
Riêng với “Từ ấy”, có nhiều bài phê bình, đánh giá nằm rải rác trong các
cuốn sách, các tạp chí. Chúng ta có thể kể tới các tác phẩm tiêu biểu như sau:
“Từ ấy” tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản của Hoài Thanh,
Tạp chí nghiên cứu văn học, số 4, 1960; Cái mới của “Từ ấy”- những bài thơ
đầu tiên của Tố Hữu, Như Phong, Nxb Văn học, Hà Nội, 1959; Đọc tập thơ

“Từ ấy” của Tố Hữu, Tế Hanh, Báo Văn học, số 49, 50, năm 1959; Về giá trị
tập thơ “Từ ấy” và phương pháp sáng tác của Tố Hữu, Hoàng Minh Châu,
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

9

Báo văn nghệ, số 71, 1959; Vài cảm nghĩ về tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu,
Thanh Tịnh, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 8, 1959 Các bài nghiên cứu đã
thể hiện quan điểm riêng của các tác giả khi nhận xét và phê bình về thơ Tố
Hữu. Nhiều tác giả đã có những nhận xét đánh giá hết sức xác đáng và sâu sắc
về tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu.
Tiếp đến là các công trình mang tính riêng biệt, có quy mô lớn. Đó là
tuyển tập, sách xuất bản viết về tập thơ “Từ ấy” như: “Từ ấy” tiếng hát của
người thanh niên cộng sản, Phê bình và tiểu luận, Tập I, Nxb Văn học, 1960;
Cái mới của “Từ ấy” Những bài thơ đầu tiên của Tố Hữu, Như Phong,
Bình luận văn học, in lần thứ 3, Nxb Văn học, 1977; Giới thiệu Tuyển tập thơ
“Từ ấy” và “Việt Bắc”, Phong Châu, Đái Xuân Ninh, Nxb Giáo dục, 1960.
Trong cuốn sách tham khảo mang tựa đề “Từ ấy” - Tác phẩm và lời bình của
Tôn Thảo Miên, Nxb Văn học, năm 2005, ngoài phần trích tập thơ “Từ ấy”,
tác giả còn lồng ghép vào đó nhiều bài phân tích các bài thơ trong tập thơ của
các tác giả như: Đặng Thai Mai với Mấy ý nghĩ - Từ ấy trong tôi bừng nắng
hạ; Xuân Diệu với “Từ ấy” – tiếng hát của một người thanh niên; Phan Cự
Đệ với Tiếng hát đi đày; Trần Đình Sử với bài Bà Má Hậu Giang Đó là
những bài viết hay.
Thơ của Tố Hữu nói chung và tập thơ “Từ ấy” của ông nói riêng có sức
hút lớn. Do đó, nhiều công trình nghiên cứu, phê bình văn học nghiên cứu chú
ý đến nó và được người đọc đón nhận. Đây là những kết quả nghiên cứu rất
có giá trị, khẳng định sự dày công tìm tòi nghiêm túc của các học giả, các nhà
nghiên cứu và những người đam mê thơ Tố Hữu. Tuy nhiên, chưa có một
công trình nghiên cứu riêng biệt về tập thơ “Từ ấy” với tư cách đóng góp vào

dòng văn học cách mạng Việt Nam cũng như về vị trí của của nó trong giai
đoạn 1930-1945. Đây là chỗ khuyết, gợi mở nhiều hướng nghiên cứu mới.



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

10

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tập thơ “Từ ấy”. Tập thơ được
nghiên cứu trên hai bình diện. Một là giá trị nội dung và hai là giá trị nghệ
thuật của tập thơ.
Để khai thác, nghiên cứu đối tượng được cụ thể, sâu sắc, chúng tôi
khoanh vùng phạm vi nghiên cứu từ chỗ rộng là văn học cách mạng đến chỗ
hẹp hơn là toàn bộ thơ ca cách mạng của Tố Hữu.
4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm chỉ rõ những giá trị về mặt nội dung và nghệ thuật của
tập thơ “Từ ấy”, đồng thời chỉ ra, khẳng định vai trò của tập thơ trong nền thơ
ca kháng chiến chống Pháp và rộng ra là nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
Chúng tôi cũng hi vọng, luận văn sẽ giúp làm phong phú thêm kho tài
liệu nghiên cứu về đời thơ Tố Hữu nói chung và tập “Từ ấy” nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phương pháp lịch sử, phương
pháp xã hội học, phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống
- Phương pháp chuyên ngành: Phương pháp tiếp cận Thi pháp học,
phương pháp phân tích, so sánh - đối chiếu, phương pháp tổng hợp.
6. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1. Nhà thơ Tố Hữu và dòng văn học cách mạng
Chương 2. Giá trị nội dung của tập thơ “Từ ấy”
Chương 3. Giá trị nghệ thuật của tập thơ “Từ ấy”
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

11

NỘI DUNG
Chương 1. NHÀ THƠ TỐ HỮU VÀ DÒNG VĂN HỌC CÁCH MẠNG
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp thơ Tố Hữu
1.1.1 Vài nét về cuộc đời Tố Hữu
Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4-10-1920, quê ở
làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Thừa Thiên - Huế là vùng đất nghèo nhưng phong cảnh thiên nhiên xinh
đẹp, hữu tình. Xứ Huế còn nổi tiếng là một vùng văn hóa phong phú, đậm đà
bản sắc dân tộc, bao gồm cả văn hóa cung đình và văn hóa dân gian với
những điệu ca, điệu hò như Nam ai, Nam bình, mái nhì, mái đẩy độc đáo. Tố
Hữu đã từng được sống trong bầu không khí văn hóa của quê hương mình. Có
lẽ chính điều đó đã mang đến cho thơ Tố Hữu âm hưởng và phong vị dân gian
đậm nét.
Bên cạnh đó, hồn thơ Tố Hữu còn được bồi đắp từ chính truyền thống
gia đình và sự giáo dục của cha và mẹ. Ông thân sinh là một nhà nho nghèo,
tuy không đỗ đạt và phải chật vật để kiếm sống bằng nhiều nghề nhưng lại
ham thơ và thích sưu tầm ca dao tục ngữ. Từ thuở nhỏ, Tố Hữu đã được cha
dạy làm thơ theo những lối cổ. Còn bà mẹ Tố Hữu là con một nhà nho, thuộc
nhiều ca dao, dân ca xứ Huế và rất giầu tình thường con. Từ thuở nằm nôi, Tố
Hữu đã được mẹ ấp ủ và ru bằng tiếng hát ngọt êm của người đàn bà xứ Huế.
Có thể khẳng định rằng: Truyền thống gia đình cùng với quê hương xứ Huế
đã góp phần quan trọng vào sự hình thành hồn thơ Tố Hữu.
Bước vào tuổi thanh niên đúng vào những năm phong trào Mặt trận Dân

chủ do Đảng Cộng sản lãnh đạo đang dấy lên sôi nổi trong cả nước, mà Huế
là một trong những trung tâm sôi động nhất, Tố Hữu đã may mắn đến được
với lí tưởng cách mạng, tin và đi theo sự lãnh đạo của Đảng. Ngay cả những
lúc bị bắt giam trong lao ngục, ông vẫn một lòng hi sinh cho lý tưởng. Tố
Hữu đã nhiều lần vượt qua những giây phút cam go, khốc liệt nhất của dân
tộc và cả những lúc trên đỉnh cao của chiến thắng vinh quang. Dù ở thời điểm
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

12

nào cũng vậy, Tố Hữu vẫn là con người của Đảng, của nhân dân. Ông chưa
bao giờ xa rời hay phai nhạt lý tưởng cách mạng. Ông làm thơ vì cách mạng
và nhờ cách mạng, những vần thơ của Tố Hữu bay cao và vang xa.
Được lôi cuốn vào phong trào đấu tranh, Tố Hữu đã trở thành người lãnh
đạo chủ chốt của Đoàn thanh niên Dân chủ ở Huế. Năm 1938, Tố Hữu được
kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và từ đó ông hoàn toàn tự nguyện
hiến dâng cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng. Đầu năm 1939, thực dân Pháp
trở lại đàn áp phong trào cách mạng ở Đông Dương. Cuối tháng năm ấy Tố
Hữu bị bắt, giam tại nhà lao Thừa Thiên, rồi lần lượt bị giam giữ trong nhiều
nhà tù ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Tháng 3 - 1942, Tố Hữu đã
vượt ngục Đắc Lay (Kon Tum), vượt hàng trăm cây số đường rừng, thoát khỏi
sự vây lùng của kẻ thù, tìm ra Thanh Hoá, bắt liên lạc với tổ chức cách mạng
và tiếp tục hoạt động. Cách mạng tháng Tám năm 1945, Tố Hữu là Chủ tịch
Uỷ ban khởi nghĩa ở Huế, lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở
thành phố quê hương.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Tố Hữu được điều động ra Thanh Hoá
một thời gian, rồi lên Việt Bắc công tác ở cơ quan Trung ương Đảng, đặc
trách về văn hoá, văn nghệ. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
đế quốc Mĩ và cho đến năm 1986, Tố Hữu liên tục giữ những cương vị trọng
yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước (từng là Uỷ viên Bộ Chính

trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Tố Hữu mất
tại Hà Nội ngày 9-12-2002 sau một thời gian lâm bệnh nặng.
Con người Tố Hữu có sự thống nhất chặt chẽ giữa nhà cách mạng, nhà
chính trị và nhà thơ. Thơ và cách mạng- hai trong một ở con người Tố Hữu và
đó như mối tình duyên đẹp đẽ nhất, trong sáng nhất và cao cả nhất trong cuộc
đời, sự nghiệp thi ca của ông. Quá trình sáng tác của Tố Hữu gắn bó làm một
với quá trình hoạt động cách mạng của ông và các nhiệm vụ của Đảng qua
các giai đoạn lịch sử. Vì thế mà Tố Hữu được mệnh danh là người viết sử
Việt Nam bằng thơ. Ở Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

13

thống nhất chặt chẽ, sự nghiệp thơ gắn liền vời sự nghiệp cách mạng, trở
thành một bộ phận của sự nghiệp cách mạng.
1.1.2. Khái quát về sự nghiệp thơ của Tố Hữu
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt
Nam. Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật
những chặng đường cách mạng. Đồng thời, đó cũng là những chặng đường
vận động trong quan điểm tư tưởng và nghệ thuật của chính nhà thơ. Hơn 60
năm sáng tác, Tố Hữu là nhà thơ luôn sống trong sinh hoạt tinh thần của dân
tộc Việt Nam thế kỷ XX.
Tập thơ “Từ ấy” (1937- 1946) là tập thơ đầu tay của Tố Hữu viết trong
hoàn cảnh đất nước còn trong tình cảnh nô lệ và trong bối cảnh phong trào
Thơ mới đã tiến hành xong một cuộc cách mạng trong thơ ca. Tập thơ “Từ
ấy” đánh dấu bước trưởng thành của người thanh niên quyết tâm đi theo ngọn
cờ của Đảng. Tập thơ chia làm 3 phần. Phần thứ nhất là “Máu lửa” gồm
những bài sáng tác trong thời kì Mặt trận Dân chủ. Nhà thơ cảm thông sâu sắc
với cuộc sống cơ cực của những người nghèo khổ trong xã hội (lão đầy tớ, chị
vú em, cô gái giang hồ, những em bé mồ côi, đi ở, hát dạo,…), đồng thời khơi

dậy ở họ ý chí đấu tranh và niềm tin vào tương lai.
Phần thứ hai là “Xiềng xích” gồm những bài sáng tác trong những nhà
lao lớn ở Trung Bộ và Tây Nguyên. Đó là tâm tư của người trẻ tuổi tha thiết
yêu đời và khát khao tự do, là ý chí kiên cường của người chiến sĩ quyết tâm
tiếp tục cuộc chiến đấu ngay trong nhà tù.
Phần thứ ba là “Giải phóng” gồm những bài sáng tác từ khi Tố Hữu
vượt ngục đến những ngày đầu giải phóng của toàn dân tộc. Nhà thơ nồng
nhiệt ca ngợi thắng lợi của cách mạng , nền độc lập, tự do của Tổ quốc, khẳng
định niềm tin tưởng vững chắc của nhân dân vào chế độ mới.
Tiếp sau “Từ ấy” là tập thơ “Việt Bắc” (1946 - 1954) là tiếng ca hùng
tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống Pháp và những con người kháng
chiến. Họ là những người lao động rất bình thường và cũng rất anh hùng. Với
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

14

tấm lòng yêu nước thắm thiết và cảm phục sâu xa, Tố Hữu đã miêu tả và ca
ngợi anh vệ quốc quân, bà mẹ nông dân, chị phụ nữ, em liên lạc,…Nhà thơ
ngợi ca vai trò của Đảng và Bác Hồ trong việc khơi nguồn và phát huy sức
mạnh của quân dân ta để đánh thắng kẻ thù. Nhiều tình cảm lớn được thể hiện
sâu đậm: tình quân dân “cá nước”, tiền tuyến với hậu phương, miền xuôi với
miền ngược, cán bộ với quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, tình yêu thiên
nhiên, yêu đất nước, tình cảm quốc tế vô sản,… Tập thơ kết thúc bằng những
bài hùng ca vang dội phản ánh khí thế chiến thắng hào hùng; tình cảm bồi hồi,
xúc động của dân tộc trong những giờ phút lịch sử.
Bước vào giai đoạn cách mạng mới, tập thơ “Gió lộng” (1955-1961) dạt
dào bao nguồn cảm hứng lớn lao. Nhà thơ hướng về quá khứ để thấm thía
những nỗi đau khổ của cha ông, công lao của những thế hệ đi trước mở
đường, từ đó ghi sâu ân tình của cách mạng. Qua sự cảm nhận của Tố Hữu,
cuộc sống mới trên miền Bắc thực sự là một ngày hội lớn, nhìn vào đâu cũng

thấy tràn đầy sức sống và niềm vui. Đất nước đau nỗi đau chia cắt, thơ Tố
Hữu là tình cảm thiết tha sâu nặng với miền Nam ruột thịt. Đó là nỗi nhớ
thương quê hương da diết, tiếng thét căm hận ngút trời, lời ngợi ca những con
người kiên trung, bất khuất, niềm tin không gì lay chuyển được vào ngày mai
thắng lợi thống nhất non sông.
Hai tập thơ “Ra trận” (1962- 1971), “Máu và hoa” ( 1972- 1977) âm
vang khí thế quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và niềm vui
toàn thắng. “Ra trận” là bản anh hùng ca về “Miền Nam trong lửa đạn sáng
ngời” với bao hình ảnh tiêu biểu cho dũng khí kiên cường của dân tộc: anh
giải phóng quân “con người đẹp nhất” người thợ điện “dáng hiên ngang vẫn
ngẩng cao đầu”, những “em thơ cũng ngẩng cao đầu”, bà mẹ “một tay lái
chiếc đò ngang”, anh công nhân “lấp hố bom mà dựng lò cao”, cô dân quân
“vai súng tay cày”,… “Máu và hoa” ghi lại một chặng đường cách mạng đầy
gian khổ, hi sinh, khẳng định niềm tin sâu sắc vào sức mạnh tiềm tàng của xứ
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

15

sở quê hương, cũng như của mỗi con người Việt Nam mới, biểu hiện niềm
tự hào và niềm vui phơi phới khi “toàn thắng về ta”.
“Một tiếng đờn” (1992) và “Ta với ta” (1999) là hai tập thơ đánh dấu
bước chuyển biến mới trong thơ Tố Hữu. Dòng chảy sôi động của cuộc sống
đời thường với bao vui buồn, được mất, sướng khổ, mừng lo khơi gợi trong
tâm hồn nhà thơ nhiều cảm xúc suy tư. Tố Hữu tìm đến những chiêm nghiệm
mang tính phổ quát về cuộc đời và con người. Vượt lên bao biến động thăng
trầm, thơ Tố Hữu vẫn kiên định niềm tin vào lý tưởng và con đường cách
mạng, tin vào chữ nhân luôn toả sáng ở mỗi người.
Tóm lại, có thể khẳng định rằng trong lịch sử văn học nước nhà, hiếm
thấy nhà thơ nào lại có những tác phẩm mang dấu ấn đặc trưng của một giai
đoạn lịch sử và đi vào lòng người như thơ Tố Hữu thế kỷ XX. Tình yêu lý

tưởng, yêu quê hương đất nước thiết tha sâu nặng đã hóa thân vào những vần
thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng. Nội
dung ấy được biểu lộ vừa thầm kín và tinh tế, vừa sâu sắc và đậm đà qua bảy
tập thơ nổi tiếng của Tố Hữu. Tố Hữu sôi nổi say sưa tự hát trong “Từ ấy”.
Tố Hữu hát về nhân dân anh hùng và dựng xây với tiếng hát ân tình thủy
chung trong kháng chiến trong “Việt Bắc” và “Gió lộng”. Tố Hữu kêu gọi
cuộc kháng chiến hào hùng trong “Ra trận”, “Máu và hoa”. Ông suy tư trầm
lắng trong “Một tiếng đờn”, “Ta với ta”. Tố Hữu đã từng bộc bạch: “thơ là
kết quả của sự nhập tâm đời sống, trí tuệ, tài năng của nhân dân ( ). Nhập
tâm từ tâm hồn tình cảm đến dáng đi, giọng nói, tiếng khóc, tiếng cười. Nhập
tâm đến mức độ nào đó thì thơ hình thành. Có thể nói thơ chỉ tràn ra khi trong
tim ta cuộc sống đã thật đầy” [39, tr. 54]. Đúng vậy cả đời thơ ông đều là
những lời gan ruột với lý tưởng, với nhân dân, đất nước và chính mình. Điều
đáng trân trọng hơn cả là trước sau thơ Tố Hữu vẫn kiên định niềm tin vào lý
tưởng và con đường cách mạng.


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

16

1.2. Tập thơ “Từ ấy” trong sự nghiệp thơ Tố Hữu
Từ khi ra đời ngày 03-02-1930, Đảng cộng sản Việt Nam đã trở thành
ánh sáng chỉ đường cho Tố Hữu mạnh dạn bước ra cuộc đời thực tại tăm tối
để đến với lý tưởng. Người thanh niên trí thức tiểu tư sản ấy đến với Đảng
bằng tâm trạng của con người sống lâu trong hầm tối nay được đón ngọn nắng
mới mùa xuân. Đảng đã xóa nhòa đi một thời băng giá, cái thuở mà phải
“đấm nát tay trước cửa cuộc đời”, thắp lên trong Tố Hữu niềm lạc quan tin
tưởng. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong tập thơ “Từ ấy”.
Tập thơ “Từ ấy” mang đến cho người đọc một ấn tượng sâu sắc, về

những cảm nghĩ, cảm xúc, tuy còn chút gì bỡ ngỡ, song nó đã thể hiện rất rõ
bước ngoặt trưởng thành của tư tưởng thơ Tố Hữu. “Từ ấy” là cái mốc đánh
dấu trên bước đường sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ, đưa ông trở thành lá cờ
đầu trong dòng thơ cách mạng Việt Nam.
“Từ ấy” thể hiện rõ con người Tố Hữu. Trong thơ và ngoài đời, ở Tố
Hữu luôn có hai con người, con người chiến sĩ và con người thi sĩ. Trên mặt
trận có tiếng súng, con người chiến sĩ ấy mặt giáp mặt với kẻ thù, thế nhưng
vẫn: "không xa rời hàng ngũ", "chiến đấu đến cạn máu tàn hơi”. Và trên mặt
trận không tiếng súng (hay mặt trận tư tưởng văn hóa), ông với vai trò là một
thi sĩ đã sử dụng những vần thơ của mình để động viên, để chiến đấu cùng với
người cầm súng. Cả hai con người trên hai thế trận, đều hòa quyện vào nhau,
đều sẵn sàng xung trận.
Bên cạnh đó, “Từ ấy” là tiếng nói đau thương, là cái trăn trở trước thực
tại xã hội. Nó cũng là tiếng chuyển bước của một con người; là niềm tin của
người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi Tố Hữu với cách mạng thời kỳ trứng nước.
“Từ ấy” gồm ba tập thơ nhỏ được coi là ba phần: “Máu lửa” được sáng
tác 19 tháng từ 10-1937 đến tháng 04-1939; “Xiềng xích” được sáng tác trong
03 năm ở tù (1939-1942); “Giải phóng” được sáng tác vào năm 1942 – 1946.
Ba phần trong tập thơ là công trình sáng tác kết tinh trong cả một quá trình lâu
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

17

dài đấu tranh - "một thời kỳ, ba giai đoạn" trong hoạt động cách mạng của thi
sĩ.
Tập thứ nhất, “Máu lửa” viết vào khoảng từ cuối 1937 đến đầu 1939.
Đây là thời kỳ lãnh đạo đấu tranh công khai của Đảng và nhân dân trên tất cả
các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa. Đây cũng là thời kỳ đấu tranh ở các nhà
máy, ở nông thôn, ở thành thị, dưới khẩu hiệu hòa bình, cơm áo, tự do; thời
kỳ truyền bá học quốc ngữ, mở báo chí, phổ biến sách báo tiến bộ, chống chủ

nghĩa duy tâm trong lĩnh vực tư tưởng cũng như trong lĩnh vực nghệ thuật;
thời kỳ cao trào đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít khắp nơi trên thế giới.
“Máu lửa” của Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc, chân thực cuộc chuyển
mình của dân tộc trong bối cảnh lịch sử đó. Đồng thời cũng phản ánh sự
chuyển mình trong chính tư tưởng của nhà thơ. Tinh thần nhân đạo chủ nghĩa
tích cực, mối đồng tình với những người bị hắt hủi, áp bức; lòng căm hờn đối
với bao cảnh trái ngược trên đời; lòng tin tưởng sắt đá vào ngày mai là
những gì “Máu lửa” thể hiện. Một thứ lạc quan chủ nghĩa cách mạng tràn lan
khắp các bài thơ, khi véo von, khi hùng tráng thể hiện tâm trạng hứng khởi
của một người cộng sản trẻ tuổi, dũng cảm bước trên trường tranh đấu. Có thể
nói, tập “Máu lửa” thể hiện chủ đề duy nhất: Giác ngộ.
Mâu thuẫn nội bộ trong xã hội tư bản đã phát triển đến một trình độ gay
gắt. Chính sách thỏa hiệp của bọn tư bản không hề thỏa mãn lòng tham của
bọn phát xít Đức, Ý, Nhật. Chỉ một năm sau, chiến tranh thế giới lần thứ hai
bùng nổ. Cả thế giới sống những năm tháng đen tối cho đến ngày Hồng quân
phản công, Sờ-ta-lin-gơ-rát mở đường chiến thắng. Những năm ấy cũng là
những năm hết sức đen tối trong lịch sử nước nhà. Các nhà tù Sơn La, Lao
Bảo, Côn Lôn, các trại tập trung khắp nơi lại chật ních những tù nhân chính
trị. Tố Hữu cũng đã bị tù trong giai đoạn này và đó là lí do “Xiềng xích” ra đời.
Qua tập “Xiềng xích” người đọc có thể hiểu thêm về bước đường lưu
đày của một đảng viên kiên trung - Tố Hữu. Trong thử thách gian khổ, giữa
mũi súng, lưỡi lê, roi vọt, xiềng xích của chế độ tù ngục thực dân, từ nhà lao
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

18

Thừa Thiên (1939-1940) lên Lao Bảo (1940-1941), rồi về Quy Nhơn (1941-
1942), rồi lại đi đày lên tận chốn rừng xa núi thẳm, Tố Hữu vẫn giữ cho mình
lập trường cứng cỏi, gan góc và tin tưởng tuyệt đối vào Đảng.
“Xiềng xích” của Tố Hữu là những vần thơ đầy sự khao khát tự do. Dù

bị tù đày, nhà thơ vẫn lắng nghe sau tầng cửa sắt những tiếng dội thưa thớt
của cuộc sống bên ngoài "Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về" để từ đó mà
bâng khuâng nỗi "nhớ người", "nhớ đồng" và nỗi khao khát được tự do để
hoạt động cách mạng. “Xiềng xích” còn là thơ của người chiến sĩ lòng dặn
lòng quyết không bao giờ nản chí, khuất phục trước quân thù. “Xiềng xích”
cũng là những vần thơ xót xa, yêu thương, nâng niu của tác giả đối với những
mảnh đời cơ cực, những số phận bị chiến tranh, chế độ thực dân phong kiến
làm cho khốn khổ. Tình cảm cách mạng, tình yêu đất nước quê hương, yêu
nhân loại và chí căm thù đối với lũ cướp nước là những tình cảm đẹp đẽ
được thể hiện trong tập thơ này.
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Thực dân Pháp, theo gót quân đế quốc Anh, lại bắt đầu gây chiến
tranh ở miền Nam. Một năm sau, cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Cách
mạng dân tộc bước vào giai đoạn mới Những nhà thơ như Tố Hữu trở thành
chiến sĩ hoặc được giao những trọng trách quan trọng của Đảng. Giai đoạn
1943-1944, Tố Hữu cho ra đời tập thơ “Giải phóng”, phần thứ ba của tập thơ
lớn “Từ ấy”.
Nội dung tư tưởng cũng như kỹ thuật biểu hiện của tập “Giải phóng” đã
có nhiều nét khác với hai tập trên. Mười mấy bài thơ trong phần này khai thác
cả một mạch thơ trữ tình phong phú. Trên đường thoát ly, người chiến sĩ bắt
đầu nhìn thấy một viễn cảnh tưng bừng :
Chân trời lui mãi lan lan rộng
Hy vọng tràn lên đồng mênh mông
(Dưới trưa, tháng 5-1942)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

19

Và sau đó là những ngày tháng, ông đấu tranh hăng hái quên mình bên cạnh

nhân dân. Sống và hoạt động trong tình thân ái đùm bọc của quần chúng, thi
sĩ đã tôi luyện tâm hồn thành hẳn một khối với những con người lao động :
Tháng ngày chát cổ cơm khoai sắn
Rách rưới lều che tạm gió sương
Hiểu nhau rồi, hiểu lắm bạn ơi
(Tương thân, tháng 9-1942)
Tình yêu giai cấp, lòng yêu nước, lòng tin tưởng đối với nhân dân, đối
với cách mạng, bấy nhiêu đề tài đã được biểu hiện vào trong “Giải phóng”.
Qua “Giải phóng”, Tố Hữu ca ngợi quần chúng, ca ngợi lãnh tụ, ca ngợi cách
mạng với nhiệt tình của người trí thức tiểu tư sản được khai sáng bởi lý tưởng
cộng sản:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
(Từ ấy, tháng 7-1938)
1.3. Sự phát triển của văn học cách mạng Việt Nam 1930 - 1946
Dòng văn học cách mạng giai đoạn 1930 - 1946 là dòng văn học phát
triển theo ý thức hệ của giai cấp vô sản. Nó chuyển biến song song với con
đường cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Có thể nói văn học cách mạng
là một bộ phận văn hóa tác động nhiều và mạnh nhất đến các tầng lớp nhân
dân. Nó trở thành vũ khí lợi hại, góp phần làm nên những chuyển biến tinh
thần vô cùng quan trọng trong lòng quần chúng:
“Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ
Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”
(Sóng Hồng)
Lịch sử 15 năm giai đoạn 1930-1945 được chia làm ba thời kỳ nhỏ, rõ
rệt, lấy thời Mặt trận Bình dân làm thời kỳ giữa. Trong luận văn, tôi phân chia
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu


20

thời kỳ này làm 3 chặng đường phát triển của văn học cách mạng, cụ thể như
sau:
* Thời kỳ đầu 1930-1935
Thời kỳ đầu 1930 đến 1935, cơ sở xã hội của văn học cách mạng thời kỳ
này là sự ra đời nhiều tổ chức Đảng (đặc biệt là Đảng Cộng sản Đông Dương)
và nhiều cuộc khởi nghĩa trong đó có khởi nghĩa Yên Bái. Văn học cách mạng
thời kỳ này đã được hình thành dựa trên nền tảng văn học dân gian chống
thực dân, ví như văn học dân gian vùng Nghệ Tĩnh. Những chiến sĩ Xô viết
Nghệ Tĩnh để thực hiện việc tuyên truyền, phát động quần chúng, họ sáng tác
ra những bài thơ truyền miệng. "Tất nhiên đây không phải là nền văn học dân
gian tự phát mà là tự giác, tiền thân của nền văn nghệ quần chúng sau này”
1
.
Nó mang dũng khí của một lực lượng mới, trẻ, bị áp bức, bóc lột hết sức nặng
nề nay vùng lên hết sức mãnh liệt. Do đó, nó trở thành vũ khí tư tưởng mang
tính kích động, đấu tranh và làm đế quốc Pháp lo sợ.
Dưới sự lớn mạnh của phong trào, đế quốc Pháp mở một cuộc khủng bố
dữ dội dìm phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh trong biển máu. Văn học cách
mạng do đó cũng đi vào thoái trào. Vào khoảng thời gian từ 1931-1933, nhiều
chiến sĩ vô sản, nhiều người sáng tác văn thơ cách mạng cũng bị bắt giam ở
nhiều nhà tù.
Tuy hoạt động ngắn ngủi, song văn học giai đoạn 1930 - 1935 cũng có
những đóng góp to lớn. Một là, nó góp phần thúc đẩy phong trào bình dân
ngày một lên cao, dẫn tới thời kỳ Mặt trận Bình dân. Hai là, lo sợ sức ảnh
hưởng của nó, bọn thống trị có những hành động làm dịu nỗi bất bình chung
của người nghèo, trí thức tiểu tư sản và thương nhân. Chúng lừa dân cải lương
nông thôn, cải lương thành thị, cải lương cả bộ mặt chùa chiền. Mặt khác bọn
thực dân tung cả một bộ máy tuyên truyền nói xấu Chủ nghĩa cộng sản, vu

cáo Liên Xô - thành trì của cách mạng, chia rẽ quần chúng. Chúng cho một


1
Phan Cự Đệ - Trần Đình Hượu (2005), Văn học Việt Nam 1900-1945, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, tr.
614.
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

21

bọn tay sai bồi bút ca tụng sức mạnh và văn minh “Đại Pháp”; đầu độc thanh
niên bằng đủ loại phong trào “vui vẻ, trẻ trung” như thi xe hoa; thi sắc đẹp và
bằng mọi thú lạc. Do dó, các tiệm khiêu vũ, các sòng bạc mọc lên như nấm.
* Thời kỳ 1936-1939
Sau thời kỳ thoái trào, phong trào cách mạng trong nước được phục hồi
dần dần. Trên thế giới có nhiều chuyển biến có lợi cho cách mạng. Trước hết
là bản nghị quyết của Đại hội quốc tế Cộng sản lần thứ bảy (vào tháng 7 năm
1935) ra đời. Bản nghị quyết nhận định: kẻ thù nguy hiểm nhất trước mắt
chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung, mà là chủ nghĩa phát xít; nhiệm vụ
cấp bách của công nhân thế giới là phải lập một mặt trận rộng rãi với các tầng
lớp nhân dân chống phát xít và chống chiến tranh do phát xít có thể gây nên.
Tháng 5 -1936 ở Pháp, Mặt trận dân chủ nhân dân lên cầm quyền. Còn ở Việt
Nam, Hội nghị Trung ương của Đảng Cộng sản quyết định tạm gác hai khẩu
hiệu: lật đổ sự thống trị của đế quốc Pháp và tịch thu ruộng đất của địa chủ
chia cho nông dân lao động để chủ trương thành lập một mặt trận thống nhất
rộng rãi.
Cuộc đấu tranh của Đảng và nhân dân ta giai đoạn 1936-1939 là vừa
công khai, vừa bí mật trên tất cả các mặt trận chính trị, kinh tế và văn hóa.
Khẩu hiệu là hòa bình cơm áo và tự do. Hàng loạt báo chí của Đảng nối tiếp
nhau ra đời. Có những tờ báo quen thuộc khắp cả nước như tờ Lao động, Hồn

trẻ, Thời thế, Tin tức, Nhành lúa, Dân chúng…Cùng với báo chí, tiếng nói
của Đảng Cộng sản được quần chúng đón nhận qua các loại sách Mác xít phổ
thông được xuất bản công khai, bán giá rất rẻ. Những quyển như “Vấn đề dân
cày” (Qua Ninh và Vân Đình), “Vấn đề giải phóng Đông Dương” (Vân
Đình) đã có ảnh hưởng tốt đến quần chúng.
Hòa chung không khí đó, văn học cách mạng thời kỳ này có bước phát
triển mạnh mẽ, vượt bậc. Nó phong phú về nội dung và hình thức thể hiện,
đem lại một diện mạo mới văn học hiện đại Việt Nam. Nhiều tác phẩm văn
học đỉnh cao của văn học hiện thực phê phán ra đời: “Giông tố”, “Số đỏ” của
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

22

Vũ Trọng Phụng, “Bỉ vỏ” của Nguyên Hồng, “Bước đường cùng” của
Nguyễn Công Hoan, “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố Những tác phẩm này đặt
nền móng cho sự phát triển vô cùng mạnh mẽ và công khai của nền văn học
cách mạng giai đoạn sau. Nó cũng có những đóng góp to lớn trong việc "chỉ
đường", mang đến sự giác ngộ cho tầng lớp trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ.
* Thời kỳ 1939-1946
Tình hình đất nước ta đầu giai đoạn 1939-1946 có nhiều ảnh hưởng tiêu
cực đến văn học. Những khuynh hướng tiến bộ đương trên đà phát triển của
thời kỳ Mặt Trận dân chủ bị khủng bố, đàn áp. Văn học phong kiến tạm dừng
một thời gian, nay lại phục hồi. Văn học cách mạng phải rút vào hoạt động bí
mật và cùng với Đảng, tiếp tục sứ mệnh cứu quốc thiêng liêng. Năm 1943 bản
Đề cương văn hóa được viết để chỉ đạo công tác văn hóa. Lần đầu tiên quan
điểm Mác- Lênin ở Việt Nam về văn hóa được trình bày rõ ràng. Tổ chức văn
hóa cứu quốc được thành lập, tập hợp văn nghệ sĩ yêu nước, tiến bộ như
Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng, Nam Cao, Kim Lân, Mạnh Phú Tứ, Nguyễn
Huy Tưởng, Tô Hoài, Như Phong…
Hoạt động cách mạng chuyển dần từ thành thị về nông thôn. Từ những

căn cứ địa lẻ tẻ, đầu năm 1945, một số khu giải phóng, gồm 7 tỉnh phía đầu
Tổ Quốc, được xác lập. Ở đây chính quyền đã về tay nhân dân. Thơ văn cách
mạng được phổ biến công khai. Một thời kỳ mới của văn học cách mạng đang
được mở ra. Nó lại có cơ hội cống hiến tích cực cho cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, góp phần làm nên chiến thắng huy hoàng trong mùa thu năm
1945.
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

23

TIỂU KẾT
Trong chương một, luận văn trình bày một cách khái quát nhất toàn bộ
cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Tố Hữu về hoàn cảnh xuất thân, trưởng
thành và quá trình sáng tác thơ văn cũng như quá trình hoạt động cách mạng
của nhà thơ Tố Hữu.
Tập thơ “Từ ấy” là một tập thơ đầu tay của Tố Hữu mang những nét rất
đặc sắc, rất riêng và có vị trí quan trọng trong dòng văn học cách mạng Việt
Nam.
Tập thơ gồm ba phần chính “Máu lửa”, “Xiềng xích”, “Giải phóng”
phản ánh ba thời kỳ của cách mạng Việt Nam từ 1930 đến 1945. Đồng thời,
tập thơ cũng phản ánh sâu sắc sự chuyển biến trong tư tưởng nhà thơ Tố Hữu.
Từ một trí thức tiểu tư sản, nhờ có ánh sáng của Đảng, Tố Hữu đã trở thành
người chiến sĩ cách mạng, nhà thơ có cống hiến to lớn cho sự nghiệp bảo vệ
đất nước và dòng văn học cách mạng Việt Nam. Những giá trị đặc sắc của tập
thơ sẽ được trình bày, phân tích trong phần nghiên cứu tiếp theo của luận văn.
Qua chương I, luận văn cũng mang lại cái nhìn khái quát về các tập thơ
được sáng tác sau tập “Từ ấy”. Bên cạnh đó, luận văn cũng chỉ ra được
những đặc trưng tiêu biểu của dòng văn học cách mạng Việt Nam 1930-1946
nhằm tạo tiền đề cơ sở cho quá trình nghiên cứu giá trị của tập “Từ ấy” trong
hai chương sau.






Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

24

Chương 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TẬP THƠ “TỪ ẤY”
2.1. Hình tượng cái tôi trữ tình
2.1.1. Sự khát khao và say mê lý tưởng của người chiến sĩ cách mạng
Trên hết, xuyên suốt “Từ ấy”, chúng ta nhận thấy tinh thần, nhiệt huyết
của một thanh niên yêu nước và say mê lý tưởng cộng sản, khao khát được
cống hiến cho lý tưởng cộng sản.
Trong thơ Tố Hữu, tình yêu nước là tình cảm thiêng liêng, sâu nặng song
cũng hết sức gần gũi. Mọi miền quê trong thơ ông đều được viết với sự tha
thiết, gắn bó, yêu thương như chính quê mẹ của mình. Tuy nhiên, xứ Huế -
nơi chôn nhau cắt rốn vẫn là nơi nhà thơ yêu thương, đau xót và cũng tự hào
hơn cả. Chính tình yêu quê hương đất nước đã trở thành điểm gặp gỡ giữa Tố
Hữu và các nhà thơ lãng mạn trước đó. Dù tâm trạng, cách bộc lộ tình yêu đó
có khác nhau giữa một bên là "vị nghệ thuật" và một bên là "vị nhân sinh",
giữa chọn cách bộc trực hay kín đáo thì tình yêu nước, yêu xứ sở vẫn là đề tài
lấp lánh trong thơ họ.
Có thể nói tình yêu quê hương đã thắp lên trong Tố Hữu sự khát khao và
say mê lý tưởng cách mạng. Trong cảnh nước mất nhà tan, nhà thơ khao khát
muốn được cống hiến, muốn được làm gì đó cho Tổ quốc. Nhưng nhà thơ
không tìm thấy con đường đi đúng giữa mịt mùng đêm tối của thời đại. Ông
băn khoăn, ông trăn trở như người mù khao khát ánh sáng chỉ đường. Và khi
lý tưởng cách mạng đến với ông, ông đã biến những khao khát đó thành hành

động, thành niềm mê say. Không chỉ dừng lại ở những khát khao của cá nhân,
Tố Hữu bằng vần thơ đã biết khơi gợi điều đó ở những người như ông, biến
sức mạnh cá thể thành sức mạnh tập thể. Ông kêu gọi thanh niên “dấn thân”
vào cách mạng, tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho lý tưởng cộng sản.
Và chính ông đã là người chiến sĩ tiên phong mở đường cho dòng thơ cách
mạng: làm thơ phục vụ cách mạng, phục vụ quần chúng:
"Với cách mạng, tôi không hề đùa bỡn
Và không hề dám chối một nguy nan
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Giá trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu

25

(…) Tôi vẫn hằng tự nghĩ: Miễn quên thân
Dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa"
(Trăng trối, tháng 11-1940)
Lý tưởng cách mạng đã giúp nhà thơ nhận định đúng đắn về ý nghĩa của
sự sống. Hơn một lần, ông đã viết về quan điểm, lẽ sống và cái chết trong tập
thơ “Từ ấy” với hai bài thơ “Trăng trối” và “Con cá, chột nưa”. Hai bài thơ
được viết ngay trong cuộc đấu tranh tuyệt thực kéo dài (nhịn ăn 14 ngày, nhịn
uống 7 ngày) ở nhà tù Lao Bảo, tháng 11-1940. Con người xác thịt ở đây đã
bị đẩy đến bên miệng hố cái chết, con người lý trí bắt buộc phải lựa chọn giữa
cái sống ô nhục và cái chết vinh quang để gìn giữ nhân cách và lý tưởng cách
mạng. Đối với Tố Hữu, sống là dâng hiến, sống là để phục vụ cách mạng. Tư
tưởng này ăn sâu vào thơ Tố Hữu kể từ “Từ ấy” cho đến “Một tiếng đờn”.
Tuy nhiên, để thực hiện những khao khát của mình, Tố Hữu đã có một
thời gian tìm đường gian khổ. Tập thơ “Từ ấy” Tố Hữu đã thể hiện trọn vẹn
niềm vui của một con người dò dẫm bước đi những bước đầu tiên trên con
đường tranh đấu bỗng được nhận ánh sáng của mặt trời. Trước đó, khi còn là
học sinh ở Huế, Tố Hữu đọc say mê từ Điđơrô đến Anphôngxơ Bôđơle,
AntônPhơrăngxơ, Vichto Huygô, Muýtxê. Và người thanh niên ấy cũng thuộc

rất nhiều “Thơ mới” như thơ của Thế Lữ, thơ Lưu Trọng Lư. Một câu thơ của
Thế Lữ trong bài “Con người vơ vẩn” đã nói được tâm trạng của nhà thơ ở
cái buổi tìm đường dò dẫm: "Hỡi người bạn, anh định về đâu đó?" khiến ông
suy ngẫm. Và trong tập thơ, Tố Hữu có dịp nhắc lại những ngày tìm đường
đầy "băn khoăn", "quanh quẩn" đó:
Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vơ vẩn theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời.
(Nhớ đồng, tháng 7-1939)

×