Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên Hải Dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (802.15 KB, 100 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





NGUYỄN THỊ HIỀN






VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO THANH NIÊN HẢI DƯƠNG HIỆN NAY








LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC












HÀ NỘI - 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




NGUYỄN THỊ HIỀN







VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO THANH NIÊN HẢI DƯƠNG HIỆN NAY





Chuyên ngành: Triết học

Mã số: 60 22 80


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN VĂN PHÚC







HÀ NỘI - 2012



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS.
Nguyễn Văn Phúc.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều
trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2012.
Tác giả luận văn




Nguyễn Thị Hiền












MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chương 1.
TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
THANH NIÊN HẢI DƯƠNG HIỆN NAY
8
1.1. Đạo đức và tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho thanh niên
Hải Dương hiện nay 8
1.1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức 8
1.1.2. Tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho thanh niên Hải
Dương hiện nay 15
1.2. Nội dung giáo dục đạo đức cho thanh niên Hải Dương hiện nay 34
1.2.1. Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh niên Hải Dương 34
1.2.2. Giáo dục lý tưởng cách mạng và đạo đức cách mạng Hồ Chí

Minh cho thanh niên Hải Dương 38
1.2.3. Giáo dục thái độ lao động và giáo dục nghề nghiệp cho thanh
niên Hải Dương 40
1.2.4. Giáo dục lối sống văn hóa cho thanh niên Hải Dương 43
1.2.5. Giáo dục tình bạn chân chính, tình yêu trong sáng cho thanh
niên Hải Dương 47
Chương 2.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN HẢI DƯƠNG HIỆN
NAY
51
2.1.
Thực trạng giáo dục đạo đức cho thanh niên Hải Dương hiện nay
51
2.1.1. Những thành tựu trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Hải
Dương hiện nay 51
2.1.2. Những hạn chế và nguyên nhân trong giáo dục đạo đức cho
thanh niên Hải Dương hiện nay 60
2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục
đạo đức cho thanh niên Hải Dương hiện nay 71
2.2.1. Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các chủ thể giáo dục
đạo đức cho thanh niên Hải Dương 72

2.2.2. Kết hợp gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục đạo đức
cho thanh niên Hải Dương 74
2.2.3. Đổi mới nội dung và đa dạng hóa các hình thức giáo dục đạo
đức thanh niên 77
2.2.4. Tạo lập môi trường xã hội lành mạnh cho giáo dục đạo đức cho
thanh niên 83
KẾT LUẬN 87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là một lực lượng xã hội đặc thù, đóng vai trò quan trọng
trong sự vận động và phát triển của xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh
rằng sự thành - bại, thịnh - suy của mỗi dân tộc phần lớn đều phụ thuộc vào
thanh niên. Chính vì vậy việc giáo dục, đào tạo bồi dưỡng thế hệ thanh niên là
một việc làm thường xuyên và cần thiết.
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những
yêu cầu to lớn về chất lượng nguồn lực con người. Đó là sự phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và một cách khái quát nhân cách
nói chung của con người Việt Nam, mà trước hết là của thế hệ thanh niên.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu và được triển khai
trên quy mô lớn, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ chế thị trường,
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang phát huy tác dụng tích cực, tạo
nên sự phát triển năng động và thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở nước
ta. Nhưng, kinh tế thị trường cũng ngày càng bộc lộ những mặt trái, gây ảnh
hưởng tiêu cực tới đời sống tinh thần, những ảnh hưởng tiêu cực đó len lỏi,
thẩm thấu vào mọi quan hệ xã hội, làm sai lệch các chuẩn mực giá trị đạo đức
dân tộc, dẫn tới sự suy thoái về đạo đức ở một bộ phận nhân dân như lối sống
sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí,
truỵ lạc v.v. ảnh hưởng xấu tới thế hệ thanh niên. Mặt khác, cùng với sự giao
thoa về kinh tế là sự giao thoa về văn hoá, với sự tràn ngập của văn hoá ngoại
lai đã làm rối loạn các giá trị truyền thống của dân tộc tạo ra khả năng về sự
tha hoá nhân cách, đạo đức. Vì vậy, việc giữ vững định hướng chính trị và
định hướng giá trị tinh thần trong thực tiễn xây dựng đất nước, cũng như
trong thực tiễn đạo đức là yêu cầu cấp thiết để góp phần ngăn chặn sự suy
2

thoái và nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống con người Việt Nam, trong đó có
thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay.
Xây dựng một đời sống tinh thần văn minh, tiến bộ với những giá trị
đạo đức cao đẹp không phải là công việc thực hiện dễ dàng trong chốc lát. Nó
đòi hỏi chúng ta phải xây dựng lại thang giá trị mới cho phù hợp, phải lựa
chọn đối tượng ưu tiên cho việc giáo dục đạo đức và phải đặt nhiệm vụ ấy là
nhiệm vụ lâu dài, chiến lược. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Non
sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có thể bước
tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không,
chính là một phần lớn nhờ công học tập của các em” (trích thư gửi học sinh
nhân ngày khai trường năm đầu tiên của nước Việt Nam độc lập 9-1945).
Đảng ta cũng nhiều lần khẳng định: bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh
niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ,
đạo đức và bản lĩnh văn hoá của con người Việt Nam, coi trọng bồi dưỡng
cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh,
gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau
dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt
Nam hiện đại. Như vậy là bên cạnh rất nhiều lớp đối tượng khác trong xã hội,
thanh niên trở thành lớp đối tượng cần được coi trọng nhất trong việc thực
hiện công tác giáo dục đạo đức hiện nay.
Trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội
nhập kinh tế quốc tế, tầng lớp thanh niên Hải Dương nói riêng và thanh niên
cả nước nói chung đã tiếp bước cha anh giữ vững đạo đức cách mạng, sống
trong sạch, giản dị, lành mạnh, biết vươn tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Song
bên cạnh những chuyển biến tích cực đó, mặt trái của kinh tế thị trường tác
động mạnh mẽ đến thanh niên làm cho một số thanh niên chạy theo lối sống
thực dụng, buông thả, phai nhạt lý tưởng bất chấp những quy phạm đạo đức,
truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc v.v. Do vậy việc giáo dục đạo đức
3
nói chung và giáo dục đạo đức cho thanh niên Hải Dương nói riêng là một

trong những nhiệm vụ quan trọng của chiến lược phát triển con người ở nước
ta hiện nay.
Để góp phần thực hiện nhiệm vụ đó, chúng tôi chọn “Vấn đề giáo dục
đạo đức cho thanh niên Hải Dương hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đạo đức nói chung và đạo đức thanh niên nói riêng trong những
năm gần đây đã được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, đã có nhiều công
trình nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau. Đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay, cùng với sự biến đổi nhanh chóng của thế giới, nước ta bước vào xu thế
hội nhập mở cửa, thang giá trị đạo đức truyền thống ít nhiều có sự thay đổi
nên vấn đề này càng thu hút được sự quan tâm của nhiều người. Một số
chuyên khảo tiêu biểu đi sâu nghiên cứu nhằm xác định các giá trị đạo đức
truyền thống làm cơ sở cho việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần và con
người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là thế hệ thanh niên: “Vấn đề
kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển
sang nền kinh tế thị trường ở nước ta” của Nguyễn Văn Lý, Tạp chí Triết học
số 2- 1999; “Đạo đức với phát triển con người và xã hội” của Đỗ Tuyết Bảo,
Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 11- 2000; “Giáo trình đạo đức học” của
Nguyễn Ngọc Long, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội- 2001; “Vai
trò của văn hóa đạo đức trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam” của Thành Duy, Tạp chí Triết học số 2-2002; “Vấn đề xây dựng
đạo đức trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường” của Đỗ Lan Hiền, Tạp
chí Triết học số 4-2002; “Cơ chế, chuẩn mực đạo đức xã hội và những hành
vi đạo đức cá nhân” của Đỗ Huy, Tạp chí Triết học số 2- 2002; “Tu dưỡng
đạo đức tư tưởng” của La Quốc Kiệt, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội- 2003; “Sự suy thoái đạo đức và giải pháp của chúng ta”, Tạp chí Tâm
lý học số 9-2003; “Giáo dục lối sống nếp sống mới” của Thanh Lê, Nhà xuất
4
bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2004; “Đạo đức học Mác-Lênin” của
Nguyễn Ngọc Long - Nguyễn Thế Kiệt, Nhà xuất bản Lý luận chính trị - xã

hội, 2004; “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Duy Quý, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006; “Về việc tạo ra bước chuyển mạnh
mẽ trong xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Văn Phúc,
Tạp chí Triết học, số 11- 2006; “Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và
chuẩn mực đạo đức mới” của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 3- 2007
v.v.
Nghiên cứu tác động của đạo đức trong việc rèn luyện và phát triển
nhân cách con người nói chung, nhân cách thanh niên nói riêng, trong các
công trình nghiên cứu luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ và một số tạp chí đã
có một số tác giả đề cập như: “Giáo dục đạo đức với sự hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Trần Sĩ
Phán (luận án tiến sĩ, 1999); “Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng
đạo đức mới cho thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam” của Nguyễn Đình Quế (luận
văn thạc sĩ, 2000); “Vai trò của gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta
hiện nay” của Nguyễn Sĩ Liêm (luận án tiến sĩ, 2001); “Vấn đề giáo dục đạo
đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay” của Doãn Thị Chín (luận
văn thạc sĩ, 2004); "Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại
trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay" của Lê Thị
Hoài Thanh (luận án tiến sĩ, 2002); "Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý
tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện nay" của Đoàn Văn
Khiêm, Tạp chí Triết học số 2 - 2001; "Để có nguồn lực đưa đất nước tiến
lên trong thời kỳ mới, phải giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ phát triển toàn
diện" của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, Tạp chí Thanh niên số 15- 2002; "Đổi
mới hình thức tuyên truyền giáo dục thanh niên" của Lương Ngọc Vĩnh, Tạp chí
Thanh niên số 9- 2004; “Vấn đề đạo đức trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay. Thực trạng và nguyên nhân” của Phan Sinh Kế,
5
tạp chí Khoa học chính trị số 1-2004; "Xây dựng lối sống văn hoá cho thanh
niên hiện nay" của Nguyễn Thị Mỹ Trang, Tạp chí Cộng sản số 6-2006. Các
công trình nghiên cứu trên đều khẳng định rằng đạo đức là vấn đề mà nhân

loại cần bàn tới trước hết trong cuộc sống hiện tại. Hiện nay bức tranh đạo
đức chung của toàn nhân loại đang có nguy cơ suy thoái nghiêm trọng. Thực
trạng này không chỉ diễn ra ở một nước nào đó mà nó ngày càng phổ biến ở
nhiều nước phát triển và đang phát triển. Suy thoái đạo đức có ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống tinh thần của con người, bộ mặt nhân văn của nhân loại và
nó cũng trực tiếp tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của
mỗi quốc gia. Thông qua việc nghiên cứu đạo đức ở các khía cạnh như lịch sử
đạo đức, các giá trị đạo đức, chuẩn mực xã hội v.v. các tác giả đã liên hệ với
thực trạng đời sống đạo đức tại Việt Nam. Và vấn đề phát huy giá trị đạo đức
truyền thống để xây dựng đạo đức mới nói chung, đạo đức mới cho thanh
niên nói riêng là vấn đề đang có biến đổi phức tạp.
Ở Hải Dương cũng đang đặt ra yêu cầu xây dựng đạo đức cho thanh
niên hiện nay đòi hỏi không chỉ những nghiên cứu về giáo dục nói chung mà
còn phải đi sâu vào lĩnh vực đạo đức để chỉ ra thực trạng và tìm ra những giải
pháp giáo dục đạo đức cho thanh niên Hải Dương. Ở Hải Dương, vấn đề giáo
dục đạo đức cho thế hệ thanh niên trong một chừng mực nhất định đã được đề
cập đến như là một trong những phương diện, một trong những nhiệm vụ của
công tác thanh niên tỉnh Hải Dương hiện nay: Báo cáo tổng kết công tác
Đoàn và phong trào thanh niên trường học năm học 2007-2008; Báo cáo
tổng kết công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi năm 2010; Báo cáo
tổng kết công tác Đoàn và phong trào thanh niên trường học năm học 2010-
2011; Báo cáo tổng kết 10 năm phong trào thanh niên tình nguyện (2000-
2010); Báo cáo tổng kết công tác Hội và phong trào thanh niên năm 2010,
phương hướng công tác Hội năm 2011; Báo cáo tổng kết công tác Hội và
6
phong trào sinh viên năm học 2010-2011. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của
những báo cáo thường niên về công tác Đoàn Hải Dương, hoặc những bài
nghiên cứu về giáo dục thanh niên, phương diện đạo đức và giáo dục đạo đức
cho thanh niên Hải Dương chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và
chuyên sâu, vì thế cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng giáo dục đạo đức cho thanh niên ở Hải
Dương, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức cho thanh niên ở Hải Dương trong
giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ tầm quan trọng, nội dung giáo dục đạo đức cho thanh niên ở
Hải Dương trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng giáo dục đạo đức cho thanh niên ở Hải Dương
hiện nay và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác
giáo dục đạo đức cho thanh niên ở Hải Dương trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu:
Tình hình đạo đức của thanh niên và giáo dục đạo đức cho thanh niên ở
Hải Dương trong giai đoạn hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là đề cập đến một số nhân tố, điều
kiện chủ yếu tác động đến giáo dục đạo đức cho thanh niên ở Hải Dương
trong giai đoạn hiện nay. Các số liệu, tài liệu khảo sát chủ yếu đề cập từ năm
2006 cho đến nay.
7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về thanh niên, giáo dục đạo
đức cho thanh niên. Ngoài ra tác giả luận văn có tham khảo, kế thừa các thành
tựu của các công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng tổng hợp các nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú ý sử
dụng phương pháp lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh, khái quát
hóa v.v. trên cơ sở quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
để làm rõ nội dung của đề tài nghiên cứu.
6. Đóng góp và ý nghĩa khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ thực trạng giáo dục đạo đức thanh niên Hải Dương
từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức thanh niên trong giai đoạn hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
việc nghiên cứu và giảng dạy môn đạo đức học. Luận văn cũng có ý nghĩa
thực tiễn cho công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên Hải Dương nói riêng
và thanh niên Việt Nam nói chung trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn
được bố cục thành 2 chương, 4 tiết:
Chương 1: Tầm quan trọng, nội dung giáo dục đạo đức cho thanh niên
Hải Dương hiện nay.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả của giáo dục đạo
đức cho thanh niên Hải Dương hiện nay.
8
Chương 1

TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO THANH NIÊN HẢI DƯƠNG HIỆN NAY

1.1. Đạo đức và tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho thanh
niên Hải Dương hiện nay
1.1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức
“ Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,

qui tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan
hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như
tương lai chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức
mạnh của dư luận xã hội” [31, tr816].
Trong đạo đức, nhu cầu và lợi ích của toàn xã hội hoặc của một bộ
phận xã hội mà quan trọng nhất là của giai cấp được phản ánh một cách đặc
trưng bằng hệ thống tiêu chuẩn, gọi là tiêu chuẩn đạo đức. Trên cơ sở của các
tiêu chuẩn này, các quy tắc xử sự chung gọi là các quy phạm đạo đức được
hình thành.
Đạo đức, tiêu chuẩn đạo đức và quy phạm đạo đức được mọi thành
viên của xã hội thừa nhận, hình thành và vận động trong sự phát triển của xã
hội, được củng cố bằng sức mạnh của sự nêu gương, của thói quen, của phong
tục, và đặc biệt là của dư luận xã hội.
Trong xã hội, những yêu cầu của đạo đức mang hình thức bổn phận mà
tất cả mọi người đều phải làm theo, không trừ một ai là như nhau với tất cả mọi
người, nhưng hoàn toàn không thể xem là mệnh lệnh của bất kỳ một cá nhân
nào. Trong cơ chế thực hiện các quy phạm đạo đức, ý thức biểu hiện cả dưới
hình thức cảm xúc của tình cảm, động cơ, ham muốn, và như vậy cá nhân vừa
thể hiện với tư cách là khách thể, vừa thể hiện với tư cách là chủ thể đã ý thức
được sự kiểm tra của xã hội, nghĩa là thể hiện một nhân cách đạo đức.
9
Giáo dục đạo đức là nhiệm vụ bao trùm và xuyên suốt toàn bộ hoạt
động giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội để hình thành và phát triển
nhân cách. Giáo dục đạo đức phải trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, là
vấn đề của mọi vấn đề trong chiến lược giáo dục và đào tạo vì sự phát triển
con người và phát triển xã hội.
Đối tượng của giáo dục là con người. Từ lúc sinh ra, rồi lớn lên và
trưởng thành - cả về mặt thể chất lẫn tinh thần, tức là toàn bộ đời sống sinh lý
- tâm lý - cho đến suốt cuộc đời sau này gắn với nghề nghiệp và hoạt động xã
hội, với tư cách là một con người của xã hội, một công dân của nhà nước, một

cá nhân - chủ thể của hoạt động, một cái Tôi - Nhân cách, con người luôn
luôn ở trong những ảnh hưởng và tác động của giáo dục.
Giáo dục là một quá trình thường xuyên và liên tục. Nói giáo dục
thường xuyên là nói giáo dục suốt đời, giáo dục phải được cá thể hóa, cá nhân
hóa tới từng người một bởi những ảnh hưởng tích cực và tác động có chủ đích
tới sự phát triển con người, mà xét về thực chất là phát triển nhân cách.
Giáo dục không phải chỉ dành cho một nhóm, một tầng lớp người đặc
biệt nào mà phải hướng tới tất cả mọi người trong xã hội, ai ai cũng có cơ hội
tiếp nhận nền giáo dục của xã hội để phát triển. Công bằng xã hội có nghĩa là
công bằng về cơ hội phát triển. Điều đó phải được thể hiện trong mọi lĩnh vực
hoạt động của con người và đời sống xã hội, không chỉ trong hoạt động kinh
tế mà còn trong hoạt động giáo dục. Con đường xã hội hóa giáo dục là con
đường phát triển giáo dục vì tất cả mọi người, của toàn dân và cho toàn dân.
Một xã hội văn minh và tiến bộ có thể được xem xét và đánh giá bởi nhiều
tiêu chí, nhiều thước đo khác nhau, nhưng nhất thiết không thể thiếu tiêu chí
và thước đo về giáo dục. Khi Đảng và Nhà nước ta xác định giáo dục- đào tạo
là quốc sách hàng đầu thì điều đó đã nói lên tầm quan trọng chiến lược của
giáo dục đối với sự phát triển của con người và xã hội.
10
Đối với tất cả mọi thành viên trong cộng đồng xã hội thì hoạt động giáo
dục của xã hội phải diễn ra thường xuyên, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ
khác, gây ảnh hưởng và tác động bằng nhiều con đường và phương thức khác
nhau, bởi nhiều lực lượng giáo dục khác nhau với một tổng hợp phong phú và
đa dạng về nội dung và hình thức giáo dục. Hoạt động giáo dục ấy của xã hội
phải được tổ chức thực hiện thông qua một chiến lược phát triển giáo dục của
Đảng, được thể chế hóa và cụ thể hóa với Luật giáo dục, với kế hoạch đầu tư
của Nhà nước đủ mạnh để có thể đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao
đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội. Đầu tư cho giáo dục phải được
coi là nguồn đầu tư đặc biệt, đầu tư theo chiều sâu, đầu tư cho phát triển. Xã
hội chăm lo giáo dục thường xuyên, liên tục cho mọi thành viên của mình- đó

là một xã hội giàu nhân tính nhất, một xã hội văn hóa cao như Hồ Chí Minh
quan niệm. Đó cũng là xã hội tỏ rõ tính tích cực và chủ động nhất trong việc
tạo ra tiềm lực và nội lực hàng đầu cho phát triển, hơn nữa là sự đoán trước
yêu cầu của phát triển bền vững. Xét đến cùng, sự phát triển và sự phồn thịnh
về kinh tế, về của cải vật chất cũng như về văn minh kỹ thuật- công nghệ chỉ
là phương tiện để xây dựng xã hội văn hóa cao, để phát triển xã hội ngày càng
nhiều hơn với nhân tính.
Con người là mục tiêu và động lực của phát triển. Mọi hoạt động dẫn
tới phát triển và mọi thành quả đạt được trong phát triển đều phải hướng tới
sự phát triển con người, phục vụ cho sự phát triển con người với tư cách là
giá trị văn hóa cao nhất. Không có con người là chủ thể hoạt động, là nguồn
lực của mọi nguồn lực thì không có bất cứ một sự biến đổi và phát triển nào
của xã hội được tạo ra.
Giáo dục xã hội nhằm tạo ra những chất lượng con người như thế để
phát triển xã hội. Xét theo quan điểm phát triển thì việc xem nhẹ hoạt động
giáo dục và sự suy thoái đạo đức của con người và nền tảng đạo đức của xã
hội là điều nguy hiểm nhất đối với sự tồn vong của xã hội đó.
11
Giáo dục xã hội quan tâm đến tất cả mọi thành viên của cộng đồng, làm
cho mọi người - theo cách nói của ông cha ta - là trở thành người, là biết làm
người, biết sống ở đời như triết lý nhân sinh của Hồ Chí Minh. Đó là có ý
thức về bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm, có năng lực thực tế để hoàn thành tự
giác, tự nguyện những bổn phận nghĩa vụ đó với xã hội, với người khác và
với chính mình. Đó còn là những con người có những tình cảm tốt đẹp với
con người để giữ cho được nhân tính, trở nên lương thiện, tử tế giữa mọi
người và không đánh mất lương tâm - cái sức mạnh đạo đức giúp con người
biết bảo vệ và tự bảo vệ phẩm giá làm người của mình và của người khác
trong đồng loại.
Do đó, giáo dục xã hội đối với mọi người biểu hiện thành giáo dục
công dân. Đó là yêu cầu và nội dung mà giáo dục xã hội đặt ra đối với tất cả

mọi người. Đã là một công dân, một thành viên xã hội thì đều là đối tượng tác
động của giáo dục công dân, giáo dục xã hội. Ngay cả các nhà giáo dục được
xã hội giao phó, ủy thác cho trọng trách cao quý là “dạy chữ, dạy nghề, dạy
người” cho người khác cũng phải thường xuyên tiếp nhận ảnh hưởng, tác
động của giáo dục. Mác nói: “bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo
dục” [52, tr.10] là vì vậy. Xét trên phương diện đạo đức và nhân cách, con
người ta một khi đạt được những đức tính, những chuẩn mực và quy phạm
đạo đức ở một thời điểm nào đó thì không có nghĩa là nó có thể mãi mãi là
người có đạo đức, có nhân cách trong suốt cuộc đời. Không có gì đảm bảo
cho con người cái giá trị ấy ngoài việc thường xuyên biết tự rèn luyện, tự tu
dưỡng, trau dồi và tự bảo vệ suốt đời chừng nào con người còn sống, còn
hoạt động, và được xã hội thường xuyên giúp đỡ để tự điều chỉnh bằng những
phương tiện giáo dục xã hội, kể cả những phương tiện trừng phạt bắt buộc
bằng pháp lý. Đó là trường hợp khi con người phạm tội trở thành phạm nhân
và chịu những hình thức cải tạo, giáo dục cưỡng bức trong nhà tù. Ngay cả
trong trường hợp đó, giáo dục cũng phải giúp đỡ cho con người biết hối cải,
12
biết tự thức tỉnh, làm cho nó có khả năng tái hòa nhập cộng đồng, biết hướng
thiện và hoàn lương. Bản chất nhân đạo của giáo dục xã hội đối với con người
là ở đó.
Trong thực tế, không ít người mắc lỗi lầm, trở thành tội phạm ở tuổi vị
thành niên. Cũng không ít người lại mắc lỗi lầm và phạm tội khi đã hoàn toàn
trưởng thành về mặt xã hội, cũng có những người lại vấp ngã và tự đánh mất
nhân cách, nhân tính của mình khi đã ở vào tuổi tưởng như không còn mắc sai
lầm nữa. Đủ thấy, trong cuộc hành trình ở đời, để giữ cho được trọn vẹn đạo
làm người, đối với con người là cả một quá trình tập luyện và tranh đấu để
theo điều phải, tránh điều trái, theo cái tốt, tránh cái xấu, làm điều thiện,
hướng thiện, tránh điều ác và biết đấu tranh làm lành mạnh môi trường xã hội,
là cuộc đấu tranh để tự vượt qua những sự tầm thường, nhỏ nhen, xấu xa, hư
hỏng trong chính bản thân mình, bởi mỗi con người đều có cái hay và cái dở,

cái tốt và cái xấu ở trong lòng [62, tr.77]. Như vậy, giáo dục xã hội là một
quá trình thường xuyên, liên tục, không bao giờ được xem là xong xuôi, là đủ.
Chừng nào con người còn sống, chừng đó con người còn cần đến sự giáo dục.
Chừng nào xã hội còn tồn tại, chừng đó giáo dục vẫn song hành cùng với sự
vận động và phát triển.
Hơn nữa, có thể nói, mọi nội dung, mọi phương thức, hình thức giáo
dục, mọi con đường dẫn tới thực hiện chương trình giáo dục xã hội, mọi nỗ
lực mà giáo dục xã hội huy động đều quy tụ vào giáo dục đạo đức làm người,
nói rộng ra là giáo dục văn hóa làm người, lấy văn hóa đạo đức làm nền tảng
và là cái cốt lõi [1, tr.5]. Giáo dục đạo đức là cái căn bản của mục tiêu giáo
dục con người, giáo dục nhân cách [2, tr.1].
Giáo dục đạo đức vừa là một trong những phương diện hợp thành nội
dung giáo dục, lại vừa là cái xuyên suốt, bao trùm toàn bộ nội dung giáo dục
đó- trong gia đình, trong nhà trường và ngoài xã hội.
13
Nội dung của giáo dục đạo đức, nói một cách tổng quát, bao gồm giáo
dục nhận thức để hình thành và phát triển những xúc cảm, tình cảm đạo đức
trong sáng, cao quý thuộc về nhân tính của con người; xây dựng niềm tin đạo
đức dựa trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa nhận thức và tình cảm đạo đức đã đạt
được; tập luyện hành vi và trau dồi thói quen trong những ứng xử đạo đức
hàng ngày giữa người với người v.v. Tổng hợp và chung đúc những cái đó
trong giáo dục đạo đức trong mỗi con người là để hình thành ở mỗi người nhu
cầu đạo đức, văn hóa đạo đức của bản thân nó. Nhu cầu đạo đức và văn hóa
đạo đức đó chính là nhu cầu cơ bản hàng đầu của đời sống tinh thần phong
phú của con người, là những giá trị và chuẩn mực đạo đức mà con người với
tư cách là một chủ thể hoạt động đã chiếm lĩnh được, đã trở thành sự lựa chọn
mang tính tự nguyện và khẳng định của bản thân mình, coi đó là giá trị và ý
nghĩa của lẽ sống, biểu hiện và tự biểu hiện ra trong hình thức độc đáo của cá
thể ở trong lối sống và nếp sống hàng ngày. Nói tóm lại, nhu cầu đạo đức và
văn hóa đạo đức của mỗi cá nhân nói lên trình độ trưởng thành đạo đức và

nhân cách của cá nhân đó trong hoạt động sống, trong toàn bộ thực tiễn đời
sống đạo đức của cá nhân. Đó là kết quả tổng hợp của toàn bộ nội dung và
quá trình giáo dục đạo đức đã nêu trên, trong đó cần phải đặc biệt nhấn mạnh
tới vai trò của bồi dưỡng tình cảm đạo đức và trau dồi, tập luyện các hành vi,
thói quen đạo đức. Giáo dục đạo đức không dừng lại ở nhận thức, tức là cung
cấp những hiểu biết để hình thành ý thức và niềm tin cho con người về sự cần
thiết phải có đạo đức, sống phù hợp với những giá trị và chuẩn mực đạo đức
mà xã hội đòi hỏi đồng thời tham gia vào cuộc đấu tranh vì một đời sống đạo
đức tốt đẹp của con người và xã hội. Phương diện giáo dục nhận thức đạo đức
tuy rất quan trọng nhưng nó chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ. Người có hiểu
biết lý trí đạo đức chưa hẳn là người có đạo đức nếu nó không thể hiện sự
hiểu biết đạo đức đó thành hành vi, hành động đạo đức trong thực tiễn. Hơn
nữa, sự thực hành đạo đức của mỗi cá nhân thường được thúc đẩy và dẫn dắt
14
bởi động cơ và động lực quan trọng về mặt tinh thần, đó là những xúc cảm và
tình cảm đạo đức đã trở thành một thuộc tính tâm lý ổn định và bền vững
trong đời sống cá nhân. Đó cũng là mặt phẩm chất của nhân cách. Bồi dưỡng
và làm nảy nở không ngừng những xúc cảm và tình cảm đạo đức lành mạnh,
trong sáng ở mỗi cá nhân, có thể xem đó là hạt nhân của giáo dục đạo đức. Sự
hình thành và phát triển nhu cầu đạo đức, văn hóa đạo đức ở mỗi người diễn
ra như thế nào - điều đó phụ thuộc một phần lớn ở sức mạnh thúc đẩy tình
cảm đạo đức ở người đó. Phải có những tình cảm đạo đức mãnh liệt, con
người mới tự mình có những thôi thúc nội tâm bên trong để hình thành cho
chính mình nhu cầu đạo đức và văn hóa đạo đức, từ đó mới có thể chuyển từ
giáo dục sang tự giáo dục, thực hiện đồng nhất giữa đối tượng giáo dục và
chủ thể giáo dục trong chính bản thân mình. Như vậy, theo bản chất nhân văn,
giáo dục đạo đức đặc biệt chú trọng tới thực hành đạo đức trong hoạt động
thực tiễn của con người. Tình cảm đạo đức, có thể nói chứa đựng trong nó cả
cái Chân, cái Thiện lẫn cái Mỹ, chúng kết hợp và thúc đẩy lẫn nhau một cách
hài hòa. Những cử chỉ hành vi đạo đức tốt đẹp bao giờ cũng bắt nguồn từ

những xúc cảm, tình cảm trong sáng, vô tư, vị tha, đức hy sinh quên mình,
không một chút tính toán vụ lợi nào. Người có đạo đức thường làm việc tốt
bởi sự thúc đẩy của lòng mong muốn trở nên tốt đẹp và tốt đẹp hơn, làm điều
tốt, việc tốt vì người khác, cho người khác.
Nội dung giáo dục đạo đức nói trên sẽ được cụ thể hóa vào trong thực
tiễn giáo dục đạo đức cho từng lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp trong những
môi trường, hoàn cảnh giáo dục và hình thức giáo dục (gia đình - nhà trường -
xã hội) cho phù hợp, mà tính hướng đích thực tiễn của nó là giáo dục đạo đức
công dân để phụng sự xã hội và nhân dân. Đối với tuổi trẻ đang lớn lên, giáo
dục đạo đức cho các em trong nhà trường, kết hợp với giáo dục gia đình và
ngoài xã hội là rất quan trọng. Nó từng bước chuẩn bị cho các em vào đời,
bước vào cuộc sống tự lập để trở thành một công dân hữu ích cho tổ quốc xã
15
hội chủ nghĩa, tự nguyện, tự giác đón nhận và thực hiện nghĩa vụ, bổn phận
công dân của mình.
1.1.2. Tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho thanh niên Hải
Dương hiện nay
1.1.2.1. Đặc điểm của thanh niên và thanh niên Hải Dương
Tuổi thanh niên - lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời mỗi một con người (15
- 30) vẫn được xem là mùa xuân của nhân loại. Đây là là lứa tuổi đang phát
triển cả về thể chất, tâm lý, tinh thần, cả về nhu cầu và tình cảm, trí tuệ và tài
năng, ước mơ và lý tưởng, tư duy và tính cách. Đó cũng là lứa tuổi đang ở vào
thời kỳ định hướng giá trị cuộc sống và đang trưởng thành về nhân cách.
Thanh niên là một nhóm xã hội đặc thù chiếm số đông trong dân cư;
đan xen trong các giai tầng, cơ cấu xã hội và cơ cấu nghề nghiệp. Ở nước ta
hiện nay, thanh niên có khoảng trên 23 triệu người, chiếm tỷ lệ 35% trong dân
cư và 45% trong lực lượng lao động xã hội. Thanh niên là hình ảnh phản
chiếu của xã hội thu nhỏ, vì thế muốn biết tương lai của một dân tộc thế nào,
của một xã hội ra sao có thể xem xét qua diện mạo của thế hệ thanh niên.
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều có sự thống nhất tuổi thanh

niên bắt đầu từ 14 hoặc 15 tuổi và kết thúc ở tuổi nào thì có sự khác biệt.
Có nước quy định là 25 tuổi, có nước quy định là 30 và cũng có nước quy
định là 40 tuổi.
Ở Việt Nam đã có giai đoạn tuổi thanh niên được hiểu gần như đồng
nhất với tuổi đoàn viên (15 đến 28 tuổi). Ngày nay, do điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội phát triển, thời gian học tập, đào tạo cơ bản của tuổi trẻ dài
hơn nên tuổi thanh niên được xác định là 15 đến 30 tuổi. Tương lai độ tuổi
của thanh niên Việt Nam có thể sẽ tăng vì theo Khoản 2 Điều 1 của dự thảo
luật thanh niên, độ tuổi của thanh niên từ 16 đến 35. Tuy nhiên, vấn đề này
còn nhiều ý kiến khác nhau. Tuỳ thuộc vào nội dung và góc độ nghiên cứu
16
mà có nhiều cách quan niệm khác nhau về thanh niên. Trong thực tế Việt
Nam có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về thanh niên.
Hồ Chí Minh, khi nói đến thanh niên Người đã đưa ra một khái niệm
đầy hình ảnh: "Một năm bắt đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ.
Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội" [60, tr.69]. Hồ Chí Minh cho rằng thanh
niên là lứa tuổi sống động nhất, mạnh mẽ và đẹp đẽ nhất của cuộc đời.
Trong cuốn “Quản lý Nhà nước đối với công tác thanh niên” - “Thanh
niên là một phạm trù triết học, chỉ một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù, ở độ
tuổi nhất định (từ 15- 30 tuổi), có mặt trong tất cả các giai cấp, các tầng lớp
xã hội, dân tộc, các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, có những đặc
điểm chung về tâm lý, sinh lý, nhận thức xã hội, có vai trò quan trọng đối với
mỗi quốc gia, dân tộc trong cả hiện tại và tương lai” [21, tr.25].
Trong cuốn: "Tìm hiểu một số thuật ngữ về công tác thanh niên" -
"Thanh niên là một tầng lớp người - xã hội đặc thù, với độ tuổi nằm trong
giới hạn từ 14, 15 đến trên dưới 30 tuổi" [64, tr.179].
Từ những quan niệm khác nhau về thanh niên chúng tôi có thể khái
quát một số đặc điểm về thanh niên như sau:
Thứ nhất, thanh niên dù xét bất cứ dưới góc độ nào, phương diện nào
cũng thuộc phạm trù con người, phạm trù xã hội. Họ là một lớp người, một

thế hệ sống trong cộng đồng xã hội với những đặc điểm chung, riêng trong
quan hệ với chính họ, với giai cấp và với xã hội.
Thứ hai, từ góc độ sinh lý lứa tuổi (từ 14, 15 tuổi- 30 tuổi), thanh
niên được coi là một cấp độ phát triển hoàn thiện về mặt thể chất. Sự hoàn
thiện này thể hiện ở tất cả các mặt như; chiều cao, cân nặng, sự phát triển
hoàn thiện của các cơ quan chức năng; hệ cơ, hệ xương, hệ tuần hoàn, hệ
thần kinh, hệ sinh dục v.v. Sự phát triển này là điều kiện để thanh niên tự
khẳng định vai trò, vị trí và trách nhiệm của mình trong xã hội.
17
Thứ ba, từ góc độ tâm lý, thanh niên luôn là những người giàu ước
mơ, hoài bão, đầy lòng nhiệt tình, hăng say, ý chí, nghị lực, luôn có nhu
cầu tìm hiểu, thích khám phá, sáng tạo, giàu óc tưởng tượng, thích giao
tiếp, thích tham gia các hoạt động xã hội, có nhu cầu cao về tình bạn, tình
yêu nam nữ và lập gia đình. Mặt khác, thanh niên ngày nay do điều kiện
sinh hoạt vật chất ngày càng được nâng cao nên con người sinh lý, tố chất
sinh học đã phát triển chín muồi nhưng những phẩm chất xã hội thì chưa
hoàn thiện, chưa ổn định vững vàng. Sự tác động của giáo dục từ gia đình,
nhà trường và xã hội chỉ mới hình thành ở họ khung nhân cách ban đầu. Do
đặc điểm này, bên cạnh những ưu điểm nổi trội trong thanh niên vẫn tiềm
ẩn những hạn chế nhất định, bên cạnh sự dám nghĩ, dám làm là tính bồng
bột thiếu kinh nghiệm, thậm chí cả sự liều lĩnh; giàu ước mơ, hoài bão và
lạc quan nhưng khi gặp thất bại thì hoài nghi, dao động, tự ti và chán nản;
có tính tự lập, tự khẳng định cao nhưng cũng dễ tự cao, tự đại, kiêu ngạo và
nhầm lẫn giữa hiện tượng và bản chất, giữa đúng và sai, thật và giả; họ có
khát vọng về tự do dân chủ nhưng cũng rất dễ có hành vi vô chính phủ, vô
kỷ luật; giàu óc tưởng tượng, nhạy cảm nhưng hay thần tượng hoá, dễ thay
đổi, chính vì vậy mà họ dễ tiếp thu những hệ tư tưởng này hay hệ tư tưởng
khác kể cả tích cực hay tiêu cực. Điều đó cho thấy lứa tuổi thanh niên rất
cần đến những tác động tích cực của xã hội.
Thứ tư, thanh niên là đối tượng có mặt ở tất cả các vùng miền, các

thành phần kinh tế, xã hội. Tuỳ theo môi trường hoạt động và đặc điểm
nghề nghiệp mà thanh niên được phân thành nhiều nhóm khác nhau, các đối
tượng xã hội khác nhau: thanh niên nông thôn, thanh niên công nhân, thanh
niên học sinh - sinh viên, thanh niên trí thức, thanh niên dân tộc, thanh niên
tôn giáo.v.v. Mỗi một nhóm này lại có đặc điểm nhu cầu, sở thích riêng,
nguyện vọng riêng.
18
Ngoài những đặc điểm của thanh niên nói chung, do ảnh hưởng của
điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống lịch sử, văn hoá,
phong tục, tập quán của địa phương, thanh niên Hải Dương còn có những
đặc điểm riêng. Toàn tỉnh Hải Dương hiện nay có gần 57 vạn thanh niên
trong độ tuổi từ 15 đến 35, chiếm 32,1% dân số của tỉnh và trên 51% lực
lượng lao động xã hội [22, tr.1]. Cùng với sự phát triển toàn diện trên các
lĩnh vực kinh tế - xã hội, tình hình thanh niên Hải Dương có những chuyển
biến tích cực về mọi mặt, niềm tin của các tầng lớp thanh niên Hải Dương
vào sự lãnh đạo của Đảng và công cuộc đổi mới đất nước ngày càng được
củng cố vững chắc; thanh niên có lý tưởng, hoài bão, giàu ý chí, nghị lực,
có tinh thần vượt khó vươn lên học tập, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu,
quyết trí lập thân, lập nghiệp, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước. Trong thực tiễn đã và đang xuất
hiện một lớp thanh niên tiên tiến trong học tập, lao động, là niềm tự hòa
của tuổi trẻ Hải Dương.
Một là, thanh niên Hải Dương mang trong mình truyền thống yêu
nước, chống giặc ngoại xâm.
Nằm trên địa bàn quan trọng của Tổ quốc, Hải Dương là vành đai
bảo vệ trực tiếp Thủ đô Hà Nội, là tuyến trong của Thành phố cảng Hải
Phòng, là hậu phương trực tiếp của tỉnh biên giới Quảng Ninh. Trải qua
hơn nửa thế kỷ tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại,
dân tộc ta đã làm nên thiên anh hùng ca, đánh thắng thực dân Pháp và đế

quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Với trách
nhiệm được Trung ương Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh giao phó, Đảng bộ
và nhân dân Hải Dương đã lãnh đạo, tổ chức toàn dân tiến hành hai cuộc
chiến tranh cách mạng ở vùng châu thổ sông Hồng trên một địa bàn có vị
trí chiến lược trong cả nước, được nhân dân đồng tình ủng hộ, đoàn kết một
19
lòng đem hết tinh thần và của cải vào cuộc kháng chiến, kiến quốc. Có thể
nói, cùng với lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Hải Dương
đã sinh ra nhiều người con ưu tú cho quê hương, cho đất nước. Đó là
những vĩ nhân, anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự, nhà ngoại giao kiệt
xuất, danh nhân văn hóa, nhà khoa học, nhà sư phạm, văn nghệ sĩ tài ba
v.v. Cuộc đời và sự nghiệp của các hiền tài làm rạng danh quê hương, đất
nước, góp phần hun đúc nên tâm hồn, trí tuệ và bản sắc của vùng đất xứ
Đông địa linh nhân kiệt.
Thanh niên Hải Dương được sinh ra và lớn lên trong thời bình nhưng
họ được sự giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội nên họ luôn mang
trong mình niềm tự hào về truyền thống quê hương, họ đã và đang phát huy
truyền thống của cha anh và luôn luôn là lực lượng xung kích trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, thanh niên Hải Dương có bản lĩnh chính trị vững vàng luôn
tin vào đường lối lãnh đạo của Đảng.
Thanh niên Hải Dương ngày nay được sinh ra và lớn lên trên đất
nước hòa bình, được hưởng những thành quả đấu tranh và lao động sáng
tạo của các thế hệ cha anh, có nhiều điều kiện tốt để vươn cao và xa hơn,
song điều cốt yếu hiện nay là cần tạo dựng cho thanh niên Hải Dương ý chí
tự lực, tự cường, không cam chịu đói nghèo lạc hậu, dám tự tin vượt qua
mọi khó khăn, thử thách. Và trải qua bao rèn luyện thử thách đã tạo cho
thanh niên Hải Dương những phẩm chất cao quý như: cần cù, sáng tạo,
nhẫn lại, ham học, tiết kiệm, giản dị, nhân hậu, trung thành, dũng cảm v.v.
Những yếu tố đó đã cố kết trong thanh niên của Hải Dương tạo nên sức

mạnh to lớn, vượt qua những trở ngại, thử thách trong lịch sử, hình thành
nên bản lĩnh chính trị, lập trường chính trị vững vàng. Và trong thời kỳ đổi
mới thanh niên Hải Dương rất tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, họ đã
20
trở thành lực lượng to lớn tích cực tham gia vào công cuộc đổi mới, vào sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh và của đất nước.
Ba là, thanh niên Hải Dương có truyền thống hiếu học.
Hải Dương là vùng đất có truyền thống hiếu học từ lâu đời, những giá trị
truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo cũng như ý thức tôn vinh các bậc hiền
tài xưa đã được thể hiện thông qua hệ thống các di tích lịch sử văn hóa gắn liền
với tên tuổi, sự nghiệp các vị danh nhân, khoa bảng có nhiều đóng góp cho sự
nghiệp giáo dục như: Đền thờ Chu Văn An, Làng tiến sĩ Mộ Trạch, Quần thể di
tích Côn Sơn - Kiếp Bạc nơi ghi dấu và tôn thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn với thiên tài chỉ huy quân sự, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi
v.v. Đó là những di sản văn hóa vô cùng quí báu, bằng chứng xác thực về một
vùng đất văn hiến, niềm tự hào của nhân dân tỉnh Đông xưa và Hải Dương
ngày nay. Ngày nay với phương châm nhà nhà khuyến học, người người
khuyến học, truyền thống hiếu học, tinh thần tôn sư trọng đạo cũng như ý thức
tôn vinh các bậc hiền tài ở tỉnh đã không ngừng được duy trì, nuôi dưỡng và kế
thừa trong các thế hệ sau. Nó đã trở thành sợi chỉ đỏ nối liền các thế hệ với
nhau và theo thời gian càng trở nên tươi sắc, gắn kết hơn bởi bề dày các thành
tích trong sự nghiệp Giáo dục- Đào tạo mà các hế hệ sau nối tiếp đạt được.
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất có bề dày truyền thống hiếu học, nhiều thanh
niên Hải Dương đã vượt qua khó khăn, thử thách, vươn lên nắm bắt các tri thức
của thời đại, phục vụ cuộc sống của bản thân, gia đình và đất nước. Họ đã kế
thừa, phát huy và làm rạng danh truyền thống của quê hương, đất nước, trở
thành những tấm gương tiêu biểu cho thế hệ thanh niên trong tỉnh và cả nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị truyền thống tốt đẹp mà thanh niên
Hải Dương đã được kế thừa của ông cha ta để lại, chúng ta đang phải đối
mặt với một thực tế đáng buồn, đó là sự xuống cấp về mặt đạo đức hiện

nay trong đời sống xã hội nói chung và ở thanh niên nói riêng. Những hiện
tượng băng hoại về đạo đức đang là hiện tượng nhức nhối của xã hội chúng

×