NGHIÊN CỨU CỦA CEPR
Bài nghiên cứu NC-03/2008
Phân tích cơ cấu chi tiêu chính phủ
và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
T.S Phạm Thế Anh
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
1
© 2008 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Bài Nghiên cứu NC-03/ 2008
Nghiên cứu của CEPR
Phân tích cơ cấu chi tiêu chính phủ
và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
TS. Phạm Thế Anh†
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm phân tích mối quan hệ giữa cơ cấu chi tiêu chính phủ và
tăng trưởng kinh tế trong quá trình chuyển đổi ở các tỉnh của Việt Nam. Trước
tiên chúng tôi xây dựng một mô hình tăng trưởng tân cổ điển với nhiều loại chi
tiêu chính phủ khác nhau, giống như trong các nghiên cứu của Barro (1990) và
Devarajan et al (1996). Mô hình cố gắng xác định quy mô và cơ cấu chi tiêu chính
phủ tối ưu đối với việc tối đa hoá tốc độ tăng trưởng kinh tế. Sau đó chúng tôi tiến
hành phân tích thực nghiệm dựa trên mô hình lý thuyết đã xây dựng sử dụng số
liệu ở các tỉnh của Việt Nam. Phân tích hồi quy giúp cung cấp một bức tranh tổng
quát về tính hiệu quả tương đối giữa các thành phần chi tiêu chính phủ đối với
tăng trưởng kinh tế và cho ta một số gợi ý chính sách đối với việc cải cách cơ cấu
chi tiêu chính phủ ở Việt Nam.
Quan điểm được trình bày trong bài nghiên cứu này là của (các) tác giả và không nhất thiết
phản ánh quan điểm của CEPR.
†
Giảng viên khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân. Địa chỉ liên hệ:
Một phiên bản của bài nghiên cứu này đã được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 363, 2008.
2
Mục lục
Tóm tắt .......................................................................................................................................1
Mục lục ......................................................................................................................................2
Lời giới thiệu..............................................................................................................................3
1. Mô hình..................................................................................................................................4
2. Phân tích thực nghiệm ...........................................................................................................7
3. Kết luận................................................................................................................................11
Một số tài liệu tham khảo chính...............................................................................................12
Danh sách Bảng .......................................................................................................................13
Bảng 1: Chi ngân sách địa phương phân theo ngành ở Việt Nam, 2001-2005....................13
Bảng 2: Cơ cấu chi ngân sách địa phương ở Việt Nam, 2001-2005....................................13
Bảng 3: Kết quả ước lượng………………………………………………………..………14
3
Lời giới thiệu
Ban đầu các mô hình tăng trưởng tân cố điển như Solow (1956) và Swan (1956) không tính
đến vai trò của chính phủ và do vậy không thể trực tiếp phân tích hiệu ứng của chính sách tài
khoá đối với tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng trong dài hạn của nền kinh tế hoàn toàn được
quyết định bởi tốc độ tăng của các biến ngoại sinh như dân số hay tiến bộ công nghệ. Theo
thời gian, nhiều nhà kinh tế đã cố gắng đưa vai trò của chính sách tài khoá vào các mô hình
tăng trưởng tân cổ điển. Ví dụ điển hình như Arrow và Kurz (1969), Fisher và Turnovsky
(1998). Đặc biệt, Barro (1990) đã nghiên cứu xem chi tiêu chính phủ có ảnh hưởng thế nào
đến tăng trưởng dài hạn. Bằng cách giả định chi tiêu chính phủ có vai trò bổ trợ cho sản xuất
của khu vực tư nhân, mô hình của ông đã chỉ ra mối quan hệ không đơn điệu giữa quy mô chi
tiêu chính phủ và tăng trưởng.
Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, chính sách tài khoá liên quan đến nhiều loại chi tiêu chính
phủ khác nhau (ví dụ như chi cho quốc phòng, giáo dục, y tế, giao thông vận tải, an sinh xã
hội, tiêu dùng chính phủ,…), và mỗi loại chi tiêu có thể có tác động khác nhau đối với tăng
trưởng. Do vậy, trong hơn hai thập kỉ qua, nhiều nhà kinh tế như Devarajan và những người
khác (1996), Chen (2006), và Ghosh và Gregoriou (2008) đã mở rộng mô hình của Barro để
xem xét tác động của các thành phần chi tiêu chính phủ khác nhau đối với tăng trưởng kinh
tế. Bằng cách gán các hệ số co dãn khác nhau cho các thành phần chi tiêu chính phủ khác
nhau, các mô hình của họ có thể xác định quy mô và cơ cấu tối ưu của khu vực nhà nước đối
với tăng trưởng kinh tế. Cùng với sự phát triển của các mô hình lí thuyết trong lĩnh vực này,
nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng được thực hiện bởi nhiều nhà kinh tế như Aschauer
(1989), Barro (1990, 1991), Easterly và Rebelo (1993), Grier và Tullock (1987), Summers và
Heston (1988) và nhiều bài báo khác. Nói chung, hầu hết các bài báo đều cho thấy sự gia tăng
đầu tư công có tác động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế; trái lại, sự gia tăng tiêu dùng
chính phủ có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế.
Các số liệu thống kê cho thấy chi tiêu ngân sách của Việt Nam trong những năm gần đây có
xu hướng tăng nhanh và chiếm một tỷ trọng lớn trong GDP. Trong năm 2000 và 2006, tỷ
trọng chi tiêu ngân sách của Việt Nam so với GDP lần lượt chiếm 23,36% và 29,79%, trong
khi con số này của Thailand là 17,33% và 16,38%, của Indonesia là 15,83% và 20,07%, và
của China là 16,29 và 19,20%.
1
Cùng với sự gia tăng chi tiêu ngân sách là sự gia tăng sức ép
1
Nguồn: Key Indicators of Developing Asia and Pacific Countries, ADB (2007).
4
thâm hụt ngân sách và lạm phát. Do vậy một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho các
nhà hoạch định chính sách trước khi tiến hành các chương trình cải cách cơ cấu chi ngân sách
là phải đánh giá được tầm quan trọng hay hiệu quả tương đối của các khoản chi tiêu khác
nhau đối với tăng trưởng kinh tế và công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam.
Như đã điểm qua ở trên, trong nhiều thập kỷ qua, các nhà kinh tế trên th
ế giới đã sử dụng
nhiều cách tiếp cận khác nhau để nghiên cứu một cách sâu rộng mối quan hệ giữa chi tiêu
chính phủ và tăng trưởng kinh tế cả về lý thuyết lẫn thực nghiệm. Trong bài viết này, chúng
tôi sử dụng mô hình tăng trưởng tân cổ điển có sự tham gia của chính phủ như trong Barro
(1990) và Devarajan và những người khác (1996) để phân tích mối quan hệ giữa cơ cấu chi
ngân sách và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Trước tiên chúng tôi xây dựng một mô hình lý
thuyết để bạn đọc có thể hình dung một cách tổng quát về vai trò của chính phủ đối với tăng
trưởng kinh tế. Mô hình lý thuyết cũng cố gắng xác định quy mô và cơ cấu chi tiêu tối ưu của
chính phủ đối với tăng trưởng. Tiếp theo, dựa trên mô hình lý thuyết và sử dụng số liệu có
được về chi ngân sách ở các tỉnh thành chúng tôi sẽ tiến hành phân tích thực nghiệm mối
quan hệ giữa cơ cấu chi ngân sách và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Bài viết này được cấu trúc như sau: phần 2 sẽ xây dựng và chỉ ra những kết qủa chính của mô
hình lý thuyết, phần 3 tiến hành phân tích thực nghiệm, và cuối cùng là một số kết luận chính
của bài.
1. Mô hình
Mô hình chúng tôi xây dựng ở đây chủ yếu dựa trên các mô hình của Barro (1990) và
Devarajan và những người khác (1996) với những thành phần chủ yếu sau.
Khu vực sản xuất
Hàm tổng sản xuất có dạng chuẩn Cobb-Douglas với hiệu suất không đổi theo quy mô. Chính
phủ thực hiện các loại chi tiêu khác nhau, trong đó mỗi loại chi tiêu được giả định là có tác
động khác nhau đến tổng sản lượng của nền kinh tế. Cụ thể hàm sản xuất
được viết dưới dạng
sau:
12
112
( , ,..., ) ...
n
nn
yfkg g kgg g
β
ββ
α
==
(1)
5
trong đó
1
0, 0, 1
n
i
i
i
αβα β
=
>≥+ =
∑
. Các hệ số
α
và
i
β
có thể lần lượt được hiểu là hệ số
co dãn của tổng sản lượng của nền kinh tế đối với tổng lượng tư bản và thành phần chi tiêu
chính phủ i. Do mục đích của bài báo này không nhằm phân tích tác động của các loại thuế
suất khác nhau đến tăng trưởng kinh tế nên để đơn giản, giống như trong Barro (1990), chúng
tôi giả định rằng chính phủ tài trợ cho chi tiêu của mình nhờ áp d
ụng một mức thuế suất cố
định
τ
. Điều này cũng hàm ý chính phủ luôn thực hiện cán cân ngân sách cân bằng. Do vậy
ta có:
1
n
i
i
y gg
τ
=
==
∑
(2)
ii
gy
φτ
=
và
1
1
n
i
i
φ
=
=
∑
(3)
trong đó
i
g là thành phần chi tiêu chính phủ i và
i
φ
là tỷ trọng của thành phần
i
g trong tổng
chi tiêu chính phủ. Biến đổi các phương trình (1)-(3) ta có thể biểu diễn mối quan hệ giữa
tổng sản lượng của nền kinh tế với tỷ trọng của các loại chi tiêu chính phủ như sau:
1/
1
i
n
i
i
g
k
α
β
φτ
=
⎡⎤
=
⎣⎦
∏
(4)
1/
1
1
i
n
i
i
yk
α
β
α
φτ
−
=
⎡⎤
=
⎣⎦
∏
. (5)
Hộ gia đình
Chúng ta giả định rằng trong nền kinh tế có nhiều hộ gia đình giống nhau. Với các quyết định
của chính phủ về
τ
và
i
φ
, mỗi hộ gia đình sẽ lựa chọn các quyết định về mức tiêu dùng,
c
, và
mức tư bản,
k
, để tối đa hoá lợi ích của mình trong cả vòng đời. Hàm lợi ích của một hộ gia
đình tiêu biểu có thể được viết dưới dạng
1
1
()
1
c
uc
σ
σ
−
−
=
−
và vấn đề của hộ gia đình này là tối
đa hoá
0
()
t
Ueucdt
ρ
∞
−
=
∫
(6)
với ràng buộc:
(1 )kyc
τ
=− −
&
(7)