Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tổng hợp câu hỏi và đáp án môn triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.92 KB, 36 trang )

1
Câu 1: Khái niệm và các hình thức cơ bản của thế giới quan. Khái quát lịch sử phát triển
của TGQ
Trả lời:
Khái niệm Thế giới quan Là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế
giới. Con người sống trên thế giới dù muốn hay không, họ vẫn phải tìm hiểu về những
thứ xung quanh mình. Bao hàm cả những cái thuộc về thế giới tự nhiên, trong xã hội loài
người, những cài thuộc về con người, thuộc xã hội loài người.
Trong cuộc sống đời thường con người thường lẫn lộn giữa hai khái niệm : thế giới quan
và nhân sinh quan. Một số người thì tách hai khái niệm này ra khỏi nhau.
Nói đến TGQ là nói đến quan hệ của con ngừơi với giới tự nhiên, còn nói đến
NSQ là nói đến quan hệ của con người về cuộc sống. Tách khỏi 2 khái niệm trên ra như
vậy là ko đúng. Cái gọi là NSQ là một phần của TGQ, quan điểm, quan niệm của con
người với giá trị của nó chỉ là một phần, một bộ phận của TGQ. Vì con người và xã hội
loài người là một bộ phận của thế giới cho nên trong quan điểm, quan niệm của con
người về thế giới đã quan niệm, quan điểm về cuộc sống.
Nguồn gốc của thế giới quan: TGQ ra đời từ cuộc sống; nó là kết quả trực tiếp của quá
trình nhận thức; song, suy cho đến cùng nó là kết quả của cả những yếu tố khách quan và
chủ quan, của cả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
Nội dung của TGQ : cực kỳ phức tạp, nhưng khái quát lại có 3 mảng nội dung chính
- Những cái bên ngoài con người : TGQ là TGQ của con người, là kết quả nhận thức của
con người, khi con người nhận thức những cái bên ngoài bản thân mình sẽ hình thành
những mảng nội dung riêng
- Những cái bên trong - chính bản thân con người : con người hiểu về mình, nhận thức
về mình, có những quan điểm , quan niệm của riêng mình
2
- Mối quan hệ của con người và cái bên ngoài con người : con người có sự hiểu biết
những cái bên ngoài mình, những cái bên trong mình và hiểu mối quan hệ giữa cái bên
trong con người về thế giới bên ngoài con người.
Cấu trúc của TGQ hết sức phức tạp nhưng hai yếu tố cơ bản là Tri thức và Niềm tin.
Một TGQ coi là nhất quán, hoàn chỉnh khi tri thức và niềm tin thống nhất với nhau và


con người hành động theo niềm tin đó.
STT Tri Thức Niềm tin Hành động
1 + - dao động, TGQ không nhất quán
2 - + dao động, TGQ không nhất quán
3 + + TGQ nhất quán, hoàn chỉnh
1. Con người có Tri thức thiếu niềm tin dẫn đến hành động dao động. ví dụ: nhiều
người nói nhiều về CNXH, CNCS rất hay vì người này có tri thức về CNXH, CNCS.
Nhưng những người này chưa chắc gì có niềm tin về CNXH, CNCS nên dẫn tới hành
động ngược lại với CNXH, CNCS.
2. Con người có niềm tin thiếu tri thức dẫn đến hành động dao động. ví dụ: tất cả
giáo dân của tôn giáo rất tin vào tôn giáo của họ nhưng họ thiếu tri thức về tôn giáo
của mình nên dẫn tới hành động dao động lúc thế này lúc thế khác.
3. Con người có tri thức có niềm tin thì dẫn đến TGQ nhất quán, hoàn chỉnh.
Nhưng để có tri thức và niềm tin thì trải qua một quá trình học tập, tìm hiểu, nguyên
cứu sau đó con người kiểm nghiệm tri thức đó, trải nghiệm tri thức đó thì con người
mới có niềm tin về tri thức đó.
Chức năng của TGQ: TGQ có rất nhiều chức năng như nhận xét, đánh giá, nhận
thức, nhận định… nhưng chức năng quan trọng nhất là chức năng định hướng cho hoạt
động của con người, định hướng cho toàn bộ cuộc sống của con người. định hướng cho
quan hệ con người, định hướng cho hệ giá trị con người, từ cách đi cách đứng của con
người. những người có TGQ khác nhau sẽ định hướng cho hoạt động của mình khác
nhau. Ví dụ: Mỗi con người có TGQ khác nhau dẫn đến hành động khác nhau. Toàn bộ
hành động của con người bị TGQ chi phối. Cuộc sống của chúng ta đang bị TGQ của
chúng ta chi phối.
3
Những hình thức cơ bản của TGQ: Sự phát triển của TGQ đã là TGQ thể hiện dưới ba
hình thức cơ bản: TGQ huyền thoại, TGQ tôn giáo, TGQ triết học.
1. TGQ Huyền thoại hình thành và phát triển trong giai đoạn đầu của XH
loài người. Đặc trưng cơ bản về TGQ huyền thoại:
- Về hình thức thể hiện: TGQ huyền thoại thể hiện chủ yếu qua các câu chuyện thần

thoại.
- Về tính chất: Nội cung của truyền thần thoại có sự pha trộn giữa thần và người, giữa
thật và ảo, trật tự không gian và thời gian bị đảo lộn không tự giác. Bời vì Công Xã
Nguyên Thủy chưa có chữ viết, câu chuyện thông qua truyền miện nên khi truyền
miện thì không chính xác, bản thân người dẫn chuyện đưa tình cảm của mình vào đó
và càng ngày độ chính xác càng ít. Nội dung câu chuyện càng ngày càng nhiều hơn.
Trong tất cả những câu chuyện thần thoại thì thần thoại Hy Lạp thể hiện rõ nét nhất
đặc điểm của TGQ. TGQ huyền thoại thể hiện nổi bật nhất trong thần thoại Hy Lạp.
Yếu tố thần và người có sự hòa trộn, đan xen.Thần nhưng lại rất người, người nhưng
lại rất thần.
- Về trình độ nhận thức: TGQ huyền thoại thể hiện trình độ nhận thức thấp, chủ yếu ở
cấp độ nhận thức cảm tính nên những gì trừu trượng thường được con người hình dung
dưới những sự vật hữu hình, cụ thể.
2. TGQ tôn giáo: yếu tố niềm tin là yếu tố giữa vai trò tuyệt đối. sức mạnh
của thế lực siêu nhiên.
- Về hình thức thể hiện: TGQ tôn giáo thể hiện qua giáo lý của các tôn giáo.
- Về tính chất: Niềm tin cao hơn lý trí, nặng tính hư ảo, tuyệt đối hóa yếu tố thần thánh,
vai trò con người bị hạ thấp.
- Về trình độ nhận thức: TGQ tôn giáo ra đời khi trình độ nhận thức và khả năng
hoạt động thực tiễn của con người còn rất thấp nên con người bất lực, sợ hãi trước
những lực lượng tự nhiên cũng như những lực lượng xã hội dẫn đến việc họ thần thánh
hoá chúng, quy chúng về sức mạnh siêu tự nhiên và tôn thờ chúng. Trong tất cả các
tôn giáo chỉ có tôn giáo phật giáo là nói đến sức mạnh của con người. con người có thể
4
giải thoát cho mình bằng cách tích nghiệp thiện, tạo nghiệp thiện. do vậy nó không thể
tồn tại với tư cách là một TGQ KH
3. TGQ triết học
TGQ triết học là TGQ có hạt nhân lý luận là các học thuyết triết học. TGQ triết học, các
học thuyết triết học là bộ phận quan trọng nhất vì nó chi phối tất cả những quan điểm,
quan niệm khác của TGQ con người.

- Về hình thức thể hiện: TGQ triết học thể hiện chủ yếu qua các học thuyết triết học.
TGQ triết học không chỉ thể hiện quan điểm, quan niệm của con người về thế giới mà nó
còn chứng minh các quan điểm, quan niệm ấy bằng lý luận.
- Về tính chất: đề cao vai trò trí tuệ. Cụ thể hơn tính chất của TGQ triết học bị tính chất
của các học thuyết triết học qui định và tất cả các học thuyết triết học điều thể hiện cấp độ
nhận thức cao.
- Về trình độ nhận thức: TGQ triết học ra đời khi nhận thức của con người đã đạt đến
trình độ cao của sự khái quát hoá, trừu tượng hoá và khi các lực lượng xã hội đã ý thức
được sự cần thiết phải có định hướng về tư tưởng để chỉ đạo cuộc sống.
Chức năng của TGQ triết học: TGQ triết học có lõi là học thuyết triết học vì vậy chức
năng của TGQ triết học chính là chức năng của học thuyết triết học.
Các học thuyết triết học chia làm 2 trường phái cơ bản: CNDT và CNDV. Ngay từ khi ra
đời 2 học thuyết này đã không nhất quán với nhau.
+ CHDV: tất cả học thuyết này thừa nhận tín thứ nhất của vật chất, tức quan niệm vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. được thể hiện qua 3 hình thức cơ
bản là: CNDV chất phát, CNDV siêu hình, CNDV biện chứng
+ CNDT: thừa nhận tính thứ hai của ý thức, tức quan niệm ý thức có trước, vật chất có
sau, ý thức quyết định vật chất. được chia làm 2 loại là: CNDT khách quan và CNDT chủ
quan
5
Tính chất của TGQ triết học bị tính chất của các học thuyết triết học chi phối, tức là nếu
như học thuyết triết học đóng vai trò CNDV thì TGQ này là TGQ DV, nếu học thuyết
này thuộc về CNDT thì TGQ này thuộc về TGQ DT. Mà trong CNDV, nếu học thuyết
triết học này thuộc về CNDV chất phát, CNDV siêu hình, CNDV biện chứng thì TGQ
này là TGQ chất phát, siêu hình, biện chứng. còn nếu học thuyết triết học này thuộc về
CNDT chủ quan hay CNDT khách quan thì TGQ này là TGQ DT chủ quan hay khách
quan.
CNDV biện chứng do Mác – angel sáng lập được Lê Nin phát triển. là một bộ phận cấu
thành chủ nghĩa Mác. Nhận thức TGQ bằng phương pháp biện chứng, đặc trưng là khi
nhận thức đối tượng nào đó thì nhận thức đối tượng đó trong mối liên hệ với những cái

khác, nhận thức ở trạng thái động. triết học Mác quan niệm vạn vật trong vũ trụ không
tách rời nhau, chúng ràng buộc lẫn nhau, tác động lẫn nhau và biến đổi không ngừng,
phản ánh đúng hiện thực cái đang tồn tại.
CNDV biện chứng có thể còn có những khiếm khuyết của nó, nó chưa đầy đủ nhưng tất
cả các kết luận của nó đều được xây dựng trên thành tựu khoa học của con người, phản
ánh đúng hiện thực cho nên nó có thể tồn tại với tư cách là cơ sở lý luận của TGQ KH và
tất nhiên với tư cách là hệ thống mở, CNDV biện chứng là lực lượng cần con người tổng
kết thành tựu KH để bổ sung cho nó ngày càng phản ánh đúng hiện thực hơn.
Câu hỏi 3: CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Phép biện chứng duy vật
a. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng là sự thống nhất giữa lý luận và phương pháp
- Lý luận là hệ thống những khái niệm, phản ảnh bản chất, những mối liên hệ tất
yếu, những quy luật hoạt động và phát triển của đối tượng nghiên cứu (thế giới sự vật).
- Phương pháp là các thức, là con đường hoặc là phương tiện để con người đạt
được mục đích mà mình đặt ra.
- Phương pháp luận là lý luận về phương pháp.
6
- Phép biện chứng duy vật, theo Ph.Ăngghen: “chẳng qua chỉ là môn khoa học về
những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy”
1
.
b. Đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, phép biện chứng duy vật của là phép biện chứng được xác lập trên nền
tảng của thế giới quan duy vật khoa học.
- Thứ hai, trong phép biện chứng duy vật có sự thống nhất giữa nội dung thế giới
quan (duy vật biện chứng) và phương pháp luận (biện chứng duy vật), do đó nó không dừng
lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.

1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại
a. Khái niệm chất, lượng
* Khái niệm “chất”
Chất là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật đó là cái gì,
phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.
* Khái niệm “lượng”
Lượng là tính quy định của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, cường độ, trình độ,
tốc độ, v.v
b. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
* Tính thống nhất giữa chất và lượng trong một sự vật
Chất và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ với nhau. Chất nào có lượng đó; lượng
nào có chất đó. Chất và lượng có sự phù hợp với nhau. Sự phù hợp này diễn ra trong một
1
7
phạm vi, giới hạn nhất định gọi là “độ”. Độ là phạm vi, giới hạn trong đó lượng đổi chưa
làm chất thay đổi.
* Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất
- Sự phát triển bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Lượng biến đổi trong phạm vi “độ”
chưa làm chất thay đổi.
- Vượt quá độ, sự biến đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Chất cũ mất đi,
chất mới ra đời. Sự thay đổi về chất gọi là bước nhảy. Điểm diễn ra bước nhảy gọi là
điểm nút.
* Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về chất thành những sự thay đổi
về lượng
Chất mới ra đời thúc đẩy quá trình biến đổi về lượng với quy mô và tốc độ cao hơn.
Bởi vì, trong phạm vi chất cũ, lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định thì bị chất cũ
kìm hãm. Do đó, thay chất cũ bằng chất mới là phá bỏ sự kìm hãm đó. Mặt khác, chất
mới cần được kết hợp với lượng mới.

* Bước nhảy và các hình thức của bước nhảy
Bước nhảy là sự thay đổi về chất từ chất cũ sang chất mới.
Bước nhảy có nhiều hình thức đa dạng phong phú tùy theo bản chất của sự vật và điều
kiện tồn tại của sự vật.
+ Bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần
+ Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy bộ phận
c. Ý nghĩa phương pháp luận
8
- Giúp ta hiểu được cách thức của sự phát triển. Chống lại các quan điểm duy tâm, siêu hình.
- Trong hoạt động thực tiễn muốn có chất mới, cần phải có quá trình tích lũy về
lượng. Cần chống khuynh hướng bảo thủ trì trệ, tranh thủ tạo ra những bước nhảy để thúc
đẩy sự vật phát triển tiến lên. Đồng thời phải chống lại bệnh chủ quan nóng vội, duy ý
chí, thực hiện bước nhảy khi chưa có sự chín muồi về lượng và bất chấp những điều kiện
tồn tại cụ thể của sự vật, hiện tượng.
2. Quy luật phủ định của phủ định
a. Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
- Phủ định nói chung là sự bài trừ, bác bỏ sự vật nhất định nào đó. Nói cách khác,
phủ định là một quá trình vận động trong đó sự vật, hiện tượng này được thay thế bởi sự
vật, hiện tượng khác (đây là sự biến đổi nói chung).
- Phủ định biện chứng là quá trình tự phủ định, tự phát triển, là mắt khâu trên con
đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, cái tiến bộ hơn so với cái tự phủ định.
* Đặc trưng của phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng gồm hai đặc trưng sau đây:
- Tính khách quan: Phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định, là kết quà giải
quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật tồn tại khách quan
- Tính kế thừa: Đây là đặc trưng cơ bản nhất của phủ định biện chứng. Phủ định
biện chứng là quá trình cái mới ra đời phủ định cái cũ, nhưng cái mới chỉ phủ định mặt
lạc hậu, lỗi thời của cái cũ, đồng thời kế thừa những giá trị của cái cũ. Do đó, phủ định
biện chứng là sự phủ định nhưng đồng thời cũng là sự khẳng định.
b. Phủ định của phủ định – hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển

9
- Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng là sự thống
nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được thực
hiện sẽ mang lại những nhân tố mới. Do đó, sự phát triển thông qua những lần phủ định
biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng.
Ví dụ: Tằm  Kén  Ngài (Bướm  Trứng  Tằm)
CSNT  CHNL  PK TBCN  CSCN
CNDV cổ đại  CNDV siêu hình  CNDVBC
- Phủ định biện chứng là sự tự phủ định, biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn bên
trong của sự vật.
- Phủ định biện chứng được hoàn thành trong một chu kỳ phát triển. Sự vật ở điểm
xuất phát ban đầu qua lần phủ định thứ nhất trở thành cái đối lập với nó - bước trung gian
của sự phát triển; lần phủ định thứ hai, tái lập cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Lần
phủ định thứ hai được gọi là phủ định của phủ định.
Ví dụ: Hạt thóc  Cây lúa  Bông lúa
- Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới.
- Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển.
- Phủ định của phủ định được hoàn thành trong chu kỳ phát triển, thông thường mỗi
chu kỳ trải qua hai lần phủ định.
- Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển. Sự phát
triển không phải diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”.
10
- Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đường xoáy ốc chính là hình thức biểu đạt
rõ ràng nhất các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại
nhưng không quay trở lại mà tiến lên của sự phát triển.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Giúp ta hiểu được khuynh hướng của sự phát triển: tiến lên theo đường trôn ốc, cái
mới, thay thế cái cũ.
- Khắc phục cách nhìn đơn giản về sự phát triển: phát triển theo đường thẳng,
đường tròn khép kín.

- Tin tưởng vào sự tất thắng của cái mới, vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
ủng hộ và tạo điều kiện cho cái mới, cái tiến bộ chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu.
Câu 6 : Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Vận dụng vào VN
a. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
* Lực lượng sản xuất và các yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong quá trình sản xuất.
LLSX bao gồm:
+ Người lao động với những kỹ năng, kỹ xảo, thói quen, tri thức, kinh nghịêm nhất
định có khả năng sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất.
+ Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.
+. Đối tượng lao động là những vật mà người lao động tác động vào để tạo ra của
cải vật chất.
+ Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và những phương tiện lao động khác,
là những vật hay phức hợp những vật mà người lao động sử dụng để tác động vào đối
tượng lao động.
- Các yếu tố của lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó
người lao động đóng vai trò quyết định, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại
là công nhân, là người lao động”.
11
* Quan hệ sản xuất và ba mặt của quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản
xuất.
- Quan hệ sản xuất bao gồm:
Quan hệ sản xuất
Quan hệ về chiếm
hữu tư liệu sản xuất
Quan hệ về quản lý và
phân công lao động

Quan hệ về phân
phối sản phẩm
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
* Tính thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn
tại khồn tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất.
* Trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất
- Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của công cụ lao động,
trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao
động xã hội, trình độ ứng dụng của khoa hhọc vào quá trình sản xuất. Như vậy, trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất như thế nào nó sẽ phản ánh tính chất của lực lượng sảm
xuất như thế ấy.
- Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và sức lao động. Khi
sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản
xuất có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí hiện đại, phân công lao
động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất ngày càng có tính chất xã hội hoá.
* Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
- Trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là
hình thức xã hội của nó.
- Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất.
- Cùng với sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất mới hình
thành, biến đổi và phát triển theo:
+ Khi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và theo kịp, phù hợp với trình độ phát
triển và tính chất của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục
phát triển.
12
+ Khi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi nhưng nó không theo kịp, không phù hợp với
trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất thì nó sẽ trở thành “xiềng xích” của
lực lượng sản xuất, kìm hảm lực lượng sản xuất phát triển.

* Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với trình độ phát triển và tính chất của
lực lượng sản xuất
- Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất theo hai hướng:
+ Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ lực lượng sản xuất.
+ Kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với
trình độ lực lượng sản xuất.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Phát triển lực lượng sản xuất: công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng lực lượng sản
xuất tiên tiến. Coi trọng yếu tố con người trong lực lượng sản xuất.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm phát huy mọi tiềm năng vốn có của lực
lượng sản xuất ở nước ta.
- Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Phát huy vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế nhà nước. Nâng cao sự quản lý của Nhà nước đối với các thành phần
kinh tế; đảm bảo các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự vận dụng quy luật này trong công cuộc đổi mới ở nước ta
Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có tính quy luật này cũng tác
động mạnh mẽ vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ lý luận và thực
tiễn cho chúng ta thấy rằng, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ
sản xuất phù hợp với nó. Còn quan hệ sản xuất lạc hậu hơn, hoặc “tiên tiến” (theo ý
muốn chủ quan của con người) hơn so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì
nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, trong công cuộc đổi mới kể từ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), VII (1991), VIII (1996) và lần thứ IX
(2001), Đảng ta đã “chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trườmg có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định
13
hướng xã hội chủ nghĩa”
(1)

.
Đường lối đó xuất phát từ trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp kém, vừa
không đồng đều nên chúng ta không thể nóng vội, chủ quan như trước đây để xây dựng
một quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Như
thế, sẽ đẩy quan hệ sản xuất vượt quá xa (không phù hợp) so với lực lượng sản xuất vốn
có của chúng ta. Vì vậy, thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra trong công cuộc đổi mới đất nước
là nhằm khơi dậy tiềm năng của sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động, kích
thích lợi ích… đối với các chủ thể lao động trong quá trình sản xuất, kinh doanh để thúc
đẩy sản xuất phát triển theo đúng mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là “Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba
mặt sở hữu, quản lý và phân phối”
(2)
.
Đối với nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề,
do vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi đôi với việc củng cố và hoàn thiện
quan hệ sản xuất thì điều cần thiết và có tính quyết định là chúng ta phải phát triển lực
lượng sản xuất. Muốn phát triển lực lượng sản xuất thì không có con đường nào khác là
phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảng ta đã khẳng định: “về thực chất,
công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là
chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học,
công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”
(1)
.
Quan niệm ấy về công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho thấy vấn đề then chốt của quá
trình này ở một nước nông nghiệp lạc hậu là cải biến lao động thủ công thành lao động sử

(
1)
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 86.
(
2)
Sđd, tr. 87-88.
(
14
dụng kỹ thuật tiên tiến trong toàn bộ nền kinh tế để đạt được năng suất lao động xã hội
cao. Song, đó không chỉ là sự tăng thêm một cách giản đơn tốc độ và tỷ trọng của sản
xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà còn là cả một quá trình chuyển dịch cơ cấu, gắn
liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững và có hiệu quả cao
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, kết hợp
với những bước tiến tuần tự về công nghệ, tận dụng để phát triển chiều rộng, với việc
tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu để phát triển chiều sâu, tạo nên những mũi nhọn
theo trình độ tiến triển của khoa học, công nghệ trong khu vực và trên thế giới.
Như vậy, có thể nói, công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay là một quá trình rộng lớn và
phức tạp, được triển khai đồng thời với quá trình hiện đại hóa và luôn gắn bó với quá
trình hiện đại hóa. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ấy phải thật sự lấy phát triển
giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ làm nền tảng và động lực. Phát triển giáo dục -
đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng nhu cầu
đòi hỏi về nguồn nhân lực của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực
hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Câu 7: BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a. Khái niệm, kết cấu cơ sở hạ tầng
Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã
hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
Cơ sở hạ tầng của xã hội, trong sự vận động của nó, được tạo nên bởi cả ba loại
hình quan hệ sản xuất:

+ Quan hệ sản xuất thống trị
+ quan hệ sản xuất tàn dư
+quan hệ sản xuất mới tồn tại dưới hình thức mầm mống.
Đại biểu cho sự phát triển của xã hội tương lai, trong đó quan hệ sản xuất thống trị
chiếm địa vị chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, định hướng sự phát triển của
đời sống kinh tế xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ kinh tế của một xã hội nhất
định. Sự tồn tại của ba loại hình quan hệ sản xuất cấu thành cơ sở hạ tầng của một xã hội
15
phản ánh tính chất vận động, phát triển liên tục của lực lượng sản xuất với các tính chất:
kế thừa và phát triển.
Hệ thống quan hệ sản xuất hiện thực của một xã hội đóng vai trò hai mặt: một mặt
là hình thức kinh tế cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và mặt khác với các quan hệ
chính trị xã hội, nó đóng vai trò là cơ sở hình thành kết cấu kinh tế, làm cơ sở cho sự thiết
lập hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội đó.
b. Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Khái niệm kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái
ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng, được hình thành trên
một cơ sở hạ tầng nhất định.
Kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội là một kết cấu phức tạp. Từ giác độ chung
nhất có thể thấy kiến trúc thượng tầng của một xã hội bao gồm: hệ thống các hình thái ý
thức xã hội (hình thái ý thức chính trị, pháp quyền, tôn giáo, ) và các thiết chế chính trị
xã hội tương ứng của chúng (nhà nước, đảng phái, giáo hội, )
Trong xã hội có giai cấp, hình thái ý thức chính trị và pháp quyền cùng hệ thông
thiết chế, tổ chức chính đảng và nhà nước là hai thiết chế, tổ chức quan trọng nhất trong
hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội. Nhà nước là một bộ máy quyền lực và thực thi
quyền lực đặc biệt trong xã hội có giai cấp đối kháng.
- Về danh nghĩa, nhà nước là hệ thống tổ chức đại biểu cho quyền lực chung của xã
hội để quản lý, điều khiển hoạt động của xã hội và công dân, thực hiện chức năng chính
trị và chức năng xã hội, chức năng đối nội và đối ngoại của quốc gia.
- Về thực chất nhà nước là công cụ quyền lực thực hiện chuyên chính giai cấp của

giai cấp thống trị, tức là giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, nó chính là
chủ thể thực sự của quyền lực nhà nước.
2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời sống xã
hội đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội, chúng có quan hệ thống
nhất biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết
định đối với kiến trúc thượng tầng; kiến trúc thượng tầng có sự tác động trở lại cơ sở hạ
tầng đã sản sinh ra nó.
16
a. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được thể hiện
trên nhiều phương diện:
Cơ sở hạ tầng quyết định nội dung và tính chất của kiến trúc thượng tầng; nội dung
và tính chất của kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng. Tương ứng
với một cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng phù hợp, có tác dụng bảo
vệ cơ sở hạ tầng đó.
Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng; những biến đổi
trong cơ sở hạ tầng tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi trong kiến trúc thượng
tầng; do đó sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với sự biến đổi của
cơ sở hạ tầng.
Tính chất phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng có nguyên nhân từ
vai trò quyết định của kinh tế đối với toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của xã hội.
b. Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Với tư cách là các hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu của phát triển
kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí độc lập tương đối của nó và
thường xuyên có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng có thể thông qua nhiều
phương thức, hình thức tùy thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong kiến trúc thượng
tầng, phụ thuộc vào vai trò, vị trí của nó và những điều kiện cụ thể.
Trong điều kiện kiến trúc thượng tầng có yếu tố nhà nước thì phương thức và hình

thức tác động của các yếu tố khác tới cơ sở kinh tế phải thông qua nhân tố nhà nước và
pháp luật mới thực sự phát huy vai trò thực tế của nó. Nhà nước là nhân tố tác động trực
tiếp và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng theo nhiều xu hướng
và mục tiêu, thậm chí các xu hướng không chỉ khác nhau mà còn có thể đối lập nhau,
điều đó phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác
nhau.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể diễn ra theo xu
hướng tích cực hoặc tiêu cực. Khi các yếu tố của kiến trúc thượng tầng phù hợp với nhu
17
cầu khách quan của sự phát triển kinh tế nó sẽ tạo ra tác động tích cực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, ngược lại nếu các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không phù hợp nó sẽ
kìm hãm, phá hoại sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, dù kiến trúc thượng tầng có tác động
như thế nào tới cơ sở hạ tầng thì nó cũng không thể giữ vai trò quyết định cơ sở hạ tầng
của xã hội.
Sự vận dụng mối quan hệ này trong công cuộc đổi mới ở nước ta
Ở nước ta, trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta không chỉ quán triệt và vận dụng mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà còn phải quán triệt và vận dụng
một cách khoa học và sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành phần
với nhiều hình thức sở hữu đan xen lẫn nhau. Thừa nhận sự tồn tại của một kết cấu kinh
tế với nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế cùng tồn như vậy là một tất
yếu khách quan. Bởi lẽ, trình độ lực lượng sản xuất của chúng còn thấp và chưa đồng
đều. Song, đây lại là một nền kinh tế năng động, phong phú. Chính tính chất đan xen của
kết cấu kinh tế ấy nó đặt ra nhu cầu khách quan là kiến trúc thượng tầng cũng phải được
đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Lẽ dĩ nhiên, không phải với nền kinh tế
nhiều thành phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau thì nhất thiết phải đa đảng và đa
nguyên về chính trị, nhưng nhất thiết phải đổi mới kiến trúc thượng tầng theo hướng: đổi

mới tổ chức, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước, đổi mới con người, đổi mới phong
cách lãnh đạo, đa dạng hoá các tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, mở rộng dân chủ (đặc biệt là
dân chủ cơ sở), tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc… nhằm tập trung sức mạnh của
quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đổi mới kinh tế là cơ sở, tiền đề cho đổi mới chính trị. Song, muốn đổi mới kinh tế
phải đổi mới chính trị để tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị là hai quá trình gắn bó hữu cơ với nhau trên tinh thần ổn định chính trị
để đổi kinh tế một cách toàn diện và có hiệu quả trong sự nghiệp đổi mới.
18
Câu 8 : Phân tích luận điểm « sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên »
• Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội.
Xã hội là tổng thể của nhiều lĩnh vực với những mối quan hệ xã hội hết sức phức
tạp. Vân dụng phương pháp luận duy vật biện chứng vào phân tích đời sống xã hội, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra khái niệm hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một
kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Theo
khái niệm trên thì kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội bao gồm: lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Với khái niệm khoa học về xã hội theo cấu trúc “hình thái” như vậy đã đem lại
phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu cấu trúc cơ bản của xã hội, cho phép
phân tích đời sống hết sức phức tạp của xã hội để chỉ ra các mối quan hệ biện chứng giữa
các lĩnh vực cơ bản của nó, chỉ ra quy luật vận động và phát triển của nó như một quá
trình lịch sử - tự nhiên.
Xã hội loài người đã biết đến 5 hình thái kinh tế - xã hội tương ứng với 5 phương
thức sản xuất: Hình thái kinh tế - xã hội cộng đồng nguyên thủy, hình thái kinh tế - xã hội
chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, hình thái kinh tế - xã hội tư bản
chủ nghĩa, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa .

• Tính lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội:
Khi phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo lý luận cấu trúc hình thái kinh
tế - xã hội, C.Mác cho rằng: “sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên”(C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1995, t.23, t.r21. ).
Tính chất lịch sử - tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế- xã hội
được thể hiện ở các nội dung sau:
Một là, sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan, đó
là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội mà trước hết là quy
19
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật
kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội đều có nguyên nhân
trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Theo V.I.Lênin:
“Chỉ có đem quy các quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những
quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một
cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên”(V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva,1974, t.1, tr.163. ).
Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình thay
thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là do sự tác động của các quy luật khách
quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội không tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong
những giai đoạn lịch sử nhất định.
Vai trò của nhân tố chủ quan đối với tiến trình lịch sử:
Sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội
trong lịch sử trước hết do tác động của các quy luật khách quan nhưng đồng thời còn chịu
tác động của các nhân tố chủ quan như điều kiện địa lý, tương quan lực lượng giai cấp,
tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa, điều kiện quốc tế Chính vì vậy, tiến trình phát
triển của mỗi cộng đồng người có thể diễn ra với những con đường, hình thức phức tạp,
đa dạng phong phú, Tính chất phong phú đa dạng của tiến trình phát triển các hình thái
kinh tế - xã hội có thể bao hàm những bước phát triển “bỏ qua” một hay một vài hình thái

kinh tế - xã hội nhất định. Tuy nhiên sự “bỏ qua” đó phải gắn với những điều kiện khách
quan và chủ quan nhất định.
Sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan đối với sự
vận động, phát triển của xã hội:
Lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu
quy luật xã hội, vừa chịu tác động đa dạng của các nhân tố khác nhau, trong đó có cả
nhân tố hoạt động chủ quan của con người, từ đó lịch sử phát triển của xã hội được biểu
hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong tính thống nhất của nó.
(Với kết luận“Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử
- tự nhiên”
(1)
. C.Mác đã tìm thấy động lực phát triển của lịch sử không phải do một lực
(
20
lượng siêu tự nhiên nào, mà chính là thông qua hoạt động của con người dưới sự tác
động của các quy luật khách quan. Do đó, cần phải hiểu kết luận này từ hai khía cạnh
khác nhau:
Thứ nhất, kết luận ấy của C.Mác là biểu hiện tập trung nhất của quan niệm duy vật
về lịch sử và được xuất phát từ một sự thật hiển nhiên là: “Trước hết con người cần phải
ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền
thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học v.v.”
(2)
. Từ sự thật hiển
nhiên ấy, cho phép chúng ta khẳng định rằng, lịch sử phát triển của xã hội loài người
thực chất là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất. Để thoả mãn nhu cầu trong quá
trình tồn tại và phát triển của mình, loài người phải tiến hành sản xuất ra của cải vật
chất.
Sản xuất vật chất lại luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, sự phát triển đó
bao giờ cũng bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao
động - cái mà con người thường xuyên sáng tạo, cải tiến và phát triển qua các trình độ

khác nhau. Do đó, nó kéo theo sự biế đổi, thay thế lẫn nhau của các quan hệ sản xuất và
hình thành các phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Phương thức sản xuất thay đổi kéo
theo toàn bộ trật tự xã hội thay đổi, đó chính là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội. Theo quy luật phát triển, hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn, cao hơn
sẽ ra đời thay thế hình thái kinh tế - xã hội cũ đã tỏ ra lỗi thời và lạc hậu. Như vậy, sự
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử là một quá trình phát
triển từ thấp đến cao theo quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của con người.
Thứ hai, động lực thúc đẩy các hình thái kinh tế - xã hội phát triển lại nằm ngay
trong lòng xã hội. Đó chính là các mâu thuẫn xã hội, mà trước hết là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng, mâu thuẫn giữa các giai cấp (trong xã hội có giai cấp)… Chính sự tác động của
các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau là con
đường phát triển chung của lịch sử xã hội loài người. Song, con đường phát triển của
mỗi quốc gia, dân tộc còn chịu sự chi phối của những điều kiện về tự nhiên, về chính trị,
(
21
về truyền thống văn hoá, về điều kiện quốc tế và thời đại v.v… Do đó, lịch sử phát triển
của xã hội loài người là thông qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Tuy
nhiên, cũng có những quốc gia, dân tộc có thể bỏ qua một, vài hình thái kinh tế- xã hội
nào đó. Việc bỏ qua ấy cũng phải được diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên tuyệt
đối không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của quốc gia, dân tộc ấy.
Như vậy, nếu chúng ta quy các quan hệ xã hội vào các quan hệ sản xuất, rồi đem quy
các quan hệ sản xuất vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thì sẽ thấy được sự
phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội như là một quá trình lịch sử - tự nhiên.)
3. Ý nghĩa phương pháp luận (giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế -
xã hội)
Với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử mà hạt nhân của nó là lý luận hình thái
kinh tế - xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về
lĩnh vực xã hội.

Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất vật chất là cơ sở của đời
sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và cũng
là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch sử nói chung, do đó
việc giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội không thể xuất phát từ ý thức, tư
tưởng hoặc ý chí chủ quan của con người mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát
triển của sản xuất xã hội, từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ hai, xã hội là một cơ thể sống động, trong đó các phương diện của đời sống xã
hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc chặt chẽ, tác động qua lại với nhau, trong đó quan
hệ sản xuất đóng vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ khác vì vậy, để lý
giải các vấn đề đời sống xã hội cần xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để
phân tích các phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa học ) của đời
sống xã hội và mối quan hệ giữa chúng.
Thứ ba, sự vận động, phát triển của xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên, diễn ra
theo quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan, do đó muốn nhận thức
và giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tế của đời sống xã hội thì phải nghiên cứu quy
luật vận động, phát triển của xã hội.
Vận dụng vào Vn
22
Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Với hình thái kinh tế - xã hội, Các Mác đã vận dụng để phân tích xã hội tư bản, vạch ra
các qui luật vận động, phát triển của xã hội tư bản đi đến dự báo về sự ra đời của hình
thái kinh tế xã hội cao hơn, hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp
là chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã ra đời từ sau cuộc Cách Mạng Tháng Mười vĩ đại. Chủ
nghĩa xã hội lúc đó được xây dựng theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Mô hình đó đã
phát huy tác dụng trong một thời gian nhất định, nhưng đến cuối những năm 80 của thế
kỷ XX, với nhiều nguyên nhân đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng và sâu sắc, dẫn đến sự
sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu. Chính sự khủng hoảng đó giúp chúng ta nhận thức rõ
hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, Đảng ta

và Hồ Chủ Tịch đã khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau.
Đó là sự lựa chọn phù hợp với xu thế của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Đảng
ta đã xác định những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
* Đó là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ.
* Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
* Có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
* Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân.
* Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
* Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Từ một điểm xuất phát thấp chúng ta khẳng định con đường đi lên của Việt Nam là phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là một sự nghiệp
rất khó khăn, phức tạp nên phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Mục tiêu của chúng ta là
“Xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”1.
Trong quá trình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cần hiểu: “bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội”, tức là:
Bỏ qua hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa, bỏ qua chế độ bóc lột cuối cùng trong
lịch sử. Bỏ qua nhưng phải tôn trọng tính lịch sử, tự nhiên, tính tuần tự không chủ quan
nóng vội. Bỏ qua những khâu trung gian, những hình thức quá độ nhưng không bỏ qua
nền sản xuất hàng hoá. Bỏ qua nhưng phải kế thừa, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước
với tư cách là một thành phần kinh tế. Bỏ qua lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa nhưng
không lặp lại quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa mà rút ngắn quá trình ấy tức là kết hợp
vừa tuần tự vừa nhảy vọt.
23
Bỏ qua quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với tư cách nó giữ vai trò thống trị xã hội chứ
không xoá sạch các hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.

Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế trị trường là qui luật phát triển tất yếu của tất cả các nước. Tuy nhiên kinh tế trị
trường được sử dụng với những mục đích khác nhau. Trong các nước tư bản, đó là kinh
tế trị trường tư bản chủ nghĩa. Ở Việt Nam, trong quá trình xã hội chủ nghĩa xã hội
“Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế trị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Kinh tế trị trường là kết quả của sự phát triển
lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định. Nó là kết quả của việc phân công lao động
xã hội, đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Đảng đã khẳng định, kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Xây dựng và
phát triển kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu thế phát
triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển sản xuất ở nước ta, đồng
thời nó đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, kết hợp với hội nhập quốc
tế trên lĩnh vực kinh tế.
Mục đích của nền kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng khẳng định:
“…là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản
lý và phân phối”.
Khi thực hiện kinh tế trị trường thì vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa phải
được đề cao. Nhà nước quản lý bằng pháp luật, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, chính
sách, sử dụng cơ chế trị trường áp dụng các hình thức và phương pháp quản lý của kinh
tế trị trường nhằm mục đích giải phóng sức sản xuất, kích thích sản xuất, phát huy mặt
tích cực cũng như hạn chế bớt mặt tiêu cực của cơ chế trị trường nhằm đảm bảo lợi ích
của nhân dân lao động và toàn thể nhân dân.
Muốn đạt được mục đích đó phải có phương pháp kế thừa, tiếp thu các mô hình quản lý
tiên tiến trên thế giới một cách phù hợp.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Điểm xuất phát của nước ta khi tiến lên chủ nghĩa là rất thấp. Đặc điểm lớn nhất là từ một
nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu. Do vậy, cái thiếu lớn
nhất của chúng ta là một nền đại công nghiệp. Muốn khắc phục điều đó phải tiến hành
công nghiệp hoá. Trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão như hiện
nay thì công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Công nghiệp hóa hiện đại hóa là
nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó nhằm mục
24
đích xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Về nhiệm vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian vừa có
bước tuần tự vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi
khả năng để đạt trình độ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học.
Tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành
tựu về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế trí thức. Phát huy nguồn trí
tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi trọng giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và thế
giới, từ những năm 1996 chúng ta đã đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để phấn
đấu đến 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đây là yếu tố quyết định sự thành
công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống
xã hội
Đi đôi với phát triển kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị; nâng cao
vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đổi mới và nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng; phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời với phát triển
kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phải phát triển văn
hoá, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhằm không ngừng nâng cao
đời sống tinh thần của nhân dân. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí,

đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, giải quyết tốt các vấn đề xã hội nhằm mục tiêu:
“Xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Câu 11: Phân tích nguồn gốc, bản chất, đặc trưng và chức năng cơ bản của nhà
nước.
1. Nguồn gốc của nhà nước
Nhà nước là một hiện tượng lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đọan nhất
định của sự phát triển xã hội. Nhà nước sẽ tự tiêu vong khi những cơ sở tồn tại của nó
không còn nữa.
Nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của nhà nước là nguyên nhân kinh tế, bắt nguồn
từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nguồn gốc trực tiếp dẫn đến sự ra đời và tồn tại
25
của nhà nước chính là sự xuất hiện chế độ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hòa được.
Lịch sử cho thấy rằng, xã hội cộng sản nguyên thủy dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, mọi người sống bình đẳng, chưa có giai cấp và chưa có nhà nước. Tổ chức
đầu tiên của xã hội loài người, phù hợp với tình trạng kinh tế còn thấp kém lúc bấy giờ là
chế độ thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc là những tộc trưởng, hội đồng các tộc
trưởng; những người và những cơ quan này do nhân dân bầu ra, họ chịu trách nhiệm
trước nhân dân, coi sóc các công việc chung và có thể bị bãi miễn nếu không còn sự tín
nhiệm trong nhân dân. Những tộc trưởng và hội đồng các tộc trưởng điều chỉnh các quan
hệ xã hội duy trì các quy tắc đời sống xã hội và điều khiển các công việc của công xã dựa
vào sức mạnh của dư luận xã hội và uy tín của họ đối với xã hội. Trong tay họ không có
và không cần có một công cụ cưỡng bức đặc biệt nào. Quyền hành và chức năng của cơ
quan đứng đầu thị tộc và bộ lạc không mang tính chất chính trị, mang tính tự quản.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất vào thời kỳ cuối của xã hội nguyên thủy đã dẫn
tới chế độ tư hữu xuất hiện, và xã hội bắt đầu phân chia thành những giai cấp đối kháng:
giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ; quan hệ người áp bức người thay thế quan hệ bình đẳng,
hợp tác tương trợ. Sự đối kháng giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột ngày càng sâu
sắc và không thể điều hòa được. Để bảo vệ địa vị thống trị của mình, để duy trì ách áp
bức bóc lột đối với những người nô lệ, giai cấp chủ nô đã lập ra bộ máy bạo lực, trấn áp

buộc giai cấp nô lệ phải phục tùng tuân theo những trật tự do mình đặt ra, bộ máy đó là
nhà nước.
Nhà nước đầu tiên xuất hiện trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Tiếp đó là
nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản. Sự ra đời của nhà nước chứng tỏ rằng nhà nước
không phải là cơ quan để điều hòa mâu thuẫn giai cấp; mà ngựơc lại, nhà nước ra đời
chính là do mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc không thể điều hòa được. Ở đâu, lúc
nào mà mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện.
Nhà nước xuất hiện và tồn tại không phải do ý muốn chủ quan của một ai hay của
một giai cấp nào. Trái lại, sự xuất hiện nhà nước là một tất yếu khách quan để “khống chế

×