Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Ảnh hưởng của phân stevia đến sinh trưởng phát triển và năng suất giống lúa BT7 trồng vụ xuân 2013 tại kiến xương thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.39 MB, 101 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




MAI THỊ THU HƯƠNG



ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN STEVIA ĐẾN SINH TRƯỞNG
PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT GIỐNG LÚA BT7
TRỒNG VỤ XUÂN 2013 TẠI KIẾN XƯƠNG- THÁI BÌNH




LUẬN VĂN THẠC SĨ





HÀ NỘI, 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





MAI THỊ THU HƯƠNG


ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN STEVIA ĐẾN SINH TRƯỞNG
PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT GIỐNG LÚA BT7
TRỒNG VỤ XUÂN 2013 TẠI KIẾN XƯƠNG- THÁI BÌNH


LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số : 60.62.0110

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VŨ QUANG SÁNG


HÀ NỘI, 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi chủ trì và thực hiện chính. Những
kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được sử dụng để
bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã được chỉ rõ nguồn gốc.




Tác giả luận văn



Mai Thị Thu Hương







Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các cơ
quan, các thầy, các cô, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGS.TS Vũ Quang
Sáng đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, đóng góp nhiều ý kiến quý báu trong quá trình
thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi tới Ông Nguyễn Như Liên - Giám đốc Trung tâm Khảo nghiệm
Khuyến nông Khuyến ngư Thái Bình, lời cảm ơn về sự quan tâm, giúp đỡ tạo thuận
lợi khi tôi làm thí nghiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô Viện đào tạo Sau Đại học, các thầy
cô Bộ môn Sinh lý, khoa Nông Học, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã nhiệt
tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi trong thời gian học tập cũng như khi
hoàn thành và báo cáo luận văn.

Cảm ơn các nhà khoa học trong ngành, các bạn bè đồng nghiệp và gia đình
đã động viên, tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.

Tác giả


Mai Thị Thu Hương

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT vii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1 Vai trò của cây lúa 3
1.2 Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa trên thế giới 3
1.3 Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa tại Việt Nam 5
1.4 Sản xuất lúa gạo tại tỉnh Thái Bình : 8
1.5 Vai trò của nguyên tố khoáng và một số kết quả nghiên cứu về phân bón cho
cây lúa tại Việt Nam 10
1.5.1 Vai trò của các nguyên tố khoáng 10
1.5.2 Vai trò và sử dụng phân N, P, K đối với cây lúa 13
1.5.3 Kết quả nghiên cứu về phân bón qua lá cho cây trồng 19
1.5.4 Kết quả nghiên cứu phân Stevia 22
Chương 2: VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25

2.1 Đối tượng, vật liệu và địa điểm nghiên cứu
25
2.1.1 Đối tượng, vật liệu nghiên cứu
25
2.1.2 Địa điểm nghiên cứu 26
2.2. Nội dung nghiên cứu 26
2.3 Phương pháp nghiên cứu 26
2.3.1 Bố trí thí nghiệm 26
2.3.2 Các biện pháp kỹ thuật 28
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 32
3.1 Ảnh hưởng của phân bón Stevia pellet (SP) đến sinh trưởng, phát triển và
năng suất lúa giống BT7 trồng vụ xuân 2013 tại Kiến Xương - Thái Bình 32
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

3.1.1 Thời gian sinh trưởng 32
3.1.2 Động thái đẻ nhánh 36
3.1.3 Động thái tăng trưởng chiều cao cây 38
3.1.4 Chỉ số diện tích lá LAI 39
3.1.5 Khả năng tích lũy chất khô 41
3.1.6 Khả năng chống chịu sâu bệnh 43
3.1.7 Ảnh hưởng của phân bón Stevia pellet (SP) đến các yếu tố cấu thành năng
suất của giống lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương- Thái Bình 45
3.1.8 Ảnh hưởng của phân bón Stevia pellet (SP) đến năng suất giống lúa BT7 vụ
xuân 2013 tại Kiến Xương -Thái Bình 47
3.2. Ảnh hưởng của phân bón lá Stevia Green Plus (SGP) đến sinh trưởng, phát triển và
năng suất lúa giống BT7 trồng vụ xuân 2013 tại Kiến Xương-Thái Bình 49
3.2.1 Thời gian sinh trưởng 49
3.2.2 Động thái đẻ nhánh 52
3.2.3 Động thái tăng trưởng chiều cao cây 54

3.2.4 Chỉ số diện tích lá LAI 55
3.2.5 Khả năng tích lũy chất khô 57
3.2.6 Khả năng chống chịu sâu bệnh 58
3.2.7 Ảnh hưởng của phân bón lá Stevia green plus (SGP) đến các yếu tố cấu thành
năng suất của giống lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương- Thái Bình 60
3.2.8 Ảnh hưởng của phân bón lá Stevia Green plus (SGP) đến năng suất giống
lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương-Thái Bình 62
3.2.9 Hiệu quả kinh tế khi sử dụng phân bón lá Stevia Green plus (SGP) cho giống
lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương- Thái Bình 64
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 66
1. Kết luận 66
2. Kiến nghị 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
PHỤ LỤC 71
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

DANH MỤC BẢNG
STT Tên bảng Trang

1.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa ở Việt Nam (2001 – 2014) 7
3.1. Ảnh hưởng của phân bón Stevia pellet (SP) đến thời gian sinh trưởng
của giống BT7 trồng vụ xuân 2013 tại Kiến Xương – Thái Bình 33
3.2. Ảnh hưởng của phân bón Stevia pellet (SP) đến khả năng đẻ nhánh của
giống BT7 trồng vụ xuân 2013 tại Kiến Xương – Thái Bình. 37
3.3. Ảnh hưởng của phân bón Stevia pellet (SP) đến động thái tăng trưởng
chiều cao cây giống BT7 trồng vụ xuân 2013 tại Kiến Xương – Thái Bình. 38
3.4. Ảnh hưởng của phân bón Stevia pellet (SP) đến chỉ số diện tích lá LAI
của giống lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương- Thái Bình 40
3.5. Ảnh hưởng của phân bón Stevia pellet (SP) đến khả năng tích lũy chất

khô của giống lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương-Thái Bình 42
3.6. Ảnh hưởng của phân bón Stevia pellet (SP) đến khả năng chống chịu
sâu bệnh của giống lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương- Thái Bình 44
3.7. Ảnh hưởng của phân bón Stevia pellet (SP) đến các yếu tố cấu thành
năng suất giống lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương- Thái Bình 46
3.8. Ảnh hưởng của phân bón Stevia pellet (SP) đến năng suất giống lúa
BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương- Thái Bình 48
3.9. Ảnh hưởng của phân bón lá Stevia Green plus (SGP) đến thời gian sinh
trưởng của giống BT7 trồng vụ xuân 2013 tại Kiến Xương – Thái Bình 50
3.10. Ảnh hưởng của phân bón lá Stevia green plus (SGP) đến khả năng đẻ
nhánh của lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương- Thái Bình 53
3.11. Ảnh hưởng của phân bón lá Stevia Green plus (SGP) đến động thái
tăng trưởng chiều cao của giống lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến
Xương – Thái Bình 54
3.12. Ảnh hưởng của phân bón lá Stevia Green plus (SGP) đến chỉ số diện
tích lá LAI của lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương- Thái Bình 55
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

3.13. Ảnh hưởng của phân bón lá Stevia green plus (SGP) đến khả năng
tích lũy chất khô của giống lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương-
Thái Bình 57
3.14. Ảnh hưởng của phân bón lá Stevia Green plus (SGP) đến khả năng chống
chịu sâu bệnh của giống lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương- Thái Bình. 59
3.15. Ảnh hưởng của phân bón lá Stevia Green plus (SGP) đến các yếu tố cấu
thành năng suất của giống lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương- Thái Bình 61
3.16. Ảnh hưởng của phân bón lá Stevia Green plus (SGP) đến năng suất
giống lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương- Thái Bình 63
3.17. Hiệu quả kinh tế khi sử dụng phân bón lá Stevia Green plus (SGP) cho
giống lúa BT7 vụ xuân 2013 tại Kiến Xương- Thái Bình 65


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
BĐĐN Bắt đầu đẻ nhánh
BĐT Bắt đầu trỗ
BRXH Bén rễ hồi xanh
BT7 Bắc thơm 7
BVTV Bảo vệ thực vật
CCCC Chiều cao cuối cùng
CHT Chính hoàn toàn
cs Cộng sự
CT Công thức
Đ/C Đối chứng
DT Diện tích
KL Khối lượng
KTĐN Kết thúc đẻ nhánh
KTT Kết thúc trỗ
LAI Chỉ số diện tích lá
NHH Nhánh hữu hiệu
NS Năng suất
NSLT Năng suất lý thuyết
NSTT Năng suất thực thu
NXB Nhà xuất bản
P
1000
Khối lượng nghìn hạt
SGP Stevia Green plus

SP Stevia pellet



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Lúa (Oryza sativa L.) là cây lương thực chính ở các nước châu Á, chiếm
khoảng 92% sản lượng lúa gạo trên toàn thế giới (IRR, 2002). Nhu cầu lương thực
ngày càng tăng nên sản xuất lúa gạo phải tăng để đáp ứng được nhu cầu lương thực.
Tuy nhiên, việc mở rộng diện tích trồng lúa là vô cùng khó khăn vì nhiều diện tích
trồng lúa trên thế giới cũng như Việt Nam đã và đang bị chuyển đổi thành đất đô
thị, khu công nghiệp (Horie, 2005). Vì vậy, để tăng sản lượng lương thực phải đi
theo hướng tăng năng suất trên đơn vị sản xuất. Bên cạnh đó, tăng năng suất lúa là
chìa khóa để cải thiện đời sống cho người nông dân và đóng góp cho sự phát triển
kinh tế, giảm đói nghèo (Dawe, 2000). Có nhiều biện pháp làm tăng năng suất lúa
song quan trọng là giống tốt và các biện pháp kỹ thuật phù hợp, tiên tiến. Trong đó
phân bón là biện pháp kỹ thuật quan trọng làm tăng năng suất cây trồng. Hiện nay,
sự phát triển của nền nông nghiệp nước ta đang đi vào mức độ thâm canh cao với
việc sử dụng ngày càng nhiều phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật hóa học và
hàng loạt các biện pháp như trồng lúa 3 vụ, phá rừng canh tác cà phê, hồ tiêu, điều,
đậu tương, rau… với mục đích khai thác, chạy theo năng suất và sản lượng (Nguyễn
Quang Thạch, 2001).
Chính vì vậy, với sự canh tác trên đã làm cho đất đai ngày càng thoái hóa,
dinh dưỡng bị mất cân đối, mất cân bằng hệ sinh thái trong đất, hệ vi sinh vật trong
đất bị phá hủy, tồn dư các chất độc hại trong đất ngày càng cao, nguồn bệnh tích
lũy trong đất càng nhiều dẫn đến phát sinh một số dịch hại không dự báo trước.

Thái Bình là một trong những tỉnh sản xuất nông nghiệp là chính, đặc biệt cây lúa
thâm canh cao về sử dụng phân bón làm cho đất canh tác ngày càng bị thoái hóa
nghiêm trọng. Cho nên cần tăng cường sử dụng chế phẩm sinh học, phân bón hữu
cơ trong canh tác cây trồng để tăng năng suất và chất lượng cây trồng, bổ sung dinh
dưỡng hữu cơ cho đất đang là xu hướng chung của Việt Nam nói riêng và thế giới
nói chung (Hoàng Ngọc Thuận, 2005).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài: “Ảnh hưởng của phân Stevia đến sinh
trưởng, phát triển và năng suất lúa BT7 trồng vụ xuân 2013 tại Kiến Xương –
Thái Bình”.
2. Mục tiêu của đề tài:
Tìm ra phương pháp sử dụng phân bón phức hợp hữu cơ Stevia (dạng viên nén và
dạng lỏng) phù hợp cho cây lúa sinh trưởng, phát triến tốt và năng suất, chất lượng cao
để góp phần vào việc xây dựng quy trình thâm canh tăng năng suất, mang lại hiệu quả
kinh tế cao cho người trồng lúa tại tỉnh Thái Bình.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp những dẫn liệu khoa học về hiệu
lực của phân bón phức hợp hữu cơ Stevia đối với cây lúa trồng trên đất Thái Bình.
- Kết quả đề tài là tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy và nghiên
cứu về sử dụng phân bón sinh học cho cây lúa thâm canh cao
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần vào việc xây dựng quy trình thâm
canh tăng năng suất lúa năng suất, chất lượng cao và cải tạo đất trồng lúa trên địa
bàn tỉnh Thái Bình.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đề tài tiến hành thí nghiệm trên giống lúa BT7
- Thời gian thực hiện: vụ xuân 2013

- Địa điểm: xã Hòa Bình huyện Kiến Xương - Thái Bình.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Vai trò của cây lúa
Lúa là loại cây trồng gắn bó với truyền thống sản xuất nông nghiệp của
nhiều quốc gia. Sản phẩm chính của lúa là gạo, trong gạo chứa nhiều chất dinh
dưỡng vitamin nhóm B và các axit amin không thay thế. Theo Lu.B.R.Lorestto G.C
(1980), tại Châu Á gạo là nguồn cung cấp dinh dưỡng chủ yếu đóng góp 56% năng
lượng, 42,9% protein hàng ngày. Nó đặc biệt quan trọng đối với người nghèo khi
mà lương thực cung cấp tới 70% năng lượng và protein thông qua bữa ăn hàng
ngày. Tuỳ theo truyền thống ẩm thực và thu nhập của các quốc gia, bộ phận dân cư
khác nhau mà yêu cầu về chất lượng gạo cũng khác nhau. Những nơi mà gạo
là lương thực thứ yếu (Châu Âu) thì họ yêu cầu loại gạo tốt. Gạo 5-10% tấm được
tiêu thụ nhiều ở Tây Âu, 10-13% gạo sử dụng làm lương thực ở các nước Đông Âu.
Ở Châu Á gần 90% dân số Bangladesh và phần lớn dân số Ấn Độ, Srilanca,
Pakistan, các nước thuộc Châu Phi tiêu dùng loại gạo đồ, còn gạo nếp được tiêu thụ
chính ở Lào, Camphuchia và một số vùng ở Thái Lan.
Thành phần của các chất chứa trong 100g gạo lứt: Carbohydrate: 71,1g;
Protein % (N x 6,25): 7,3 ; Dầu thô: 2,2 g; Chất xơ: 4,0 g; Vitamin B: 0,29 mg; Vitamin
B2 (mg): 0,04; Niacin (mg): 4,0; Vitamin E (mg): 0,8; Sắt (mg %): 3,0; Kẽm (mg %):
2,0; Lysine (g/16gN): 3,8; Threonine (g/16gN): 3,6; Methionin + Cystine (g/16gN): 3,9;
Tryptophan (g/16gN): 1,1 và axit amin khác.
Ngoài cung cấp lương thực cho nhân dân trong nước, lúa gạo còn là một mặt
hàng xuất khẩu của nhiều quốc gia góp phần trong tăng trưởng kinh tế.
1.2 Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa trên thế giới
Trong thống kê nông nghiệp của FAO các loại lương thực truyền thống chủ
yếu được sản xuất và tiêu thụ trên thế giới bao gồm năm loại là lúa mì, lúa gạo, ngô,
kê và đại mạch. Trong đó lúa mì và lúa gạo là hai loại lương thực cơ bản nhất dùng

cho con người. Ngày nay do sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ nhiều
ngành nghề mới ra đời nhưng chưa có ngành nào dù hiện đại đến đâu cũng không
có thể thay thế được sản xuất lúa gạo (Bùi Huy Đáp, 1999). Vào đầu những năm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

1960, viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) đã được thành lập tại Losbanos,
Laguna, Philippin. Sau đó các viện nghiên cứu nông nghiệp quốc tế khác cũng được
thành lập ở các châu lục và tiểu vùng sinh thái khác nhau như IRAT, EAT, CIAT,
ICRISAT (IRRI, 1997) và (Gomez, K.A., 1995).
Với sự thành lập của Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI nhiều giống lúa mới
đã ra đời: giống lúa IR8 và hàng loạt các giống mới như IR5, IR22, IR36 Các
nước cũng đã lai tạo ra 178 giống có thành phần di truyền từ IR và thích hợp với
mỗi địa phương (Bùi Huy Đáp, 1978). Năm 1970 Viện đã đưa ra giống lúa chín
sớm và chống sâu đục thân IR747, B2-6, giống chống bệnh bạc lá IR 497- 84- 3,
IR 498- 1- 88
Hiện nay viện IRRI đang tập trung vào nghiên cứu chọn tạo ra các giống lúa
có năng suất siêu cao (siêu lúa) có thể đạt 13 tấn/vụ, đồng thời tập trung vào nghiên
cứu chọn tạo các giống lúa có chất lượng cao (giàu vitamin A, giàu protein, giàu
lisine, có mùi thơm…) để vừa hỗ trợ các nước giải quyết vấn đề an ninh lương thực,
vừa đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng (Cada, E.C. and P.B.
Escuro, 1997). Trung Quốc là nước đã nghiên cứu và đưa vào sản xuất thành công
thành tựu khoa học kỹ thuật về lúa lai được đánh giá là một phát minh lớn về khoa
học kỹ thuật trong nghề trồng lúa của thế kỉ 20 (Nguyễn Văn Luật, 2001). Nhưng
phải đến năm 1973 các nhà khoa học Trung Quốc mới tìm đủ 3 dòng: dòng bất dục
đực di truyền tế bào chất, dòng duy trì bất dục và dòng phục hồi bất dục. Từ đây đã
tạo ra các giống lúa ưu thế lai đầu tiên như: Nam ưu số 2, Sán ưu số 2, Uỷ ưu số 6
(Đinh Văn Lữ, 1978). Lúa lai ra đời đã giúp cho nền sản xuất lúa Trung Quốc phá
được hiện tượng đội trần về năng suất lúa. Năng suất lúa tăng đã xoá được nạn thiếu
lương thực ở đất nước rộng lớn và đông dân này. Nhiệm vụ trọng tâm của viện

nghiên cứu phát triển lúa lai của Trung Quốc trong thế kỷ 21 là phát triển lúa lai 2
dòng và đẩy mạnh nghiên cứu lúa lai 1 dòng và lúa lai siêu cao sản nhằm tăng năng
suất và sản lượng lúa gạo của đất nước (Lin, S.C., 2001). Theo Jenning P.R.,
Coffmen W.R., Kauffman H.E. (1979. Hiện nay các nhà chọn tạo giống đang tập
trung và định hướng chọn tạo kiểu hình cây lúa có chiều cao lý tưởng là 100 cm
(FAOSTAT.FAO.ORG).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

Gần đây Thái Lan đã lai tạo được giống lúa giàu chất sắt lớn gấp 30 lần so với
các giống thường. Ngoài ra còn chứa protein, kẽm và các tác nhân chống oxy hoá
(Nguyễn Văn Luật, 2001).
Hiện nay trên thế giới có khoảng trên 100 quốc gia trồng và sản xuất lúa gạo,
trong đó tập trung nhiều ở các nước Châu Á, 85% sản lượng lúa trên thế giới phụ
thuộc vào 8 nước ở Châu Á: Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia,
Banglades, Myamar và Nhật Bản. Ở khu vực Đông Á còn có các nước trồng lúa
khác như: Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên, Đài Loan (Hoang, C.H., 1999). Tùy thuộc vị
trí địa lí, điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ thâm canh của mỗi nước mà năng
suất và sản lượng có sự chênh lệch nhau nhưng theo xu hướng tăng dần trong những
năm gần đây. Ví dụ: năm 2005 sản xuất lúa gạo trên thế giới về diện tích là 154,987
triệu ha, năng suất 40,935 tạ/ha với sản lượng là 634,444 tr.tấn đến năm 2011 tương
ứng là: diện tích 164,125 tr.ha, năng suất 44,037 tạ/ha và sản lượng là 422,760 triệu
tấn, năm 2012 là 489,8 triệu tấn và năm 2013 là 494 triệu tấn (Nguồn:FAOSTAT,
2013). Những nước sản xuất lúa gạo nhiều nhất tính đến năm 2011 là: Trung Quốc
(202,667 tr.tấn); Ấn Độ (155,700 tr.tấn); Indonexia (65,740 tr.tấn); Bangladet
(50,627 tr.tấn); Thái Lan (34,588 tr.tấn); Việt Nam (42,331 tr.tấn); Myamar (32,800
tr.tấn); Philippin (16,684 tr.tấn); Braxin (13,477 tr.tấn) và Nhật Bản (8,402 tr.tấn) (
Nguồn: FAOSTAT, 2012)
1.3 Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa tại Việt Nam
Ở Việt Nam sản xuất lúa chiếm tỉ trọng lớn trong sản xuất nông nghiệp, thu

hút hơn 70% dân số và 70% lao động xã hội cả nước. Lúa gạo còn là mặt hàng xuất
khẩu vừa có kim ngạch lớn vừa có tính truyền thống lâu đời. Do đó việc nghiên cứu
các giống lúa cho năng xuất cao, phẩm chất tốt luôn được nhà nước ta quan tâm.
Trung tâm giống cây trồng Ma Lâm - Bình Thuận đã chọn tạo được hai tập
đoàn lúa với khoảng 800 giống. Trong đó có hai giống lúa ML48 và TH6 được rất
nhiều nông dân các tỉnh miền Trung và miền Đông Nam Bộ ưa chuộng và đưa vào
gieo cấy. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam được thành lập vào năm
1952 nhưng ngay từ giai đoạn 1954-1963 Viện đã tuyển chọn được nhiều giống lúa
mới: Nam Ninh, Trà Trung Tử, 828, 813, NN1 Trong thời kì đổi mới nhờ sử dụng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

công nghệ sinh học trong nghiên cứu phân loại, đánh giá tính đa dạng di truyền
Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam đã tạo ra các giống cây trồng chất
lượng cao đạt tiêu chuẩn xuất khẩu như các giống BM 9895, Xi 23, AYT 77, giống
lúa lai HYT 57 Bằng các phương pháp chọn tạo giống mới như nuôi cấy bao
phấn, nuôi cấy tế bào sôma, lai xa, đột biến, ưu thế lai, lai tạo kết hợp với đột biến,
lai tạo kết hợp với nuôi cấy bao phấn, kết quả bước đầu đã tạo nhiều dòng, giống
mới có giá trị như OM 3007-16-27, OM 3007-42-94, DT 122, BM 9963. Đây là
những dòng, giống mang nhiều đặc điểm quý như tiềm năng năng suất cao, chất
lượng gạo tốt, chống chịu sâu bệnh và các điều kiện bất thuận như phèn, mặn, hạn,
úng (Bùi Huy Đáp, 1985).
Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long công bố đã nghiên cứu ứng dụng thành
công công nghệ chuyển nạp gen tạo ra giống lúa mới giàu vi chất dinh dưỡng từ ba
giống lúa IR64, MTL250 và Taipei 309, đặc tính ưu điểm vượt trội của giống lúa
mới này là có hàm lượng cao các vi chất như: vitamin A, vitamin E, sắt, kẽm ,
những vi chất rất cần thiết đối với con người. Ngoài ra dòng lúa biến đổi gen còn
gia tăng đáng kể chất oryzanol chất quan trọng hơn cả vitamin E có tác dụng chống
oxi hoá, giúp làm giảm hàm lượng cholesterol trong máu. Dòng lúa biến đổi này
còn có cả các ưu điểm kháng sâu bệnh, đảm bảo tính an toàn sinh học, dễ trồng có

thể đưa vào sản xuất lúa hàng hoá vì chúng khắc phục được những khiếm khuyết về
tính không ổn định thường gặp ở cây biến đổi gen (Nguyễn Hữu Nghĩa, 1996). Viện
Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành chọn tạo và đã thành công
với ba giống BM9603, HT1 và N97 (Lê Vĩnh Thảo, Nguyễn Ngọc Tiến, 2003).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

Bảng 1.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa ở Việt Nam (2001 – 2014)
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
2001 7.492,7 42,9 32.108,4
2002 7.504,3 45,9 34.447,2
2003 7.452,2 46,4 34.568,8
2004 7.445,3 48,6 36.148,9
2005 7.329,2 48,9 35.832,9
2006 7.324,8 48,9 35.849,5
2007 7.207,4 49,9 35.942,7
2008 7.400,2 52,3 38.729,8
2009 7.437,2 52,4 38.950,2
2010 7.489,4 53,4 40.005,6
2011 7.651,4 55,3 42.324,9
2012 7.750,0 56,0 43.400,0
2013 7.730,0 55,8 44.100,0
2014 (dự kiến) 7.600,0 57,1 43.400,0
(Nguồn: Tổng cục thống kê)


Từ năm 1975, IRRI đã có quan hệ chính thức với Việt Nam trong chương trình
thí nghiệm giống quốc tế trước đây và hiện nay là chương trình đánh giá nguồn gen cây
lúa, trong quá trình hợp tác Việt Nam đã nhập được 279 tập đoàn lúa gồm hàng ngàn
mẫu giống, mang nhiều đặc điểm sinh học tốt, chống chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại
cảnh bất thuận như nhiệt độ, nhiễm mặn, hạn hán, úng lụt… (Shen, J.H., 2000).
Xu hướng trong nghiên cứu của các nhà khoa học nông nghiệp hiện nay là
tập trung nghiên cứu cải tiến hệ thống cây trồng trên các vùng đất bằng cách đưa
thêm một số loại cây trồng mới vào hệ canh tác nhằm tăng sản lượng nông sản/1
đơn vị diện tích canh tác/1 năm với mục đích xây dựng nền nông nghiệp sinh thái
phát triển bền vững (Phạm Văn Tiêm, 2005).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

Việt Nam là nước có nền nông nghiệp với lịch sử phát triển hàng nghìn năm
trong đó cây lúa có vị trí rất quan trọng và những năm gần đây Việt Nam và Thái
Lan đã trở thành 2 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất trên thế giới. Tuy nhiên sản xuất
lúa gạo ở Việt Nam còn nhiều thách thức trong chiến lược an toàn lương thực, trong
sự đa dạng sinh học của một nền nông nghiệp bền vững đặc biệt là khả năng nâng
cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế (Nguyễn Hữu Nghĩa, 1996).
Tuy nhiên, nếu so sánh với các nước trồng lúa tiên tiến như Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… thì năng suất lúa của Việt Nam vẫn còn kém xa (Itoh
và cộng sự, 2000). Số liệu bảng 1.1 cho thấy tình hình sản xuất lúa gạo của Việt
Nam từ 2001 – 2014.
Từ năm 2001 đến nay xuất khẩu gạo của Việt nam liên tục tăng từ 3,721 tr.tấn
(2001) – 7,5 tr.tấn (2013) (Nguồn:Tổng cục thống kê)
1.4 Sản xuất lúa gạo tại tỉnh Thái Bình :
Tỉnh Thái Bình có diện tích tự nhiên 1.546 km
2
, dân số 1,78 triệu người,

trong đó 90,1% sống ở khu vực nông thôn với nền văn minh lúa nước sông Hồng.
Năm 1966 đánh dấu Thái Bình là tỉnh đầu tiên ở miền Bắc đạt năng suất lúa
5 tấn/ha/năm và tăng liên tục lên 8 – 10 tấn/ha/năm, nhiều năm qua giữ ở mức 12,5
– 13 tấn/ha/năm.
Năng suất lúa tại Thái Bình 2008-2012 (tạ/ha)
Năm Trung bình Lúa đông xuân Lúa mùa
2008 65,67 70,01 61,32
2009 66,15 70,35 62,00
2010 66,37 70,60 62,19
2011 65,86 72,60 59,18
2012 65,07 71,62 58,55
(Nguồn: Chi cục thống kê Thái Bình)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

Sản lượng lúa cả năm tại Thái Bình 2008-1012 (nghìn tấn)
Năm Tổng số Lúa đông xuân Lúa mùa
2008 1105,2 589,4 515,7
2009 1105,8 585,3 520,5
2010 1104,4 583,7 520,7
2011 1091,3 598,5 492,8
2012 1059,5 581,2 479,3
(Nguồn: Chi cục thống kê Thái Bình)
Tổng diện tích đất lúa hiện nay của tỉnh gần 84.660 ha. Thái Bình chú trọng
đầu tư, nâng cấp hạ tầng hệ thống sản xuất giống, hệ thống thủy lợi, đê điều, đẩy
mạnh cơ giới hóa trong sản xuất, đặc biệt ứng dụng mạnh mẽ, có hiệu quả các tiến
bộ khoa học, công nghệ ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất lúa gạo. Đặc biệt,
có một số giống lúa được chọn lọc, nhân giống tại Thái Bình như: CNR36, TBR1,
BC15, TBR36, TBR45 Thái Xuyên 111 đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn công nhận là giống Quốc gia.

Giống BC15 là giống có khả năng đẻ nhánh khoẻ, năng suất cao, chất lượng
khá nhưng nhiễm bệnh đạo ôn. BC15 được ra đời từ giống mẹ là 13/2 tên gốc khoa
học là IR174494. Sau 10 năm tìm tòi nhân giống kỹ sư Đặng Tiểu Bình thuộc Trung
tâm Khảo nghiệm khuyến nông khuyến ngư tỉnh Thái Bình cấy đi rồi cấy lại, nhân
thành tổ hợp nhiều dòng BC7, BC8 đến BC 12,13.v.v. đến dòng 15 thì cây lúa đã
thuần hơn có thêm những ưu điểm vượt trội giống mẹ. Đến tháng 12/2008 giống
BC15 mới được chính thức công nhận là giống quốc gia được cấp Bằng bảo hộ gen
di truyền 20 năm theo công ước Quốc tế và được bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại
Cục Sở hữu trí tuệ.
Cùng với đó, tỉnh đã đẩy mạnh việc ứng dụng nhanh chóng, có hiệu quả các
quy trình quản lý cây trồng tổng hợp (ICM), quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), quy
trình gieo thẳng bằng công cụ xạ hàng cải tiến, quy trình sản xuất lúa sạch, các loại
phân NPK chuyên dùng và phân sinh học,…Nhờ đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ, bước đầu tỉnh đã hình thành những vùng sản xuất tập trung với
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

quy mô vài chục đến hàng trăm ha có hiệu quả kinh tế cao, giá trị thu hoạch lúa
đạt 80 – 90 triệu đồng/ha/năm.
Vì lẽ đó, những năm qua dù gặp rất nhiều khó khăn, thách thức do thiên tai,
dịch bệnh và diện tích đất lúa giảm nhưng năng suất lúa của tỉnh luôn đạt từ 125 –
130 tạ/ha/năm, tổng sản lượng lúa đạt ổn định trên một triệu tấn/năm, góp phần
quan trọng bảo đảm an ninh lương thực cho cả vùng và quốc gia. Hằng năm Thái
Bình dư thừa khoảng 400 nghìn tấn lúa phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu. Tổng
giá trị sản xuất lúa của tỉnh chiếm tỷ trọng khoảng 7% GDP của tỉnh.
Việc phát triển sản phẩm nông nghiệp trong đó có lúa gạo đã nhận được sự
quan tâm sâu sắc của lãnh đạo tỉnh. Nghị quyết Đại hội đại biểu tỉnh Thái Bình lần
thứ XVIII đã xác định: Giai đoạn 2011 – 2015, đảm bảo năng suất lúa đạt 130
tạ/ha/năm trở lên, giá trị sản xuất chăn nuôi tăng 8,5%/năm, giá trị sản xuất thủy sản
tăng 9%/năm trở lên; đến năm 2015 diện tích lúa chất lượng cao chiếm 40% diện

tích canh tác trở lên, diện tích cây vụ đông chiếm 50% diện tích canh tác trở lên,
chăn nuôi chiếm tỷ trọng 46% giá trị sản xuất nông nghiệp.
Để hoàn thành các nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, tỉnh xác
định, tiếp tục phát triển sản xuất lúa gạo theo hướng sản xuất hàng hóa có giá trị và
hiệu quả cao, bền vững. Trong đó, tập trung “Phát triển vùng sản xuất lúa chất
lượng, hiệu quả cao giai đoạn 2012 - 2015” với mục tiêu tổng quát là xây dựng,
phát triển vùng sản xuất lúa chất lượng mang thương hiệu Thái Bình, phát triển
thương hiệu sản phẩm gạo Nhật sản xuất tại Thái Bình; “Xây dựng cánh đồng mẫu
lớn” để hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, hiệu quả cao.
1.5 Vai trò của nguyên tố khoáng và một số kết quả nghiên cứu về phân bón
cho cây lúa tại Việt Nam
1.5.1 Vai trò của các nguyên tố khoáng
Mỗi nguyên tố dinh dưỡng trong phân bón lá có vai trò khác nhau và nếu thiếu
nó, cây trồng sẽ sinh trưởng phát triển kém, năng suất, chất lượng nông sản giảm rõ
rệt, nhất là với những nguyên tố trung lượng và vi lượng như: Canxi, Kẽm, Molipden,
Bo, Magie…, chúng có tác dụng thúc đẩy và kích thích khả năng sinh trưởng cũng
như ra hoa, đậu quả của cây (Bùi Huy Hiền , 2002)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

+ Vai trò của canxi (Ca): Ca tham gia vào sự hình thành tế bào, khi canxi kết
hợp với pectatcanxi tạo nên thành tế bào và có mặt ở các lớp giữa tế bào, ở thành tế
bào, lông hút và ở ống phấn. Do vậy, khi thiếu canxi sự nẩy mầm và sinh trưởng
của hạt phấn bị ức chế, mô phân sinh và nhất là mô phân sinh đỉnh rễ bị hại (Võ
Minh Kha, 1996). Canxi thích hợp cho sự phát triển của vi khuẩn nốt sần, sự hình
thành và hoạt động cố định đạm của cây
+ Vai trò của Magiê (Mg): Mg có trong thành phần của diệp lục nên vai trò
quan trọng nhất của Mg là quá trình quang hợp và trao đổi gluxit. Mg cùng với Ca
có tác dụng điều chỉnh pH đất và trong cây thích hợp cho vi khuẩn nốt sần phát triển
để tăng khả năng cố định đạm giúp cây sinh trưởng, phát triển tốt (Võ Thị Gương

và Cs, 1998).
+ Vai trò của lưu huỳnh (S): S là thành phần cấu tạo của axit amin, protein,
có vai trò quan trọng trong nhiều quá trình trao đổi chất trong cây: quang hợp, hô
hấp Lưu huỳnh còn tham gia vào quá trình oxi hóa khử, là một nguyên tố kích
thích sự hình thành diệp lục. Do vậy, thiếu S ảnh hưởng xấu đến sự tổng hợp
protein, đến quang hợp, hô hấp làm cây sinh trưởng kém, năng suất và phẩm chất
giảm, đặc biệt đối với cây họ đậu.
+ Vai trò của Bo (B): Khi có mặt Bo trong cây thì cây hút nitrat và lân giảm,
thúc đẩy hút kali và canxi. Cây cần Bo ở tất cả các thời kỳ sinh trưởng, phát triển.
Các tác giả Bùi Huy Hiền (2002), Hoàng Minh Tấn đã nhấn mạnh rằng: Bo có vai
trò quan trọng trong quá trình trao đổi axit nucleic ở trong cây. Bo còn ảnh hưởng
đến quá trình quang hợp do nó thúc đẩy tổng hợp diệp lục trong lá cây nên nếu thiếu
Bo thì cường độ quang hợp của cây giảm. Bo còn làm tăng khả năng chống chịu của
cây với điều kiện bất lợi như hạn, nhiệt độ thấp, sâu bệnh hại
+ Vai trò của đồng (Cu): Cu có trong thành phần thành của thành viên chuỗi
vận chuyển điện tử trong quang hợp, Cu hoạt hóa nhiều enzim oxi hóa khử liên
quan đến các quá trình sinh lý, sinh hóa trong cây như: tổng hợp protein, axit
nucleic, dinh dưỡng nitơ, hoạt động quang hợp. Tác động của Cu trong những phản
ứng đó là đặc thù và không thể do nguyên tố khác thực hiện được. Cu ảnh hưởng lớn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

đối với quá trình quang hợp và đặc biệt trong việc hình thành diệp lục và làm tăng
tính bền của sắc tố này trong lá cây dưới tác động của yếu tố bất thuận
+ Vai trò của kẽm (Zn): Zn tham gia vào thành phần của 70 loại enzim trong
các cây trồng bậc cao nên thiếu Zn cây không thể phát triển và chết nhanh chóng
sau khi nẩy mầm dù có đầy đủ các nguyên tố khác (Hoàng Minh Tấn và CS, 2006).
Đối với cây trồng khi được cung cấp Zn sẽ tăng cường hút K, Si, Mo, Mn và tăng
tính chống chịu với điều kiện bất lợi. Thiếu kẽm làm cây rối loạn về trao đổi
phytohocmon dẫn đến sinh trưởng bất thường: lá cây nhỏ, xoăn, đốt cây ngắn và bị

biến dạng (Võ Minh Kha, 1996). Kẽm tham gia trực tiếp vào quá trình tổng hợp
diệp lục và ảnh hưởng tới quang hợp của cây. Zn có tác động tích cực trong việc
hình thành các vitamin nhóm B, C nên khi cây được cung cấp đầy đủ Zn sẽ thúc đẩy
quá trình tổng hợp vitamin, protein, lượng đường chứa saccaroza tăng
+ Vai trò của mangan (Mn): Mn đóng vai trò rất quan trọng cây như: hoạt
hóa nhiều enzim của chu trình Crebs và của quá trình khử nitrat, đặc biệt vai trò Mn
trong quang phân ly nước ở pha sáng của quang hợp. Mn có vai trò sinh lý trong
cây là tham gia vào quá trình oxi hóa chất hữu cơ trong hô hấp, Mn làm tăng hoạt
tính của các enzim chứa Fe và làm các phản ứng oxi hóa - khử hoạt động bình
thường. Mn kích thích sự hút lân, tăng hiệu lực của phân lân cũng như thúc đẩy quá
trình hô hấp thông qua vai trò xúc tiến oxi hóa các hydratcacbon tạo CO
2
và H
2
O.
Mn có tác dụng làm tăng hoạt động các enzim trong quá trình tổng hợp diệp lục
(Bùi Đình Dinh, 1999).
+ Vai trò của molypden (Mo): Mo có vai trò rất quan trọng trong trao đổi
nitơ, nó có mặt trong enzim nitratreductaza, nitrogenaza trong việc khử nitrat và cố
định nitơ phân tử nên Mo rất cần thiết cho cây họ đậu, Mo có tác dụng làm tăng sử
dụng lân. Mo còn có vai trò quan trọng trong việc vận chuyển các electron trong hệ
thống enzim thực hiện các phản ứng oxi hóa khử trong cây (Đường Hồng Dật,
2002), cây thiếu Mo có biểu hiện vàng lá và đình trệ sinh trưởng.
Như vậy, khi thiếu các nguyên tố vi lượng đều ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng
phát triển, năng suất và chất lượng sản phẩm thu hoạch. Ở Việt Nam, diện tích đất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

canh tác bình quân đầu người trong vòng 65 năm qua đã giảm từ 2.548 m
2

xuống còn
732 m
2
/người, tương đương với mức độ giảm 1,1%/năm (Nguyễn Văn Bộ, 2003).
Như vậy trong nông nghiệp hiện nay, sản lượng cây trồng sẽ được quyết định chủ yếu
bằng yếu tố năng suất thông qua thâm canh và áp dụng các kỹ thuật mới trong công
tác chọn tạo giống, bảo vệ thực vật và chế biến, bảo quản sau thu hoạch, trong đó vai
trò của phân bón là cực kỳ quan trọng. Điều này cũng phù hợp với kinh nghiệm lâu
đời của ông cha ta là “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Ngoài ra, cùng với
năng suất kinh tế, phân bón làm tăng lượng sinh khối cây do đó tăng nguồn hữu cơ trả
lại cho đất, góp phần ổn định độ phì của đất.
Theo kết quả tổng kết của Mai Văn Quyền (2002). trên 60 thí nhiệm khác
nhau, thực tiễn ở 40 nước có khí hậu khác nhau cho thấy: Nếu đạt năng suất lúa 3
tấn thóc/ha, thì cây lúa lấy đi hết 50kg đạm, 260kg lân, 80kg kali, 10kg CaO, 6kg
Mg, 5kg S và nếu ruộng lúa đạt năng suất đến 6 tấn/ha thì lượng dinh dưỡng cây lúa
lấy đi là 100kg đạm, 50kg lân, 160kg kali, 19kg CaO, 12kg Mg, 10kg S (Yosida,
1979). Lấy trung bình, cứ tạo 1 tấn thóc cây lúa lấy đi hết 17kg đạm, 8kg lân, 27kg
kali, 3kg CaO, 2kg Mg và 1,7kg S (Mai Văn Quyền, 2002).
1.5.2 Vai trò và sử dụng phân N, P, K đối với cây lúa
* Phân đạm đối với cây lúa: Nitơ là nguyên tố dinh dưỡng quan trọng nhất
đối với cây lúa nói riêng và cây trồng nói chung trong các giai đoạn sinh trưởng và
phát triển. Nitơ tham gia vào nhiều thành phần trong cây như: axit amin, protein,
axit nucleic, sắc tố trong lá làm nhiệm vụ hấp thu ánh sáng mặt trời, thành phành
ATP, NADP.H
+
trong trao đổi năng lượng, trong thành phần của phytohocmon,
phytocrom…Nghiên cứu cho thấy, sau khi tăng lượng đạm thì cường độ quang
hợp, cường độ hô hấp và hàm lượng diệp lục của cây lúa tăng lên, nhịp độ quang
hợp, hô hấp không khác nhau nhiều nhưng cường độ quang hợp tăng mạnh hơn
cường độ hô hấp gấp 10 lần cho nên vai trò của đạm làm tăng tích luỹ chất khô

(Nguyễn Thị Lẫm, 1994). Kết quả nghiên cứu trên 2 giống lúa ngắn ngày (Khang
Dân và giống mới chọn tạo) của Tăng Thị Hạnh (2013) cho thấy: khi tăng mức đạm
bón từ 0 đến 45kgN/ha đã làm tăng các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất ở cả
vụ xuân và vụ mùa. Khi nghiên cứu 3 dòng giống lúa chuyển gen, Jian et al (2014)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

cho thấy: năng suất của cả 3 dòng giống tăng từ mức bón 0 đến 90 và 135kgN/ha,
năng suất tăng có thể duy trì đến mức bón 180kgN/ha .
Viện Nông hoá thổ nhưỡng đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của đất, mùa vụ
và liều lượng phân đạm bón vào đến tỷ lệ đạm do cây lúa hút (Nguyễn Như Hà, 2006).
Không phải do bón nhiều đạm thì tỷ lệ đạm của lúa sử dụng nhiều. Ở mức phân đạm
80 kgN/ha, tỷ lệ sử dụng đạm là 46,6%, so với mức đạm này có phối hợp với phân
chuồng tỷ lệ đạm hút được là 47,4%. Nếu tiếp tục tăng liều lượng đạm đến 160N và
240N có bón phân chuồng thì tỷ lệ đạm mà cây lúa sử dụng cũng giảm xuống. Trên đất
bạc màu so với đất phù sa Sông Hồng thì hiệu suất sử dụng đạm của cây lúa thấp hơn.
Khi bón liều lượng đạm từ 40N - 120N thì hiệu suất sử dụng phân giảm xuống, tuy
lượng đạm tuyệt đối do lúa sử dụng có tăng lên (Cục Khuyến nông và Khuyến ngư,
1998). Kết quả nghiên cứu trên giống lúa chịu mặn (giống Cườm), Phạm Văn Cường
(2012) cho thấy: khi tăng nồng độ đạm từ 1,425mM đến 4,275mM diện tích lá và hàm
lượng diệp lục trong lá, tích lũy chất khô tăng sau 28 ngày trồng. Trên giống lúa Việt
Lai 20 khi giảm mức bón đạm từ 1,6g N/chậu 5 lít xuống mức thấp 0,8g N/chậu thì
diện tích lá giảm theo các thời kỳ theo dõi và cường độ quang hợp cũng giảm (Tăng
Thị Hạnh, 2008). Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Lan (2009), mức đạm bón khác
nhau (60, 90, 120 và 150 kgN/ha) đã ảnh hưởng đến chỉ số diện tích lá LAI ở các giai
đoạn đẻ nhánh rộ, trỗ và chín sáp. Kết quả cho thấy LAI tăng theo tuyến tính theo
lượng đạm bón ở mức tin cậy 95% .
Kết quả nghiên cứu sử dụng phân bón đạm trên đất phù sa sông Hồng của Viện
khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam đã tổng kết các thí nghiệm 4 mức đạm từ
năm 1992 đến năm 1994, kết quả cho thấy: Phản ứng của phân đạm đối với cây lúa phụ

thuộc vào thời vụ, loại đất và giống lúa (Nguyễn Như Hà, 1999).
Viện nghiên cứu lúa đồng bằng sông Cửu Long đã có nhiều thí nghiệm về
ảnh hưởng của liều lượng đạm khác nhau đến năng suất lúa vụ đông xuân và hè
thu trên đất phù sa đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả nghiên cứu trung bình
nhiều năm, từ năm 1985 - 1994 của Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long, kết quả
này đã chứng minh rằng: Trên đất phù sa được bồi hàng năm có bón 60 P
2
O
5

30 K
2
O làm nền thì khi bón đạm đã làm tăng năng suất lúa từ 15-48,5% trong vụ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

đông xuân và hè thu tăng từ 8,5-35,6%. Hướng chung của hai vụ đều bón đến mức
90N có hiệu quả cao hơn cả, bón trên mức 90N này năng suất lúa tăng không đáng
kể (Nguyễn Như Hà, 2005). Theo Nguyễn Thị Lẫm (1994), khi nghiên cứu về bón
phân đạm cho lúa cạn đã kết luận: Liều lượng đạm bón thích hợp cho các giống có
nguồn gốc địa phương là 60N/ha. Đối với những giống thâm canh cao như CK136
thì lượng đạm thích hợp từ 90-120N/ha.
Theo Nguyễn Như Hà (1999), khi nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ cấy và
ảnh hưởng của liều lượng đạm tới sinh trưởng của giống lúa ngắn ngày thâm canh
cho thấy: Tăng liều lượng đạm bón ở mật độ cấy dày có tác dụng tăng tỷ lệ nhánh
hữu hiệu.
Phân đạm đối với lúa lai là rất quan trọng. Lúa lai có bộ rễ khá phát triển, khả
năng huy động từ đất rất lớn nên ngay trường hợp không bón phân năng suất lúa lai
vẫn cao hơn lúa thuần (Đường Hồng Dật, 2002). Các nhà nghiên cứu Trung Quốc
đã kết luận: cùng một mức năng suất, lúa lai hấp thu lượng đạm và lân thấp hơn lúa

thuần, ở mức năng suất 75 tạ/ha lúa lai hấp thu đạm thấp hơn lúa thuần 4,8%, hấp
thu lân thấp hơn 18,2% nhưng hấp thu kali cao hơn 30%. Với ruộng lúa cao sản thì
lúa lai hấp thu đạm cao hơn lúa thuần 10%, hấp thu kali cao hơn 45%, còn hấp thu
lân thì bằng lúa thuần (Nguyễn Thị Lẫm, 1994).
Kết quả thí nghiệm trong chậu cho thấy: Trên đất phù sa sông Hồng bón đạm
đơn độc làm tăng năng suất lúa lai 48,7% trong khi đó năng suất giống lúa CR203 chỉ
tăng 23,1%. Với thí nghiệm đồng ruộng, bón đạm, lân cho lúa lai có kết quả rõ rệt
(Cục Khuyến nông và Khuyến ngư, 1998). Nhiều thí nghiệm trong phòng cũng như
ngoài đồng ruộng cho thấy hiệu quả của đạm: 1kgN bón cho lúa lai làm tăng năng
suất 9-18kg thóc, so với lúa thuần thì tăng 2-13kg thóc. Như vậy, trên các loại đất có
vấn đề như đất bạc màu, đất gley khi các yếu tố khác chưa được khắc phục về độ
chua, lân và kali thì vai trò của phân đạm không phát huy được, do bón đạm, lân nên
năng suất lúa lai tăng có 17,7% trên đất bạc màu và 11,5% trên đất gley.
Với đất phù sa sông Hồng, bón đạm với mức 180kg/ha trong vụ xuân và
150kgN/ha trong vụ mùa cho lúa lai vẫn không làm giảm năng suất lúa. Tuy nhiên,
ở mức đạm bón 120kgN/ha làm cho hiệu quả cao hơn các mức khác (Nguyễn Như
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

Hà, 1999). Thời kỳ bón đạm là thời kỳ rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực
của phân để làm tăng năng suất lúa. Với phương pháp bón đạm (bón tập trung vào
giai đoạn đầu và bón nhẹ vào giai đoạn cuối) của Việt Nam vẫn cho năng suất lúa
cao, năng suất lúa tăng thêm từ 3,5 tạ/ha (Nguyễn Văn Bộ, 1998), (Nguyễn Thị
Lẫm, 1994), (Phạm Văn Toản, 2004).
Kết quả nghiên cứu thời kỳ bón đạm cho thấy rất rõ hiệu quả của phân đạm
trên đất phù sa sông Hồng đạt cao nhất ở thời kỳ bón lót từ 50-75% tổng lượng
đạm, lượng đạm bón nuôi đòng chỉ từ 12,5- 25%. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng
của phân đạm bón đối với lúa lai, Phạm Văn Cường và Cs (2005), cho thấy khi tăng
lượng đạm bón khả năng sinh trưởng của lúa lai tốt hơn, tăng diện tích lá, tăng khả
năng trao đổi khí CO

2
do đó làm cho quá trình sản xuất chất khô cao ở giống lai F1.
* Phân lân (P
2
O
5
) đối với cây lúa
Photpho tham gia vào thành phần axit nucleic, màng sinh học, lipit trao đổi năng
lượng … và nhiều hợp chất hữu cơ quan trọng trong cây. Một số tác giả cho rằng trên
đất phèn nặng, muốn trồng lúa có hiệu quả cần phải liên tục cải tạo: Sử dụng nước
ngọt tưới để rửa phèn, bón phân lân liều lượng cao trong những năm đầu để tích luỹ
lân. Trên đất phù sa sông Cửu Long được bồi hàng năm, bón lân vẫn có hiệu quả rất
rõ. Vụ đông xuân, bón 20 kg P
2
O
5
/ha đã tăng năng suất được 20% so với công thức
không bón lân. Tuy nhiên, bón thêm với liều lượng cao hơn, năng suất lúa có tăng
nhưng không rõ cho nên ruộng thâm canh thường được bón phối hợp từ 20-30 kg
P
2
O
5
là đủ. Trong vụ hè thu, cây lúa có nhu cầu lượng lân cao và hiệu quả xuất hiện
rõ hơn vụ xuân, bón 20kg P
2
O
5
thì đã bội thu được 43,7%, tiếp tục bón tăng lượng lân
năng suất lúa có tăng nhưng không rõ (Cục Khuyến nông và Khuyến ngư, 1998).

Năm 1994, kết quả thí nghiệm bón lân cho lúa của trường Đại học Nông
nghiệp II tại xã Thuỷ Dương - Huyện Hương Thuỷ (Thừa Thiên Huế) cho thấy:
Trong vụ xuân bón lân cho lúa từ 30-120 kg P
2
O
5
/ha đều làm tăng năng suất lúa từ
10 - 17%. Với liều lượng bón 90 kg P
2
O
5
là đạt năng suất cao nhất và nếu bón hơn
liều lượng 90 kg P
2
O
5
/ha thì năng suất có xu hướng giảm. Trong vụ hè thu, với
giống lúa VM1, bón supe lân hay lân nung chảy đều làm tăng năng suất rất rõ rệt
(Nguyễn Văn Bộ, 1998). Các thí nghiệm trong chậu và ngoài đồng đều cho thấy

×