Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về trí và vai trò của nó trong nhận thức các quan hệ xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.75 KB, 89 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
****



BÙI THỊ MƠ





QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO KHỔNG – MẠNH
VỀ “TRÍ” VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG
NHẬN THỨC CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI






LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học















Hà Nội-2015
2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
****





BÙI THỊ MƠ



QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO KHỔNG – MẠNH
VỀ “TRÍ” VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG
NHẬN THỨC CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI





Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số:60.22.03.01




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Nguyên Việt




Hà Nội - 2015
i

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp
đỡ về nhiều mặt của các thầy cô giáo, bạn bè và người thân.
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới
thầy giáo – PGS.TS Trần Nguyên Việt – người hướng dẫn khoa
học – đã tận tình hướng dẫn tôi phương pháp nghiên cứu trong
quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa
Triết học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội; Các lãnh
đạo, quản lý cùng các thầy, cô giáo trường Cao đẳng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn Bắc Bộ và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập, cũng như trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành
luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi và là nguồn động viên tinh thần cho tôi trong suốt quá
trình hoàn thành luận văn.

Xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Bùi Thị Mơ

ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu được sử
dụng trong luận văn có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của luận
văn chưa được công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào.

Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2014
NGƢỜI CAM ĐOAN



Bùi Thị Mơ




















iii

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 10
CHƢƠNG 1: SỰ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO KHỔNG –
MANH VỀ “TRÍ” 10
1.1. Những tiền đề cơ bản cho sự ra đời quan niệm của Nho giáo Khổng –
Mạnh về “Trí” 10
1.2. Quan niệm của Nho giáo Khổng – Mạnh về nguồn gốc của “Trí” 18
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA “TRÍ” TỪ PHƢƠNG DIỆN
NHẬN THỨC CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI 35
2.1. Trí là tri trong sự hiểu biết về con ngƣời (trí giả tri nhân) 35
2.2. Trí là một trong ba phẩm chất của ngƣời quân tử: Nhân, Trí, Dũng 42
2.3. Trí trong mối quan hệ mật thiết với một số phạm trù đạo đức khác trong
tứ đức: Nhân, Nghĩa và Lễ 52
2.4. Trí để ứng xử đạo đức đúng đắn theo “nhân luân” và “ngũ luân” 59
2.5. Một số giá trị và hạn chế trong quan niệm của Nho giáo Khổng – Mạnh
về “Trí” từ góc độ nhận thức các quan hệ xã hội 72
KẾT LUẬN 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80









1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhƣ chúng ta đều biết, Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội với
nội dung tƣ tƣởng căn bản về thiết lập và duy trì trật tự xã hội. Để thực hiện
mục đích này, các nhà sáng lập Nho giáo đã chủ trƣơng dùng đạo đức để cảm
hóa con ngƣời, đồng thời tiến hành việc giáo dục, đào tạo mẫu ngƣời lý tƣởng
theo nội dung tƣ tƣởng nói trên. Vì vậy, Nho giáo, đặc biệt là Nho giáo
Khổng - Mạnh tập trung vào việc lý giải những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng xã hội loạn lạc, trên cơ sở đó đƣa ra cách thức thiết lập, duy trì trật tự xã
hội, đƣa xã hội từ trạng thái loạn về trị, từ “vô đạo” trở về “hữu đạo” và đích
cuối cùng là “trở về” với mô hình xã hội lý tƣởng đƣợc xem là “từng có” vào
thời của những ông vua huyền thoại nhƣ vua Nghiêu, vua Thuấn.
Trong lịch sử tƣ tƣởng dân tộc, Nho giáo cùng với các học thuyết khác
trong hệ thống tam giáo là Phật giáo và Đạo (cả Đạo gia và Đạo giáo) đã có
những đóng góp không nhỏ vào việc hình thành các giá trị truyền thống dân
tộc. Có thể nói, Nho giáo có vai trò nổi trội hơn cả đối với việc hình thành nên
giá trị đạo đức của dân tộc, bởi lẽ lịch sử của dân tộc ta luôn gắn liền với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nƣớc khỏi các thế lực xâm lƣợc, ở đó đạo
“trung” và “hiếu” luôn đồng hành và gắn bó chặt chẽ với nhau để thực hiện

các nhiệm vụ chính trị. Đó là một thực tế lịch sử cho đến nay không thể phủ
nhận. Chính vì vậy, việc nghiên cứu nội dung tƣ tƣởng của Nho giáo nói
chung, nghiên cứu các phạm trù đạo đức của Nho giáo nói riêng, từ đó làm rõ
những giá trị tích cực cũng nhƣ những hạn chế của nó là hết sức cần thiết.
Việc nghiên cứu các phạm trù đạo đức của Nho giáo, đặc biệt là Nho
giáo Khổng - Mạnh không thể không chú ý đến phạm trù “Trí” nhƣ là một
trong những phạm trù đạo đức cơ bản bởi nó vừa là mục đích, vừa là phƣơng
tiện để nhận thức các quan hệ giữa các cá nhân con ngƣời với nhau và với xã
2

hội. Mặc dù Nho giáo ít bàn đến vấn đề nhận thức luận, song làm rõ tính đa
nghĩa của “Trí” sẽ giúp chúng ta nắm bắt đƣợc mục đích cuối cùng của Nho
giáo Khổng - Mạnh là con ngƣời phải có hiểu biết nhất định để điều chỉnh
hành vi đạo đức của mình cho phù hợp với yêu cầu của xã hội, tức góp phần
vào việc củng cố trật tự ổn định xã hội.
Xuất phát từ việc xác định vai trò của phạm trù “Trí” của Nho giáo
Khổng - Mạnh, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Quan niệm của Nho giáo
Khổng - Mạnh về “Trí” và vai trò của nó trong nhận thức các quan hệ xã
hội” cho luận văn thạc sĩ triết học của mình với hy vọng rằng, những kết quả
nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ phạm trù “Trí” trong hệ thống
các phạm trù đạo đức của học thuyết này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nho giáo là học thuyết triết học và chính trị - xã hội ra đời ở Trung
Quốc thời cổ đại. Nho giáo gắn bó với tên tuổi của ngƣời sáng lập là Khổng
Tử (551 – 478 tr.CN), sau đó đƣợc Mạnh Tử (372 – 289 tr.CN) và các thế hệ
nhà Nho về sau kế thừa và làm phong phú thêm. Từ trƣớc đến nay, đã có
nhiều công trình trong và ngoài nƣớc nghiên cứu về Nho giáo nói chung và
phạm trù “Trí” nói riêng. Do nội dung nghiên cứu của luận văn là phạm trù
“Trí” với tƣ cách là phạm trù đạo đức trong học thuyết của Nho giáo Khổng –
Mạnh và vai trò của nó trong nhận thức các mối quan hệ ngƣời, cho nên ngoài

việc khảo sát các tƣ liệu gốc của Nho giáo Khổng – Mạnh thông qua các bản
dịch đã đƣợc công bố, chúng tôi cố gắng tìm hiểu các công trong và ngoài
nƣớc về phạm trù này từ trƣớc đến nay.
Trong quá trình tìm hiểu tình hình nghiên cứu đề tài, chúng tôi tạm
phân các hƣớng nghiên cứu chung về Nho giáo Khổng – Mạnh và những công
trình nghiên cứu về phạm trù "Trí" trong học thuyết này nhƣ sau:
Hướng thứ nhất là các công trình nghiên cứu về Nho giáo và Nho giáo
Khổng – Mạnh. Công trình đầu tiên cần nói đến cuốn “Khổng học đăng”,
3

đƣợc Phan Bội Châu viết vào đầu thế kỷ XX về Nho giáo sơ kỳ với những
vấn đề liên quan đến đạo đức Nho giáo. Mục đích của nó là làm sống lại
những mặt tích cực của Nho giáo nói chung, Nho giáo Khổng – Mạnh nói
riêng.
Tiếp đến là cuốn “Nho giáo” của Trần Trọng Kim. Theo Trần Trọng
Kim, Nho giáo rất đắc dụng trong công việc chính trị, nó là phƣơng cách tốt
nhất để thiết lập tôn ti, trật tự xã hội. Nhƣ ông cho rằng: “Học thuyết của Nho
giáo thì phân ra tôn ti trật tự rất nghiêm. Ai giữ đƣợc cái địa vị tôn quý ở trên
thì có quyền đƣợc bắt ngƣời tì hạ ở dƣới phải kính trọng mà phục tùng mình.
Song phải cần một điều là ngƣời trên phải có tài đức xứng đáng, ai cũng kính
phục, thì cái trật tự ấy dẫu tôn nghiêm thế nào, ngƣời ta ai cũng không giám
ca thán” [26, tr. 16].
Công trình “Nho giáo xưa và nay” do Vũ Khiêu chủ biên tập hợp các
bài nghiên cứu về Nho giáo của nhiều tác giả đã đánh giá Nho giáo theo các
khía cạnh, mức độ ảnh hƣởng khác nhau: từ kinh tế, chính trị, đạo đức cho
đến việc giáo dục các gía trị truyền thống dân tộc, v.v.
Cuốn “Nho giáo Trung Quốc” của Nguyễn Tôn Nhan do nhà xuất bản
Văn hóa Thông tin ấn hành năm 2005 với dung lƣợng 1600 trang đã trình bày
một loạt các chuyên đề mang tính học thuật của Nho giáo trong suốt tiến trình
lịch sử của nó. Tuy nhiên, phần dành cho nghiên cứu Nho giáo Khổng - Mạnh

khá khiêm tốn, chỉ dƣới 50 trang. Liên quan đến đề tài chỉ có 7 trang, bàn về
"giáo hóa với nhân tính", ở đó “Trí” không đƣợc bàn tới một cách trực tiếp.
Đây cũng là tình hình chung của các công trình khoa học về Nho giáo, nghĩa
là vấn đề về “Trí” không đƣợc nghiên cứu một cách chuyên biệt, mà chỉ xem
nó nhƣ một trong các phạm trù mang tính chuẩn mực đạo đức.
Hướng thứ hai, đó là những công trình ít nhiều đề cập đến “Trí” mang
tính lý luận nhận thức của Nho giáo. Cụ thể nhƣ Nguyễn Tài Thƣ trong “Vấn
đề con người trong Nho học sơ kỳ” đã đi sâu phân tích các vấn đề tính ngƣời,
4

con ngƣời trong các quan hệ với tự nhiên và xã hội, các nhân cách lý tƣởng
trong Nho học sơ kỳ. Trong đó, ông đã tập trung làm rõ các nhân cách lý
tƣởng nhƣ “sĩ”, “quân tử”, “thánh”, “hiền”, đặc biệt là ngƣời quân tử, hình
tƣợng con ngƣời tiêu biểu nhất trong quan niệm của đạo Nho. Tác giả cho
rằng: “Ngƣời quân tử phải trau rồi các phẩm chất đạo đức mà Nho gia đã xây
dựng nên, họ phải có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… phải thực hiện trung, hiếu…”
[45, tr. 135], ngƣời quân tử phải tu luyện thƣờng xuyên để đạt đƣợc các phẩm
chất đạo đức cao quý nhƣ “nhân”, “trí”, “dũng” [xem 45, tr. 138].
Công trình “Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc” do Doãn Chính
chủ biên đã phân tích một cách khá sâu sắc toàn bộ hệ thống tƣ tƣởng của các
trƣờng phái triết học nói chung, các nhà tƣ tƣởng nói riêng. Đặc biệt, khi phân
tích tƣ tƣởng của hai đại biểu lớn của Nho gia là Khổng Tử và Mạnh Tử, tác
giả cũng đã đề cập đến phạm trù “Trí”. Tác giả khẳng định: “Trí đƣợc hiểu là
sự minh mẫn nói chung để phân biệt, đánh giá con ngƣời và tình huống, qua
đó tự xác định cho mình cách ứng xử cho phải đạo” [10, tr. 67].
Nhà nghiên cứu Trần Đình Hƣợu trong cuốn “Các bài giảng về tư
tưởng phương Đông” (sách do học trò ghi chép, biên tập lại sau khi ông mất)
cũng đề cập đến phạm trù “Trí” với tƣ cách là một trong ba đạt đức của ngƣời
quân tử, cùng với “Nhân” và “Dũng”: Nhân là “không lo”, trí là “không lầm”,
dũng là “không sợ” [xem 19, tr. 63].

Các công trình “Lịch sử triết học phương Đông” gồm 6 tập, trong đó
có các tập 1 và 2 của Nguyễn Đăng Thục; “Bàn về đạo Nho” của Nguyễn
Khắc Viện; “Đại cương triết học Trung Quốc”, tập 1, 2 do Giản Chi và
Nguyễn Hiến Lê biên soạn v.v, cũng đề cập đến các vấn đề đạo đức của Nho
giáo và ít nhiều có đề cập đến phạm trù “Trí”.
Trong thời gian gần đây đã xuất hiện một tác phẩm nghiên cứu chuyên
sâu về lịch sử triết học Trung Quốc là “Từ điển triết học Trung Quốc” của
PGS.TS. Doãn Chính, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm
5

2009. Tác phẩm này trình bày, phân tích một cách sâu sắc những vấn đề nhƣ:
Nội dung các học thuyết triết học của Khổng Tử, lịch sử hình thành, phát triển
và biến đổi của phạm trù “Trí” trong tiến trình lịch sử, nguyên nhân sự ra đời
của “Trí” cũng nhƣ ý nghĩa của “Trí”, v.v. Tuy nhiên, do đặc trƣng của thể
loại từ điển và do khối lƣợng lớn các mục từ của nó, cho nên tác giả đành hạn
chế phần phân tích nội dung của “Trí”.
Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về tác giả và tác phẩm trong
lịch sử Nho giáo nhƣ Nguyễn Hiến Lê với các cuốn “Khổng Tử”; “Mạnh
Tử”, Phạm Văn Khóa với cuốn “Khổng Phu tử và Luận ngữ” hay cuốn
“Mạnh Tử linh hồn của nhà Nho” do Phùng Qúy Sơn dịch v.v. Đây là những
cuốn sách rất có giá trị đối với việc nghiên cứu thân thế, sự nghiệp của các
nhà sáng lập Nho giáo cũng nhƣ những nội dung, tƣ tƣởng cơ bản của họ.
Ngoài ra, một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ triết học đã đƣợc bảo vệ
gần đây nhƣ : “Quan niệm của Khổng Tử về con người và giáo dục đào tạo
con người” của Nguyễn Thị Tuyết Mai; “Tìm hiểu mẫu người quân tử qua 2
tác phẩm “Luận ngữ” và “Mạnh Tử” của Nguyễn Xuân Lộc; “Quân tử - mẫu
người toàn thiện trong tác phẩm Luận ngữ” của Nguyễn Thị Kim Chung; “Tư
tưởng của Khổng Tử về Nhân qua mối quan hệ giữa ái nhân và tri nhân” của
Nguyễn Thị Lan, v.v. Mặc dù bị hạn chế bởi phạm vi nghiên cứu cụ thể của
từng đề tài, song các tác giả ở những mức độ nhất định cũng đã đề cập đến

phạm trù “Trí” trong quan hệ mật thiết của nó với các phạm trù đạo đức khác.
Ngoài những công trình nghiên cứu đã đƣợc xuất bản trong nƣớc, các
công trình của nƣớc ngoài cũng đƣợc dịch thuật và phổ biến ở nƣớc ta. Điều
đáng chú ý là trong số các công trình dịch thuật, có khá nhiều công trình dịch
thuật các tƣ liệu gốc của các dịch giả nhƣ Đoàn Trung Còn, Ngô Tất Tố, Phan
Bội Châu, v.v. Gần đây, Viện nghiên cứu Hán Nôm đã xuất bản các bộ sách
dịch “Tứ Thư” và “ Ngũ Kinh”. Tuy nhiên, hai bộ sách này chủ yếu phục vụ
6

cho công tác dạy và học chữ Hán, với việc diễn giải quá ngắn, vì vậy, nếu chỉ
sử dụng hai bộ sách này trong việc nghiên cứu tƣ tƣởng triết học sẽ gặp phải
những hạn chế nhất định, đặc biệt là đối với những ngƣời ít hiểu biết về Hán
ngữ nhƣ chúng tôi. Chính vì vậy, chúng tôi tham khảo thêm tác phẩm “Tứ thư
tập chú” của Chu Hy, do Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải và đã chọn tài
liệu này làm tài liệu chính phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu nói trên, ở nhiều khía cạnh, mức độ
khác nhau đều đề cập đến phạm trù “Trí” của Nho giáo nói chung, của Nho
giáo Khổng – Mạnh nói riêng. Tuy nhiên, các công trình ấy lại chƣa nghiên
cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về nội hàm rộng lớn của phạm trù “Trí”
cũng nhƣ chƣa làm rõ đƣợc vai trò to lớn của “Trí” trong nhận thức các quan
hệ xã hội.
Từ thực tế đó, trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu của những
học giả đi trƣớc, tác giả luận văn mong muốn đi sâu phân tích, làm rõ hơn nội
dung của phạm trù “Trí” trong quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh và vai
trò của nó trong nhận thức các quan hệ xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Luận văn trình bày một cách hệ thống quan niệm của Nho
giáo Khổng - Mạnh về “Trí”, trên cơ sở đó làm rõ vai trò của “Trí” trong nhận
thức các quan hệ xã hội.
- Nhiệm vụ: Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn cần giải quyết những

nhiệm vụ sau:
+ Phân tích, làm rõ những điều kiện, tiền đề chủ yếu cho sự ra đời quan
niệm của Nho giáo Khổng – Mạnh về “Trí”.
+ Trình bày quan niệm của Khổng Tử, Mạnh Tử về nguồn gốc của
“Trí”.
7

+ Phân tích một số nội dung cơ bản của phạm trù “Trí” trong quan
niệm của Nho giáo Khổng – Mạnh từ phƣơng diện nhận thức các quan hệ xã
hội.
+ Chỉ ra một số giá trị và hạn chế trong quan niệm về “Trí” của Nho
giáo Khổng – Mạnh từ góc độ nhận thức các quan hệ xã hội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về
“Trí” và vai trò của nó trong nhận thức các quan hệ xã hội
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quan niệm của
Khổng Tử và Mạnh Tử về phạm trù “Trí” và vai trò của “Trí” trong nhận thức
các quan hệ xã hội trong sách Luận ngữ và sách Mạnh Tử. Đồng thời, luận
văn cũng tham khảo các công trình nghiên cứu liên quan đến phạm trù này
cho luận văn của mình.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc triển khai trên nền tảng quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con ngƣời và xã hội.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở
phƣơng pháp luận chung của triết học Mác – Lênin, đồng thời kết hợp với
một số phƣơng pháp khác nhƣ phƣơng pháp lôgíc và lịch sử, phƣơng pháp
phân tích và tổng hợp, phƣơng pháp đối chiếu, so sánh, phƣơng pháp thẩm
định, v.v.
6. Đóng góp mới của luận văn
Trong luận văn này thông qua việc phân tích, luận giải một cách

chuyên sâu và có hệ thống phạm trù “Trí” với tƣ cách phạm trù đạo đức của
Nho giáo Khổng – Mạnh, từ đó chỉ ra vai trò to lớn của “Trí” trong việc nhận
thức các quan hệ xã hội.


8

7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào việc làm sáng tỏ quan
niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về “Trí” và vai trò của nó trong nhận thức
các quan hệ xã hội cũng nhƣ những giá trị và hạn chế trong quan niệm đó. Vì
vậy, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy và học tập môn lịch sử triết học phƣơng Đông.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 02 chƣơng, 07 tiết.




9

NỘI DUNG
Chƣơng 1: SỰ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO
KHỔNG - MẠNH VỀ “TRÍ”
1.1. Những tiền đề cơ bản cho sự ra đời quan niệm của Nho giáo
Khổng – Mạnh về “Trí”
Quan niệm về “Trí” của Nho giáo Khổng – Mạnh là một trong những
quan niệm có nhiều yếu tố tích cực, trong đó xuất phát điểm của nó thể hiện ở
chỗ cho rằng, con ngƣời phải có hiểu biết, nhất là hiểu biết về những nguyên

tắc đạo đức để điều chỉnh hành vi đạo đức của mình cho phù hợp với yêu cầu
của xã hội, thông qua đó mà góp phần vào việc củng cố ổn định trật tự xã hội.
Để hiểu đƣợc sự ra đời và một số nội dung cơ bản của phạm trù “Trí”
từ phƣơng diện nhận thức các quan hệ xã hội, theo chúng tôi, cần phải tìm
hiểu hoàn cảnh xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu – Chiến Quốc (khoảng năm
770 – 221 tr.CN) cũng nhƣ những tiền đề cơ bản của nó. Đây là thời kỳ lịch
sử sôi động với nhiều chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội Trung Quốc thời cổ đại, làm xuất hiện các khuynh hƣớng
tƣ tƣởng mà một trong số đó là Nho gia với tƣ cách một học thuyết chính trị -
xã hội dựa trên nền tảng đạo đức để cảm hóa con ngƣời, trong đó có đức
“Trí”.
1.1.1. Cơ sở kinh tế, chính trị - xã hội cho sự ra đời quan niệm về
“Trí” của Nho giáo Khổng - Mạnh
Trên lĩnh vực kinh tế: nền kinh tế với tƣ cách là cơ sở cho sự tồn tại của
xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ đang có sự chuyển biến mạnh mẽ từ thời đại
đồ đồng sang đồ sắt. Đồ sắt đƣợc sử dụng phổ biến, sắt đƣợc dùng để làm ra
các công cụ lao động nhƣ lƣỡi cày, lƣỡi cuốc, liềm, dao, rìu, búa, v.v. Phát
minh mới về kỹ thuật khai thác và sử dụng đồ sắt đã đem lại những tiến bộ
mới trong việc cải tiến công cụ và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp. Kỹ thuật
10

trồng trọt cũng đƣợc cải tiến, tạo điều kiện tăng năng suất trong lao động
nông nghiệp, của cải làm ra ngày càng nhiều.
Trong thời kỳ này, thủ công nghiệp và thƣơng nghiệp cũng có những
bƣớc phát triển mới. Do việc sử dụng công cụ bằng sắt trở thành phổ biến
cùng với việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động trong nền sản xuất
thủ công nghiệp, sự phân công trong sản xuất thủ công nghiệp cũng đạt tới
mức chuyên nghiệp cao hơn, thúc đẩy các ngành nghề thủ công nghiệp phát
triển nhƣ nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề làm đồ gốm, v.v. Thƣơng
nghiệp cũng phát triển khá mạnh, trong xã hội đã xuất hiện một tầng lớp

thƣơng nhân giàu có và ngày càng có thế lực. Tiền đồng ra đời vào cuối thời
Xuân Thu, đến thời Chiến Quốc, nó đƣợc sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh
vực kinh tế. Hình thức cho vay nặng lãi của các thƣơng nhân lớn cũng đã xuất
hiện. Qúy tộc cũng noi theo thƣơng nhân kinh doanh buôn bán và cho vay
nặng lãi.
Trên cơ sở sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, quan hệ sản xuất chiếm
hữu nô lệ với chế độ “tỉnh điền” bóc lột nhân dân theo kiểu của thiên tử, quý
tộc nhà Chu trƣớc đây đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp nữa, đòi hỏi
phải thay thế bằng phƣơng thức bóc lột khác. Nếu nhƣ trƣớc đây tƣ liệu sản
xuất (trong đó có ruộng đất) đều thuộc quyền sở hữu của nhà vua, thì đến giai
đoạn này đã có sự thay đổi. Bắt đầu từ thời Xuân Thu, chế độ ruộng đất của
nhà nƣớc dần dần tan rã, ruộng tƣ xuất hiện ngày càng nhiều. Thời Tây Chu,
thiên tử nhà Chu phong đất cho các chƣ hầu trên cơ sở họ hàng và những
ngƣời có công. Đến thời Xuân Thu, quan hệ họ hàng đã trở nên mờ nhạt, hơn
nữa nhà Chu với tƣ cách là tôn chủ không còn đủ thế và lực để bắt những
ngƣời đƣợc thừa kế đất phong phải thực hiện nghĩa vụ của họ. Vì vậy, trên
thực tế, các chƣ hầu đều coi lãnh địa đƣợc phong là thuộc quyền sở hữu của
họ. Ngoài lãnh địa đƣợc phong, các nƣớc lớn còn thôn tính các nƣớc nhỏ và
xâm chiếm đất đai của các nƣớc khác, bộ phận đất đai này trở thành sở hữu
11

riêng. Trong các nƣớc chƣ hầu do sự suy yếu của nhà vua, do sự tranh giành
đất đai của nhau, thái ấp của các khanh đại phu cũng biến dần thành ruộng đất
tƣ. Bọn quý tộc có quyền thế cũng chiếm dần ruộng của công xã làm ruộng
tƣ. Chế độ “tỉnh điền” dần tan rã, chế độ tƣ hữu về ruộng đất dần dần hình
thành. Sau đó, chế độ tƣ hữu ruộng đất còn đƣợc pháp luật nhà nƣớc thừa
nhận và bảo vệ. Đến thời Chiến Quốc, chế độ ruộng tƣ ngày càng phát triển
mạnh mẽ, chế độ “tỉnh điển” đang đi đến chỗ tan dã hoàn toàn. Trong hoàn
cảnh ấy, ruộng đất ngày càng tập chung vào tay các địa chủ lớn, nông dân
nhiều ngƣời bị mất ruộng đất phải đi cày thuê, cấy mƣớn trở thành tá điền, cố

nông. Chế độ bóc lột bằng phát canh thu tô xuất hiện. Do việc mua bán ruộng
đất trở nên phổ biến càng thúc đẩy nhanh chóng quá trình tập trung ruộng đất
vào tay một số ít lãnh chúa, địa chủ giàu có. Sự phát triển của chế độ tƣ hữu
về ruộng đất là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện phƣơng thức sản xuất mới –
phƣơng thức sản xuất phong kiến.
Về chính trị - xã hội: sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế đã
ảnh hƣởng, tác động to lớn đến lĩnh vực chính trị - xã hội. Nó làm xuất hiện
một cục diện mới trong xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc, đó
là tình trạng các nƣớc chƣ hầu nổi lên lấn át địa vị và quyền lực của nhà Chu.
Nếu nhƣ, vào đầu thời Chu đất đai và thần dân ở khắp dƣới gầm trời không
đâu không phải là sở hữu của nhà vua thì nay, cái quyền sở hữu tối cao về đất
và dân ấy đã bị một tầng lớp mới lên có sức mạnh kinh tế tấn công và chiếm
lấy làm tƣ hữu. Tầng lớp quý tộc, thị tộc – cơ sở xã hội của nhà Chu, do bị
mất đất, mất dân, địa vị kinh tế ngày càng sa sút, vì vậy mà địa vị và vai trò
chính trị cùng ngôi thiên tử của nhà Chu ngày càng suy giảm và trên thực tế
chỉ là hình thức. Các nƣớc chƣ hầu của nhà Chu không những không chịu
phục tùng vƣơng mệnh, không chịu cống nạp mà còn phát động chiến tranh
thôn tính lẫn nhau, luôn tự xƣng và tự cho mình là bá chủ thiên hạ. Trong Sử
Ký, Tƣ Mã Thiên đã miêu tả thời kỳ này là thời đại “vƣơng đạo suy vi”, “bá
12

đạo” cƣờng thịnh, lấn át “vƣơng đạo”. Các hình thức sở hữu ruộng đất và kết
cấu giai tầng của xã hội có sự biến đổi lớn. Do có ruộng đất riêng một số
khanh, đại phu, sĩ đã biến thành địa chủ mới. Đến thời Chiến Quốc, không
những quan lại nhà nƣớc mà một số nhà giàu cũng mua đƣợc nhiều ruộng đất,
trở thành những thƣơng nhân kiêm địa chủ. Từ tầng lớp này dần dần xuất hiện
một loại quý tôc mới với thế lực ngày càng mạnh, tìm cách leo thang tranh
giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ nhƣ Huyền Cao ở nƣớc Tấn, Tử
Cống ở nƣớc Lỗ, Lã Bất Vi ở nƣớc Tần, v.v. Sự tan rã của chế độ “tỉnh điền”
đã làm cho giai cấp nông dân bị phân hóa, một bộ phận nông dân vẫn giữ

đƣợc một trăm mẫu ruộng nhƣ trƣớc kia, cộng với ruộng đất khai khẩn thêm
trở thành nông dân tự canh, một bộ phận khác hoàn toàn không có tấc đất cắm
dùi buộc phải làm tá điền hoặc cày thuê cho địa chủ. Hệ quả tất yếu là những
mâu thuẫn vốn có và mới nảy sinh trong lòng xã hội ngày càng sâu sắc, trầm
trọng hơn. Đó là mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ, phong kiến mới nổi lên với
giai cấp quý tộc đang nắm quyền lực chính trị nhƣng địa vị và sức mạnh kinh
tế đã suy yếu; mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp quý tộc; mâu thuẫn giữa nông
dân, nông nô với giai cấp địa chủ mới và quý tộc. Sang thời Chiến Quốc, mâu
thuẫn trên ngày càng gay gắt hơn, đã đẩy xã hội tới nguy cơ suy thoái. Thêm
nữa, chiến tranh giữa các nƣớc vẫn không ngừng xảy ra và ngày càng tàn bạo,
khốc liệt hơn. Mạnh Tử đã phải thốt lên rằng: “Chiến tranh để giành đất đã sát
hại ngƣời ta, thây nằm chật đất; chiến tranh để đoạt thành đã sát hại ngƣời ta,
thây nằm ngập thành” (Tranh địa dĩ chiến, sát nhân doanh dã. Tranh thành dĩ
chiến, sát nhân doanh thành – Mạnh Tử. Ly Lâu ) [20, tr. 1041 ]. Tình hình ấy
đã làm cho xã hội hết sức rối loạn, sản xuất bị đình trệ, ruộng vƣờn bị bỏ
hoang, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, gia đình ly tán. Trong xã hội
thƣờng xuyên diễn ra hiện tƣợng “bề tôi giết vua, con giết cha, em giết anh”,
thiên hạ trở nên “vô đạo”, trật tự, lễ nghĩa, cƣơng thƣờng của xã hội bị đảo
lộn, các mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời trở nên biến dạng. Cho
13

đến thời điểm này thì cảnh chia ly không chỉ dừng lại trong gia đình mà đến
cả đất nƣớc vì “ngũ luân” không đƣợc coi trọng nhƣ trƣớc nữa.
Trong khi chế độ tông pháp đã tỏ ra quá lạc hậu với thời đại nhƣ vậy,
thì những cơ sở cho sự định hình thể chế của xã hội mới lại mới chỉ manh
nha. Giữa cái cũ và cái mới, không cái nào đủ sức đại diện chân chính cho
lịch sử. Bị trói buộc trong trạng thái giao thời đó các chuẩn mực, giá trị xã hội
hầu nhƣ không đƣợc định hình.
Thực tiễn xã hội lúc bấy giờ đã đặt ra một vấn đề lớn là cách thức tổ
chức và quản lý xã hội theo mô hình nhà Chu không còn thích hợp nữa. Vậy,

cần phải làm thế nào để thiết lập lại trật tự, kỷ cƣơng của xã hội, đƣa xã hội
vào thế ổn định phát triển. Việc nhận thức đúng đắn và giải đáp có hiệu quả
vấn đề này là nội dung chủ yếu trong đời sống tƣ tƣởng chính trị của xã hội
Trung Quốc lúc bấy giờ. Chính vì vậy, trong xã hội Trung Quốc đã xuất hiện
nhiều trung tâm, nhiều tụ điểm của những kẻ sĩ. Thành phần xuất thân của
tầng lớp kẻ sĩ này là đa dạng, phức tạp nhƣng nhìn chung họ đều đứng trên
lập trƣờng của giai cấp, tầng lớp mình mà phê phán trật tự xã hội cũ. Tình
hình trên đã tạo ra cục diện “Bách gia tề phóng” (Trăm hoa đua nở), “Bách
gia tranh minh” (Trăm nhà đua tiếng), “Bách gia chƣ tử” (Trăm nhà trăm
thầy), kết quả là làm xuất hiện nhiều nhà tƣ tƣởng, nhiều học phái khác nhau
trong thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Bách gia bao gồm những học phái tiêu
biểu: Âm dƣơng gia, Nho gia, Mặc gia, Danh gia, Pháp gia, Đạo gia, Tung
hoành gia, Nông gia, Tạp gia, Tiểu thuyết gia, v.v. Mỗi học phái bằng cách
này hay cách khác đã đề ra phƣơng pháp trị nƣớc theo quan điểm của mình.
Mặc gia khẳng định trị nƣớc phải bằng “kiêm ái” (cùng yêu thƣơng nhau),
còn Pháp gia cho rằng, muốn trị nƣớc phải dựa vào luật pháp. Nho gia lại chủ
trƣơng con đƣờng trị nƣớc bằng “Nhân”, “Lễ”, “Chính danh”. Trong số các
học thuyết ra đời ở thời Xuân Thu – Chiến Quốc thì Nho giáo là học thuyết
chính trị - đạo đức có ảnh hƣởng lâu dài nhất ở Trung Quốc.
14

Ngƣời có công sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử (551 – 479 tr.CN).
Ông tên là Khâu, tự là Trọng Ni, ngƣời nƣớc Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn Đông,
Trung Quốc). Sống trong thời kỳ xã hội loạn lạc, đƣợc tận mắt chứng kiến
cảnh chiến tranh cƣớp bóc, Khổng Tử luôn ôm ấp hoài bão chính trị là xây
dựng đất nƣớc thái bình thịnh trị theo mô hình xã hội lý tƣởng thời vua
Nghiêu, vua Thuấn. Để thiết lập lại trật tự, kỷ cƣơng của xã hội, làm lành
mạnh hóa các mối quan hệ ngƣời, Khổng Tử cho rằng phải dùng “đức trị”
(nhân trị, lễ trị, phải thực hiện chính danh, trên dƣới phân minh, "vua cho ra
vua, tôi cho ra tôi; cha cho ra cha, con cho ra con”) thì xã hội mới “hữu đạo”,

thịnh trị. Sau khi Khổng Tử mất, tƣ tƣởng và đƣờng lối “đức trị” của ông
đƣợc nhiều nhà Nho về sau kế thừa và tiếp tục phát triển. Tiêu biểu nhất là
Mạnh Kha (372 - 289 tr.CN), tự là Dƣ, thƣờng đƣợc gọi là Mạnh Tử. Kế thừa
đƣờng lối “đức trị” của Khổng Tử, Mạnh Tử đã đề ra đƣờng lối “Nhân
chính”, lấy cơ sở đạo đức nhân nghĩa làm đầu.
Nhƣ vậy, để giải quyết đƣợc các vấn đề xã hội, Nho giáo sơ kỳ nói
chung, Nho giáo Khổng – Mạnh nói riêng đã dựa vào học thuyết đạo đức với
các chuẩn mực đạo đức nghiêm ngặt của nó nhƣ nhân, lễ, nghĩa, trí chứ không
phải bằng phƣơng tiện kinh tế. Đặc biệt theo quan niệm của Nho giáo Khổng
– Mạnh, “Trí” là một phƣơng tiện rất quan trọng để nhận thức các quan hệ
giữa các cá nhân con ngƣời với nhau và với xã hội. Có “Trí” con ngƣời mới
điều chỉnh đƣợc hành vi đạo đức của mình cho phù hợp với yêu cầu của xã
hội, tức góp phần vào việc củng cố trật tự xã hội, đƣa xã hội vào thế ổn định,
phát triển.
Tóm lại, trong hoàn cảnh lịch sử xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu –
Chiến Quốc đầy biến động, phức tạp đã làm nảy sinh nhiều học thuyết của các
học giả kiệt xuất nhằm mục đích giải quyết các vấn nạn của xã hội. Cũng
trong thời kỳ này học thuyết của Nho gia Khổng – Mạnh với nhiều nội dung,
trong đó có quan niệm về phạm trù đạo đức “Trí” cũng đƣợc hình thành. Khác
15

với các học phái khác, Nho giáo Khổng – Mạnh đặc biệt đề cao đạo đức, coi
đạo đức là công cụ, phƣơng tiện để điều chỉnh hành vi đạo đức của con ngƣời
cho phù hợp với yêu cầu của xã hội, tức góp phần vào việc củng cố ổn định
trật tự xã hội.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự ra đời quan niệm về “Trí” của Nho
giáo Khổng – Mạnh
Nói đến sự ra đời quan niệm về “Trí” của Nho giáo Khổng – Mạnh,
không thể không làm rõ cơ sở lý luận mà các nhà sáng lập Nho giáo tiếp thu,
kế thừa từ đời sống văn hóa tƣ tƣởng (tôn giáo, chính trị, đạo đức) của Trung

Quốc lúc bấy giờ, đặc biệt dƣới thời nhà Chu để xây dựng học thuyết của
mình.
Về tôn giáo: nhƣ triết học Mác – Lênin đã chỉ rõ, tôn giáo hay tƣ tƣởng
tôn giáo với tính chất duy tâm thần bí của nó luôn đƣợc luôn đƣợc giai cấp
thống trị lợi dụng và sử dụng nhƣ là những công cụ, phƣơng tiện cần thiết để
duy trì và bảo vệ sự tồn tại vĩnh viễn đối với sự thống trị và quyền lợi của giai
cấp thống trị. Chế độ nhà Chu cũng vậy, nhằm những mục đích chính trị ấy,
họ luôn đề cao tƣ tƣởng “kính trời”, “hợp mệnh trời”, “thờ thƣợng đế”. Theo
đó, nhà Chu cho rằng, “trời” (với các khái niệm có cùng một nghĩa là: thiên,
đế, thiên đế, hoàng thiên thƣợng đế…) là lực lƣợng có nhân cách, có ý trí và
có uy quyền tuyệt đối cho nên chính quyền, tài sản, sự thông minh, trí tuệ và
sự sống lâu của kẻ thống trị cùng cuộc sống làm tôi tớ cực khổ của nhân dân
lao động đều do trời ban cho. Chính vì vậy, có ngƣời cho rằng, vì nhà Ân
không biết mệnh trời, hành động không hợp với mệnh trời, vì vậy Trời đã
trừng phạt và để cho nhà Chu thay thế nhà Ân cai trị dân.
Nho giáo nói chung và Nho giáo Khổng – Mạnh nói riêng đã tiếp nhận
yếu tố duy tâm thần bí và phản động trong tƣ tƣởng tôn giáo trên đây làm một
trong những nội dung của tƣ tƣởng trị nƣớc, để ràng buộc con ngƣời, nhằm
16

tạo ra những con ngƣời không chỉ suy nghĩ, hành động theo ý trời, mệnh trời,
mà tuân thủ chúng một cách vô điều kiện.
Về chính trị: những nhà tƣ tƣởng của tầng lớp quý tộc nhà Chu cho
rằng, vì nhà Chu biết tuân thủ “mệnh trời”, cho nên đƣợc “nhận dân” từ tay
nhà Ân để “hƣởng dân” và “trị dân” suốt đời. Nếu kẻ nào chống lại mệnh trời
thì ắt bị nhà Chu thay Trời trừng phạt. Vua nhà Chu là chủ sở hữu tối cao về
đất đai và con ngƣời, từ đó dẫn đến sự thừa nhận nghiễm nhiên cho rằng, dƣới
gầm trời này, đất đai và thần dân đều là của vua. Vua là Thiên tử đƣợc quyền
thay trời thống trị thiên hạ, cai trị dân.
Về đạo đức: tƣ tƣởng đạo đức của nhà Chu lấy hai chữ “Đức” và

“Hiếu” làm nòng cốt. Từ quan niệm chính trị - tôn giáo về “trời và ngƣời hợp
nhất” (“thiên nhân hợp nhất”), nhà Chu khẳng định rằng, vì các bậc tiên
vƣơng nhà Chu có “Đức” mà đƣợc sánh cùng Thƣợng đế, đƣợc Thƣợng đế
cho hƣởng nƣớc, hƣởng dân, cho nên các vua đời sau phải biết kính cái đức
đó, phải biết bồi dƣỡng nó để cho con cháu đƣợc hƣởng nƣớc, hƣởng dân lâu
dài. “Hiếu” là thờ phụng tổ tiên, phải nhớ công ơn tổ tiên mà giữ gìn phép tắc
tổ tiên để lại. Có cái đức “Hiếu” nhƣ vậy mới nhận đƣợc mệnh trời mà đƣợc
hƣởng nƣớc, hƣởng dân mãi mãi. Đây là một quan niệm đạo đức nhằm củng
cố và tuyên truyền sự tồn tại vĩnh viễn địa vị thống trị của tầng lớp quý tộc
nhà Chu và nhà nƣớc quý tộc Chu.
Dƣới thời đại nhà Chu, địa vị và uy quyền của trời, mệnh trời đã đƣợc
vận dụng vào việc chống lại nhà Ân vào việc luận giải để biện hộ cho sự tồn
tại vĩnh viễn của nhà Chu. Nhƣng đến đầu thời Xuân Thu, sự suy yếu về mọi
mặt của nhà Chu cho thấy sự linh thiêng và bất khả xâm phạm của thần quyền
trên thực tế đã bị xâm phạm; nó báo hiệu sự áp đảo của quyền lực trần thế
trƣớc quyền lực thần thánh. Đến cuối thời Xuân Thu với sự suy đồi của tầng
lớp thống trị, trật tự, kỷ cƣơng xã hội theo mô hình nhà Chu ngày càng thêm
rối loạn, đời sống nhân dân ngày càng cùng cực đã làm lay chuyển gốc rễ địa
17

vị thống trị của thần quyền. Bởi vậy, môt thực tiễn đặt ra cho các nhà tƣ
tƣởng, các học phái, các tầng lớp thống trị là phải tìm ra những công cụ,
những phƣơng thức cai trị mới.
Sự xuất hiện của Nho giáo Khổng – Mạnh cũng nhằm giải đáp những
nhu cầu mà thực tiễn của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ đặt ra. Nhƣng để cai
trị đƣợc dân chúng, những con ngƣời thuộc tầng lớp thống trị phải là những
ngƣời có “Trí”. Ngƣời có “Trí” mới biết ứng xử đúng đắn theo đúng địa vị,
trách nhiệm, bổn phận của mình.
1.2. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về nguồn gốc của “Trí”
1.2.1. Khái niệm về “Trí” và đặc điểm của nó trong học thuyết của

Nho giáo Khổng – Mạnh.
Theo từ điển Bách khoa thư triết học Trung Quốc, "Trí" ( ) là lý trí,
trí tuệ [46, tr. 452]. Theo nghĩa hẹp thì "Trí" là phẩm cách của ngƣời quân tử,
còn theo nghĩa rộng, là thuộc tính của con ngƣời, tức là cái phân biệt với thế
giới động vật. Các nhà sáng lập Nho giáo sơ kỳ sử dụng khái niệm "Trí" nhƣ
một phạm trù triết học. Chẳng hạn, Khổng Tử xếp "Trí" đứng vị trí thứ hai
trong tam phẩm của ngƣời quân tử (Nhân, Trí, Dũng). Theo đó, ngƣời có
"Nhân" thì không lo, ngƣời có trí thì biết phân biệt phải trái, ngƣời có dũng
thì không sợ hãi.
Lý trí là sự hiểu biết trên cơ sở kiến thức hay theo lẽ phải. Xét theo nội
hàm thì lý trí thuộc suy nghĩ do đó hẹp hơn trí tuệ. Bởi lẽ ngoài suy nghĩ, trí
tuệ còn bao hàm cả năng lực phê phán, tƣởng tƣợng và trí nhớ, tức là sự suy
nghĩ, tƣ duy của con ngƣời, bao gồm những khả năng tƣởng tƣợng, ghi nhớ,
phê phán, lý luận, thu nhận kiến thức, v.v, có thể dẫn đến phát minh khoa học,
sáng tạo văn nghệ.
Chúng ta còn biết đến các cụm từ đi kèm với trí nhƣ: trí dục (một bộ
phận của giáo dục nhằm truyền thụ kiến thức và rèn luyện khả năng tƣ duy);
trí dũng (hành động dũng cảm có mƣu trí); trí khôn (khả năng biết, hiểu, tìm
18

ra nghĩa của sự vật xung quanh; khả năng thích nghi với tình huống xảy ra
trong cuộc sống và tìm ra cách hành động phù hợp với hoàn cảnh; trí lực (sức
suy nghĩ, tìm tòi của bộ não); trí nhớ (khả năng duy trì và gợi lại những tình
cảm, ý nghĩ của một thời đã qua, những kiến thức đã đƣợc thu nhận); trí óc
(năng lực suy nghĩ, tƣ duy); trí thức (chỉ ngƣời có học vấn cao dành công sức,
thời gian của mình cho hoạt động trí óc nhằm mục đích sáng tạo hoặc phát
minh về khoa học, kỹ thuật) [47, tr. 852].
Với tƣ cách một học thuyết chính trị - đạo đức, "Trí" theo Nho giáo
Khổng – Mạnh chủ yếu dùng để chỉ nhận thức, cách ứng xử đạo đức của con
ngƣời với ngƣời khác và với toàn thể xã hội. Học thuyết này ít bàn đến các

vấn đề của thế giới tự nhiên, do đó nếu có đề cập đến lĩnh vực này, chúng ta
thƣờng thấy khái niệm "Trời" vừa đƣợc dùng để chỉ giới tự nhiên, vừa chỉ
giới siêu nhiên có sức mạnh siêu việt, ban tính, mệnh cho con ngƣời, đồng
thời chi phối mọi hoạt động của còn ngƣời. Vấn đề này đƣợc Đổng Trọng
Thƣ (179 – 104 tr.CN) luận chứng cho mục đích chính trị của Nho giáo, đó là
đƣờng lối trị nƣớc bằng đạo đức (hay còn gọi là đức trị) kết hợp với thần
quyền. Nói tóm lại, Nho giáo Khổng – Mạnh với mục đích chính trị thực dụng
đã xác nhận "Trí" là một phạm trù đạo đức dùng để chỉ năng lực phán đoán,
suy lý và ứng xử đạo đức của con người. Đó cũng là đặc điểm nổi bật của
"Trí" trong hệ thống các phạm trù đạo đức của Nho giáo nói chung, Nho giáo
Khổng – Mạnh nói riêng.
Ngoài phạm trù "Trí", chúng ta còn gặp một khái niệm khác cũng đƣợc
sử dụng khá phổ biến trong Nho giáo là "tri" theo nghĩa "tri thức", tức là
những điều hiểu biết do từng trải và học tập mà thu đƣợc. Nhƣ vậy, so với
"Trí" thì "tri" ở mức tiếp nhận kiến thức (cấp 1), còn "Trí" là năng lực xử lý
các kiến thức đó vào hoạt động sống và sáng tạo (cấp 2). Tri là hiểu biết, do
đó Khổng Tử yêu cầu con ngƣời ta phải có lòng thành thực: "Hiểu biết thì nói
là hiểu biết, không hiểu biết thì nói là không hiểu biết, thế mới gọi là biết".
19

Xét về tƣợng hình thì hai chữ này chỉ khác nhau bộ nhật, tức là trong chữ
"Trí" ( ) có bộ nhật ở dƣới, ý nói "tri" ( ) đƣợc ánh sáng mặt trời soi tỏ.
1.2.2. Nho giáo Khổng – Mạnh về nguồn gốc của "Trí".
Khổng Tử là ngƣời sáng lập nên học thuyết Nho gia. Ông chủ trƣơng
xây dựng một học thuyết chính trị - xã hôi lấy Nhân làm tƣ tƣởng chỉ đạo, lấy
Lễ và Chính danh để điều chỉnh xã hội, dùng giáo hóa để cai trị dân. Trong
học thuyết của mình ông cũng bàn về phạm trù “Trí” với tƣ cách là một trong
những chuẩn mực đạo đức cơ bản.
Khổng Tử rất trọng đức “Trí”, cho nên trong Luận ngữ, “Trí” đƣợc đề
cập khá nhiều ở những tình huống khác nhau. Theo Khổng Tử, “Trí” đƣợc

hiểu là sự minh mẫn, sáng suốt của con ngƣời để có thể phân biệt, đánh giá
con ngƣời, sự vật, sự việc và tình huống trong cuộc sống, qua đó xác định cho
con ngƣời cách ứng xử phù hợp.Vì thế, khi Phàn Trì hỏi về “Trí” ông nói: “trí
là biết ngƣời” (Tri nhân – Luận ngữ. Nhan Uyên) [20, tr. 493]. Trong chƣơng
Ung Dã, ông cho rằng, “trí” là theo lẽ phải, làm việc nghĩa giúp ngƣời, kính
trọng quỷ thần nhƣng không nên mê tín một cách mù quáng (Vụ dân chi
nghĩa, kính quỉ thần nhi viễn chi, khả vị trí hĩ – Luận ngữ. Nhan Uyên ) [ Xem
20, tr. 334].
Vậy “Trí” do đâu mà có? Cách bồi dƣỡng để “Trí”phát triển ra sao?
Ứng dụng của “Trí”vào cuộc sống nhƣ thế nào? Đó là những vấn đề Khổng
Tử và các thế hệ học trò ông luôn quan tâm.
Trƣớc hết, chúng tôi nhận thấy điều là, Khổng Tử đƣa ra một tiền đề cơ
bản cho sự hình thành nhân cách con ngƣời xã hội, đó là bản tính của nó.
Theo ông, bản tính con ngƣời ta thuở sơ sinh là giống nhau, nhƣng do tập
nhiễm, tập quán mà trở nên khác xa nhau (tính tương cận dã, tập tương viễn
dã). Cơ sở của nhận định đó là do con ngƣời ta "giàu sang ai cũng muốn cả,
nhƣng nếu không vì đạo lý mà đƣợc giàu sang, chẳng nên đặt mình vào [cảnh
đó]. Nghèo hèn ai cũng chán ghét cả, nhƣng nếu vì đạo lý mà chịu nghèo hèn,
20

chẳng nên từ chối" (Phú dữ quí, thị nhân chi sở dục dã, bất dĩ kỳ đạo đắc chi,
bất xử dã. Bần dữ tiện, thị nhân chi sở ố dã, bất dĩ kỳ đạo đắc chi, bất khử dã
- Luận ngữ. Lý Nhân) [20, tr. 269]. Sự giống nhau ấy (tƣơng cận), theo Khổng
Tử là do trời phú cho con ngƣời. Từ sự tin vào mệnh trời nên Khổng Tử cho
rằng, có trí bẩm sinh, bậc thƣợng trí sinh ra tự nhiên đã biết đƣợc đạo lý và
không biến đổi. Ông nói: “Chỉ có hạng thƣợng trí và hạng hạ ngu là không
thay đổi [tính tình]” (Tử viết: “Duy thượng trí dữ hạ ngu bất di” – Luận ngữ.
Dương Hóa) [20, tr. 614]. Bậc “thượng trí” mà Khổng Tử nói là để chỉ bậc
thánh nhân, sinh ra đã biết và trong mọi tình huống không thay đổi, còn hạng
“hạ ngu” kẻ thấp hèn, có học cũng khó mà thay đổi. Ngƣời mà trời sinh ra đã

thông minh trí tuệ là bậc “thượng trí”. Còn những kẻ sinh ra vốn ngu dốt, đần
độn là hạng “hạ ngu”. Đây là quan điểm có tính chất duy tâm tiên nghiệm đề
cao bậc thánh nhân, quân tử. Quan điểm này còn cho thấy, Khổng Tử không
chỉ có sự phân biệt hạng ngƣời mà còn có sự phân biệt về trình độ nhận thức.
Cả hai hạng ngƣời đó đều là số ít. Do đó, ông cũng nhấn mạnh đến vai trò của
giáo dục, sự cố gắng nỗ lực học tập, tu dƣỡng của cá nhân, coi đó là nguồn
gốc của “Trí” và đồng thời là cách thức nâng trí tuệ con ngƣời lên. Nếu không
khổ công rèn luyện chí và không có phƣơng pháp học tập đúng thì dù có thiện
tâm đến đâu cũng bị cái ngu muội, phóng đãng, phản loạn, cƣờng bạo ngăn
cản, che lấp làm cho lầm lạc. Ông đã lý giải điều này cho Tử Lộ: “Chuộng
điều nhân mà không ham học thì mối che lấp là ngu muội. Chuộng nết trí mà
không ham học thì mối che lấp là phóng đãng. Chuộng chữ tín mà không ham
học thì mối che lấp là sự tổn hại. Chuộng sự ngay thẳng mà không ham học
thì mối che lấp là ƣa phản loạn. Chuộng tính cứng cỏi mà không ham học thì
mối che lấp là tính cƣờng bạo” (Hiếu nhân bất hiếu học, kỳ tệ dã ngu. Hiếu trí
bất hiếu học, kỳ tệ dã đãng. Hiếu tín bất hiếu học, kỳ tệ dã tặc. Hiếu trực bất
hiếu học, kỳ tệ dã loạn. Hiếu cương bất hiếu học, kỳ tệ dã cuồng – Luận Ngữ.
Dương Hóa) [20, Luận ngữ, tr. 622]. Nhân, trí, tín, trực, dũng, cƣơng đều là

×