Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 95 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ





ĐÀO XUÂN KIÊN



CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY TRỒNG,
VẬT NUÔI ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
HÀNG HÓA Ở CAO BẰNG





LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ





Hà Nội - 2012
2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ




ĐÀO XUÂN KIÊN




CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY TRỒNG,
VẬT NUÔI ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG
HÓA Ở CAO BẰNG

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đào Thị Ngọc Minh






Hà Nội - 2012

4

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA VÀ SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
CÂY TRỒNG, VẬT NUÔI TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
HÀNG HÓA 5
1.1. Nông nghiệp hàng hóa - đặc điểm và tính ưu việt 5
1.1.1. Đặc điểm của nông nghiệp hàng hóa 5
1.1.2. Tính ưu việt của nông nghiệp hàng hóa 8
1.2. Sự biến đổi của cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong quá trình phát triển nông nghiệp
hàng hóa 11
1.2.1. Cơ cấu ngành kinh tế 11
1.2.2. Xu hướng chủ yếu trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông
nghiệp 13
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu ngành kinh tế trong nông
nghiệp 16
1.2.4. Một vài kinh nghiệm của việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng
sản xuất hàng hóa ở nước ta 18
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY TRỒNG, VẬT NUÔI
ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA Ở CAO
BẰNG 20
2.1. Những điều kiện thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng tới phát triển nông nghiệp hàng
hóa và chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở Cao
Bằng 20
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của Cao Bằng không thuận lợi, xa trung tâm
thương mại nên gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng nông sản 20
2.1.2. Chất lượng đất để canh tác ở Cao Bằng không đồng đều 21
5

2.1.3. Nguồn nước dồi dào thuận lợi cho phát triển nông nghiệp 23
2.1.4. Tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp cao nhưng phần lớn là lao động giản
đơn 25

2.1.5. Đường bộ nội tỉnh phát triển chậm, không có đường sắt và cảng biển nên gặp
nhiều khó khăn về vận tải ra ngoài tỉnh 27
2.1.6. Hệ thống thủy lợi được xây dựng nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nông
nghiệp hàng hóa 28
2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở tỉnh Cao Bằng từ năm 2000 đến
nay 29
2.2.1. Diện tích trồng lúa giảm, diện tích nuôi trồng các loại cây, con khác
tăng 29
2.2.2. Trong chăn nuôi đàn trâu giảm, đàn bò, lợn và gia cầm tăng
nhanh 34
2.2.3. Sản lượng và giá trị sản lượng của trồng trọt tăng, chăn nuôi lúc tăng lúc
giảm 38
2.2.4. Kinh tế trang trại phát triển theo chiều hướng tăng cả về số lượng và quy
mô 42
2.2.5. Lâm nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp và có xu
hướng tăng 46
2.2.6. Dịch vụ phục vụ sản xuất chuyển biến tích cực 48
2.2.7. Cơ cấu GDP và cơ cấu lao động theo ngành kinh tế ở Cao Bằng chuyển dịch theo
hướng tiến bộ 50
2.3. Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở tỉnh Cao Bằng trong
những năm qua 51
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY
TRỒNG, VẬT NUÔI ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA Ở CAO
BẰNG 57
6

3.1. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở Cao Bằng trong thời gian
tới 57
3.1.1. Thâm canh tăng năng suất cây trồng để giảm diện tích cây lúa chuyển sang cây,
con có giá trị cao 58

3.1.2. Coi trọng các cây hoa màu, rau, quả và cây công nghiệp ngắn ngày…… 59
3.1.3. Chuyển cơ cấu vật nuôi theo hướng tăng đàn trâu, bò, lợn, gia cầm và đẩy mạnh
nuôi trồng thủy sản 61
3.1.4. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng lâm nghiệp, mở rộng diện tích vùng nguyên liệu
cung cấp cho các cơ sở chế biến 63
3.1.5. Xây dựng và phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung 65
3.2. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để phát triển
nông nghiệp hàng hóa ở Cao Bằng 66
3.2.1. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, nghiên cứu giống cây trồng, vật nuôi
tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả cao 66
3.2.2. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản 67
3.2.3. Thực hiện dồn điền, đổi thửa, hợp tác sản xuất, phát triển kinh tế trang
trại 69
3.2.4. Xây dựng chính sách thu hút vốn vào nông nghiệp 69
3.2.5. Xây dựng hệ thống bảo quản, chế biến, đảm bảo sự đồng bộ giữa các nhà máy,
vùng nguyên liệu để tiết kiệm chi phí vận chuyển, giảm tỷ lệ hao hụt 70
3.2.6. Xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật và kết cấu hạ tầng phục vụ nông
nghiệp 70
3.2.7. Đẩy mạnh việc đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, gắn đào tạo với
sử dụng nguồn nhân lực 72
KẾT LUẬN 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
PHỤ LỤC 82
7


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Lưu lượng nước đo được qua các tháng trong năm 2010 24
Bảng 2.1: Lực lượng lao động theo trình độ đào tạo năm 2010 trong lĩnh vực nông - lâm
nghiệp - thủy sản 26

Bảng 2.3: Sự thay đổi diện tích các loại cây trồng và diện tích nuôi thủy sản 30
Bảng 2.4: Sản lượng trâu, bò, lợn, gia cầm từ 2001 - 2010 34
Bảng 2.5: Sản lượng và giá trị sản lượng trồng trọt và chăn nuôi 38
Bảng 2.6: Cơ cấu trang trại ở Cao Bằng qua các năm 2001, 2006, 2010 42
Bảng 2.7: Giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ trang trại các năm 2001, 2006,
2010 43
Bảng 2.8: Cơ cấu GDP và cơ cấu lao động theo ngành ở tỉnh Cao Bằng các năm 2001,
2005, 2010 50

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Sự thay đổi diện tích các loại cây trồng và diện tích nuôi thủy
sản 31
Biểu đồ 2.2: Sản lượng trâu, bò, lợn và gia cầm từ 2001 - 2010 35
Biểu đồ 2.3: Sản lượng trồng trọt và chăn nuôi 39
Biểu đồ 2.4: Giá trị sản lượng trồng trọt và chăn nuôi 39
Biểu đồ 2.5: Giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ trang trại các năm 2001, 2006,
2010 44
8

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nông nghiệp giữ một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Đặc biệt với Việt Nam, từ lâu nông nghiệp đã trở thành một thế mạnh và là chỗ dựa
vững chắc để đất nước có thể vượt qua những khó khăn, thử thách để xây dựng đất nước
ngày càng giàu mạnh.
Trong những năm đổi mới vừa qua, sản xuất nông nghiệp trong nước đã đạt được
những thành tựu to lớn. Không những cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm cho con
người, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm mà còn sản xuất ra những mặt hàng có

giá trị xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Hiện tại cũng như trong tương lai, nông
nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước, không ngành nào có
thể thay thế được.
Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc cần
được tháo gỡ, đặc biệt là trong bối cảnh suy giảm kinh tế hiện nay. Đó là thị trường hàng
hóa bị thu hẹp, sản xuất nông nghiệp còn manh mún chưa tập trung, trình độ phát triển
nông nghiệp còn lạc hậu, hiệu quả còn chưa cao, thiếu đồng đều giữa các vùng miền…
Cao Bằng là một tỉnh miền núi nằm ở phía Đông Bắc nước ta, có diện tích đất tự
nhiên 6.690,72 km
2
, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, đặc biệt là về trồng trọt và chăn
nuôi. Tính đến năm 2010, giá trị sản xuất nông nghiệp của tỉnh đạt 734 tỷ đồng (giá so
sánh năm 1994); giá trị sản xuất trên 1 ha đất nông nghiệp đạt 20 triệu đồng; tổng sản
lượng lương thực có hạt đạt trên 240.000 tấn (tăng bình quân 4.600 tấn/năm); tỷ trọng
nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế chiếm 33,2%; độ che phủ rừng đạt 52%; xây dựng
được một số vùng nguyên liệu tập trung phục vụ công nghiệp chế biến nhằm thúc đẩy
sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chuyển đổi kinh tế nông nghiệp - nông
9

thôn; đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, từng bước cải thiện đời sống của nhân
dân. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp của tỉnh còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, trình
độ canh tác lạc hậu, nhỏ lẻ, manh mún, chưa chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa gắn
với thị trường, chưa thật sự đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên năng suất lao động
thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp còn thấp, đời
sống của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn.
Nhằm góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đòi hỏi nông nghiệp nói chung và nông nghiệp của tỉnh Cao Bằng nói riêng phải có
sự chuyển biến mạnh mẽ, phát huy những thế mạnh nhằm đạt được năng suất, chất
lượng, hiệu quả cao. Vì vậy, tác giả đã chọn “Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi

để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Cao Bằng” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc
sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề nông nghiệp nói chung và chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để phát
triển hàng hóa nông nghiệp nói riêng là chủ đề được Đảng, Nhà nước và nhiều người
quan tâm nghiên cứu và đã có rất nhiều công trình được công bố, xuất bản như:
- Lê Quốc Sử (Chủ biên) - “Chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh
tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ thế kỷ XX đến
thế kỷ XXI”, NXB Thống Kê - 2001.
- Luận án Tiến sĩ - Nguyễn Đăng Bằng - “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Bắc Trung Bộ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa”, Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh - 2001.
- Luận án tiến sĩ - Phạm Ngọc Dũng - “Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp ở vùng lãnh thổ đồng bằng Sông Hồng - thực trạng và giải pháp”, Học viện chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh - 2002.
10

- Luận văn thạc sỹ - Hà Tiến Thăng “ Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để
phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Thái Bình”, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
- 2006.
- Nguyễn Sinh Cúc - “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn sau 2
năm thực hiện nghị quyết TW5”, Con số và sự kiện số tháng 6 - 2004.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ những đặc điểm, vai trò,
thực trạng và giải pháp của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Nhưng cho
đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Cao Bằng.
Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã được công bố, luận văn
này góp phần làm sáng tỏ hơn quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để phát
triển nông nghiệp hàng hóa ở Cao Bằng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về sự biến đổi cơ cấu kinh tế ngành trong nông
nghiệp hàng hóa và khảo sát thực trạng biến đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi của tỉnh Cao
Bằng, luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp để đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu cây trồng, vật nuôi nhằm phát triển nông nghiệp hàng hóa của tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Nghiên cứu lý luận về chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp.
- Khảo sát thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp ở
tỉnh Cao Bằng.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, vật nuôi trong nông nghiệp của tỉnh thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chủ yếu sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi của tỉnh
Cao Bằng từ năm 2000 cho đến nay.
11

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn dựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển nông
nghiệp để nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng các phương pháp của khoa học kinh tế chính trị Mác - Lênin kết
hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra.
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận và thực tiễn của sự chuyển
dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Cao Bằng.
- Luận văn thành công sẽ cung cấp thêm nguồn tư liệu tham khảo cho việc hoạch
định chính sách và chỉ đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để phát triển
nông nghiệp hàng hóa ở Cao Bằng.

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương và 7 tiết.
Chương 1: Nông nghiệp hàng hóa và sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi
trong quá trình phát triển nông nghiệp hàng hóa
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để phát triển nông
nghiệp hàng hóa ở Cao Bằng
Chương 3: Phương hướng, giải pháp chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi để
phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Cao Bằng




12


Chƣơng 1
NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA VÀ SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY
TRỒNG, VẬT NUÔI TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
HÀNG HÓA
1.1. Nông nghiệp hàng hóa - Đặc điểm và tính ƣu việt
1.1.1. Đặc điểm của nông nghiệp hàng hóa
Nền kinh tế nông nghiệp mang tính chất tự cung tự cấp do những đơn vị kinh tế
thuần nhất hợp thành, mỗi đơn vị ấy làm đủ mọi công việc kinh tế, từ trồng trọt, chăn
nuôi đến chế biến những nguyên liệu thành sản phẩm tiêu dùng. V.I.Lênin đã chỉ rõ:
“Nhân khẩu của một nước mà kinh tế hàng hóa ít phát triển (hoặc hoàn toàn không phát
triển) thì hầu như hoàn toàn chỉ là nhân khẩu nông nghiệp; tuy nhiên, điều đó không có
nghĩa là dân cư chỉ chuyên làm nghề nông, mà chỉ có nghĩa là dân cư làm nghề nông đã
tự mình chế biến lấy nông sản, là trong dân cư đó sự trao đổi và sự phân công hầu như
không có”[26, tr.25].

Trong nền nông nghiệp ấy những người nông dân phải sống hoàn toàn độc lập với
thế giới ngoài làng xóm của mình. Sản xuất nông nghiệp gắn với chế độ kinh tế dựa trên
lao dịch và kinh tế nông dân gia trưởng, đều dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công, lạc hậu,
năng suất lao động rất thấp.
Dần dần năng suất lao động tăng lên, xuất hiện sản phẩm thừa và do những điều
kiện tự nhiên, truyền thống sản xuất khác nhau dẫn tới cần trao đổi những sản phẩm thừa
với nhau. Trao đổi tác động trở lại sản xuất, thúc đẩy phân công lao đông xã hội và
chuyên môn hóa lao động. Do phân công xã hội phát triển, mỗi người lao động chỉ
chuyên sản xuất một hoặc vài loại sản phẩm và cung cấp loại sản phẩm đó ra thị trường,
đồng thời họ có nhu cầu về những loại sản phẩm khác, gồm cả nhu cầu về tư liệu sản
xuất, nên thúc đẩy lưu thông hàng hóa phát triển và mở rộng thị trường. Lênin đã nhấn
13

mạnh: “Khái niệm “thị trường” hoàn toàn không thể tách rời khái niệm phân công xã
hội, sự phân công này là cơ sở chung của mọi nền sản xuất hàng hóa Một động tác nào
đó trong quá trình lao động, hôm qua còn là một trong rất nhiều chức năng của cùng một
người sản xuất hàng hóa, thì hôm nay đã tách ra khỏi quá trình đó, đứng riêng ra, và
chính vì vậy mà đem được cái sản phẩm bộ phận của nó ra thị trường làm một hàng hóa
độc lập”[25, tr. 114- 115].
Như vậy, sự phân công lao động xã hội tách nền sản xuất nói chung, nông nghiệp
nói riêng, thành những ngành riêng biệt, mỗi ngành đó lại chia thành nhiều ngành nhỏ và
phân ngành nhỏ; chúng sản xuất ra, dưới hình thức hàng hóa, những sản phẩm riêng và
đem trao đổi với nhau. Phân công lao động xã hội càng sâu rộng thì sự phân chia ngành
nghề càng chi tiết. Xu hướng của sự phát triển này là nhằm biến việc sản xuất không
những thành từng phần riêng, mà cả việc sản xuất từng bộ phận riêng của sản phẩm,
thậm chí cả từng thao tác trong việc chế biến sản phẩm, thành một ngành riêng biệt.
Từ những điểm trên đây có thể rút ra đặc điểm cơ bản của sản xuất hàng hóa nói
chung và nông nghiệp hàng hóa nói riêng là:
Thứ nhất, hình thành những đơn vị kinh tế không thuần nhất, số lượng những đơn
vị kinh tế thực hiện một chức năng kinh tế giống nhau giảm xuống, số lượng những

ngành kinh tế riêng biệt tăng lên.
Công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp, sản xuất và trao đổi hàng hóa trở thành phổ
biến, các ngành kinh tế mới trong nội bộ nông nghiệp mới có điều kiện phát triển mạnh,
thị trường từng bước được mở rộng đưa đến chỗ ngày càng tăng thêm những ngành công
nghiệp riêng biệt tách khỏi nông nghiệp. Xu hướng phát triển này không những biến việc
sản xuất mang tính chuyên biệt tạo ra từng sản phẩm riêng mà còn sản xuất bộ phận
riêng của sản phẩm, thậm chí cả từng thao tác trong việc chế biến sản phẩm thành một
ngành công nghiệp hoặc dịch vụ riêng. Quá trình này cũng diễn ra trong nội bộ ngành
nông nghiệp làm nảy sinh những khu vực nông nghiệp chuyên môn hóa, dẫn đến sự trao
14

đổi sản phẩm nông nghiệp lấy sản phẩm công nghiệp, giữa sản phẩm nông nghiệp với
nhau.
Thứ hai, sự phân công xã hội ngày càng phát triển dẫn đến sự ra đời của thương
nghiệp. Lúc đầu thương nghiệp chỉ đón những sản phẩm thừa ra, về sau nó tác động vào
nền sản xuất, hướng sản xuất vốn nhằm vào nhu cầu tiêu dùng trực tiếp chuyển sang sản
xuất nhằm vào thị trường và từng bước sát nhập lưu thông thành một khâu của quá trình
tái sản xuất và thị trường ngày càng mở rộng. Sự phát triển của sản xuất hàng hóa sẽ
chấm dứt tình trạng phân tán của những đơn vị kinh tế nhỏ (trong kinh tế tự nhiên) và sẽ
tập hợp các thị trường nhỏ địa phương thành một thị trường lớn trong toàn quốc và sau
đó trên toàn thế giới.
Theo tiến độ đó xu hướng phát triển tất yếu của sản xuất xã hội là kinh tế tự nhiên
sẽ chuyển thành kinh tế hàng hóa, các ngành kinh tế chuyên môn hóa gắn bó mật thiết
với nhau hơn.
Kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế dựa trên cở sở phân công lao động xã hội,
trong đó sản phẩm làm ra nhằm để trao đổi, hay để bán trên thị trường. Hễ ở đâu và khi
nào có phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa thì ở đó và khi ấy có thị trường.
Quy mô của thị trường phù hợp với trình độ chuyên môn hóa của lao động xã hội.
Nhưng không phải hễ có thị trường là có kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là trình độ
phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó toàn bộ hoặc tuyệt đại bộ phận các yếu tố “

đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. So sánh người Phéc-mi-ê tư
bản chủ nghĩa và người tiểu nông, Mác chỉ rõ “Người Phéc-mi-ê bán toàn bộ sản phẩm
của mình, và vì vậy trên thị trường phải hoàn lại tất cả các yếu tố sản xuất của anh ta,
cho đến cả hạt giống nữa; còn người tiểu nông thì tiêu dùng trực tiếp đại bộ phận sản
phẩm của mình, anh ta mua và bán càng ít càng tốt, và trong chừng mực có thể anh ta
còn tự chế tạo lấy công cụ lao động, quần áo v.v…”[30, tr. 176].
Kinh tế hàng hóa thúc đẩy việc tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng quy mô sản
xuất. Thúc đẩy việc không ngừng cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức
15

để vừa nâng cao năng xuất, chất lượng sản phẩm; vừa giảm chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm. Sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, công
nghệ vào sản xuất, làm cho năng suất lao động cá nhân và xã hội tăng dần, cải tạo
phương pháp, tập quán sản xuất, làm cho sản phẩm làm ra được dồi dào, phong phú và
đa dạng. Tiến bộ kỹ thuật áp dụng vào sản xuất sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội,
phát triển ngành nghề, chuyên môn hóa sản xuất… từ đó thúc đẩy việc trao đổi hàng hóa,
mở rộng thị trường.
Kinh tế hàng hóa phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi
đơn vị kinh tế; tạo điều kiện cho sự phát triển tự do, toàn diện của cá nhân; tạo ra cơ chế
phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội. Kinh tế hàng hóa phát triển sẽ thúc đẩy và
mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương trong cả nước và giữa các quốc
gia trên thế giới trên cở sở tôn trọng, hợp tác lẫn nhau và cùng phát triển.
1.1.2. Tính ưu việt của nông nghiệp hàng hóa
Nông nghiệp hàng hóa (và kinh tế hàng hóa nói chung) có những ưu điểm sau:
Một là, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh, không ngừng tăng năng suất
lao động. Nền nông nghiệp tự nhiên chỉ hướng vào giá trị sử dụng nhằm đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng trực tiếp của chính người sản xuất, không trao đổi sản phẩm, nên thiếu
động lực kích thích lực lượng sản xuất phát triển. Trái lại, trong kinh tế hàng hóa, muốn
bán được sản phẩm trên thị trường người sản xuất phải quan tâm đến nhu cầu và thị hiếu
của người mua, phải ra sức ứng dụng kỹ thuật mới để nâng cao chất lượng và hạ giá

thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa của mình nhằm thu được lợi
nhuận siêu ngạch và đứng vững trên thị trường, do đó mà năng suất lao động không
ngừng tăng lên, quy mô sản xuất và lưu thông hàng hóa ngày càng mở rộng. So sánh
kinh tế tự nhiên với kinh tế tư bản chủ nghĩa V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Quy luật của những
phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản là tái diễn quá trình sản xuất theo một quy
mô như cũ, trên một cơ sở kỹ thuật như cũ: kinh tế diêu dịch của địa chủ, kinh tế tự
nhiên của nông dân, sản xuất thủ công của những người làm công nghiệp đều như thế cả.
16

Trái lại, quy luật của sản xuất tư bản chủ nghĩa là không ngừng cải tạo phương thức sản
xuất và mở rộng vô hạn độ quy mô sản xuất. Với những phương thức sản xuất cũ thì các
đơn vị kinh tế có thể tồn tại hàng thế kỷ mà không hề thay đổi tính chất và phạm vi,
không hề vượt ra ngoài giới hạn của lãnh địa địa chủ, của xóm làng hay của cái chợ lân
cận nhỏ bé dành cho những thợ thủ công nông thôn và những người tiểu chủ (gọi là thợ
thủ công làm ở nhà). Trái lại, xí nghiệp tư bản chủ nghĩa thì tất nhiên là vượt ra ngoài
giới hạn của làng xã, của cái chợ địa phương, của từng vùng rồi vượt ra ngoài cả giới hạn
quốc gia nữa”[26, tr. 62- 63].
Nông nghiệp hàng hóa phát triển tất yếu sẽ ra đời các trang trại lớn, các vùng
chuyên canh sản xuất những khối lượng nông sản hàng hóa lớn, không những đáp ứng
nhu cầu của thị trường trong nước mà còn tăng xuất khẩu.
Hai là, nông nghiệp hàng hóa đẩy mạnh quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất.
Lao động sản xuất hàng hóa mang tính chất hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu
tượng. Lao động cụ thể mang tính chất tư nhân, vì chọn nghề gì, sản xuất mặt hàng gì là
quyền của mỗi người lao động, của mỗi đơn vị kinh tế. Nhưng mỗi lao động cụ thể, tư
nhân đó lại là một bộ phận của lao động xã hội mà sản phẩm là hàng hóa nhằm đáp ứng
nhu cầu của người khác, chứ không phải đáp ứng nhu cầu của bản thân người sản xuất,
tức là đáp ứng nhu cầu của xã hội. Sản xuất hàng hóa lôi cuốn những người sản xuất
riêng lẻ hay những đơn vị sản xuất tự chủ, độc lập vào một hệ thống phân công lao động
xã hội. Chỉ khi bán được hàng hóa thì lao động tư nhân, độc lập mới được xã hội thừa
nhận, và mâu thuẫn giữa lao động tư nhân với lao động xã hội mới được giải quyết, sản

xuất và lưu thông hàng hóa mới diễn ra trôi chảy.
Tính chất xã hội hóa trong nông nghiệp hàng hóa thể hiện ở chỗ: 1) Sản xuất cho
mình biến thàng sản xuất cho xã hội; 2) Thay vào tình trạng phân tán, manh mún trước
kia, đã hình thành sự tập trung sản xuất chưa từng thấy, cả trong nông nghiệp và trong
công nghiệp; 3) Diễn ra tình trạng lưu động dân cư, chuyển bớt lao động từ trồng cây
lương thực sang trồng các loại cây khác hay chăn nuôi, rút bớt lao động trực tiếp làm
17

nông nghiệp sang làm công nghiệp chế biến hay dịch vụ; 4) Làm thay đổi bộ mặt tinh
thần của dân cư nông thôn, thay đổi ngay cả tính chất của những người sản xuất.
Ba là, nông nghiệp hàng hóa thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, thúc
đẩy mở rộng thị trường hàng tiêu dùng, thị trường lao động và thị trường tư liệu sản
xuất. Những người làm ăn giỏi sẽ thu được nhiều lợi nhuận, cho phép tích tụ vốn, mở
rộng quy mô kinh tế hộ gia đình thành kinh tế trang trại chuyên doanh hoặc kinh doanh
tổng hợp.
Đồng thời quá trình cạnh tranh dẫn tới tập trung sản xuất, những đơn vị đạt hiệu
quả kinh tế cao sẽ tăng quy mô ngày càng lớn, loại bỏ những đơn vị yếu kém, những đơn
vị này sẽ bị phá sản, bị những doanh nghiệp thắng cuộc thôn tính hoặc phải liên hiệp với
nhau thành những doanh nghiệp lớn để tồn tại và đứng vững trên thị trường. Những
người bị phá sản sẽ trở thành người làm thuê, thành người bán sức lao động, tạo điều
kiện cho sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp. Điều quan trọng đối
với kinh tế hàng hóa không phải là mức sinh hoạt của người sản xuất mà là khoản thu
nhập bằng tiền của họ. Người làm thuê trong nông nghiệp có thể có mức sống thấp hơn
trước đây nhưng lại phải dùng tiền công mua tư liệu sinh hoạt nhiều hơn trước, nên lại
làm cho thị trường mở rộng hơn. Mặt khác những người giàu lên, không những tiêu dùng
nhiều hơn mà còn phải thuê nhiều công nhân và mua nhiều tư liệu sản xuất hơn, nên mở
rộng thị trường hàng tiêu dùng, cả thị trường lao động và thị trường tư liệu sản xuất.
Khi kinh tế thị trường phát triển, cạnh tranh gay gắt, thì những đơn vị kinh tế quy
mô nhỏ, canh tác trên những mảnh đất nhỏ sẽ lâm vào tình trạng suy đồi. Các xí nghiệp
chế biến nông sản đòi hỏi khối lượng nguyên liệu lớn với chất lượng theo những tiêu

chuẩn nhất định và gạt ra khỏi thị trường những người sản xuất nhỏ không đảm bảo dược
những tiêu chuẩn trên, đồng thời người ta quy định giá nông sản theo chất lượng của nó.
Khi nói về các kho chứa ngũ cốc thúc đẩy mạnh mẽ việc sản xuất lúa mì hàng hóa và đẩy
nhanh sự phát triển kỹ thuật của nó bằng cách cũng quy định giá cả chất lượng,
V.I.Lênin viết: “Những chế độ đó đánh vào người sản xuất nhỏ hai vố một lúc. Một là,
18

những cơ quan đó quy định tiêu chuẩn, công nhận chất lượng tốt của lúa mì của những
nhà sản xuất lớn và do đó làm cho lúa mì chất lượng kém của nông dân nghèo hoàn toàn
bị giảm giá. Hai là, bằng cách tổ chức theo kiểu công nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa việc
phân loại và cất chứa ngũ cốc, các chế độ đó giảm bớt chi phí của người sản xuất lớn về
ngũ cốc, làm cho người sản xuất lớn bán lúa mì của họ được dễ dàng và đơn giản, và do
đó làm cho người sản xuất nhỏ với lối bán lúa thành từng bao, theo lối gia trưởng và thô
sơ trên thị trường, phải hoàn toàn phụ thuộc vào bọn cu - lắc và bọn cho vay nặng
lãi”[26, tr.330].
1.2. Sự biến đổi của cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong quá trình phát triển
nông nghiệp hàng hóa
1.2.1. Cơ cấu ngành kinh tế
Phân công lao động xã hội dẫn đến phân chia nền sản xuất xã hội thành những
ngành lớn như nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, mỗi ngành lớn lại chia thành những
phân ngành, và mỗi phân ngành lại chia thành những ngành nhỏ hơn. Sản phẩm của các
ngành đã phân chia ra như vậy được trao đổi lẫn cho nhau, không những trao đổi sản
phẩm nông nghiệp lấy sản phẩm công nghiệp mà còn trao đổi các sản phẩm nông nghiệp
với nhau trên thị trường ngày càng mở rộng. V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “Giới hạn phát
triển của thị trường trong xã hội tư bản chủ nghĩa là do giới hạn chuyên môn hóa lao
động xã hội quyết định. Mà sự chuyên môn hóa đó, xét về bản chất của nó, là vô cùng
tận, cũng như sự tiến bộ kỹ thuật vậy”[ 25, tr. 115].
Giữa các ngành nói trên có mối quan hệ với nhau hình thành cơ cấu ngành kinh tế.
Một nền kinh tế lành mạnh, có nhịp độ tăng trưởng ổn định phải có một cơ cấu phù hợp.
Đó là cơ cấu đảm bảo được sự hài hòa giữa các yếu tố (bộ phận) thành một hệ thống.

Mối quan hệ giữa các bộ phận với hệ thống được đo lường bằng tỷ trọng của mỗi bộ
phận đó trong từng phân ngành, trong từng ngành hay trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Trong nội bộ ngành nông nghiệp gồm có trồng trọt và chăn nuôi, trong trồng trọt lại
có trồng cây lương thực, trồng cây công nghiệp, trồng cây ăn quả, trông rau, trồng hoa,
19

trồng cỏ… Trong trồng cây lương thực có trồng lúa, trồng màu, trong trồng màu lại gồm
khoai, ngô, sắn… Trong ngành chăn nuôi cũng phân chia thành chăn nuôi gia cầm, chăn
nuôi gia súc, nuôi thủy sản v.v… Chăn nuôi gia súc gồm nuôi trâu, nuôi bò, nuôi cừu,
nuôi dê… Nuôi bò lại có nuôi bò lấy sữa, nuôi bò lấy thịt…
Từ sự phân tích trên, chúng ta có định nghĩa về cơ cấu kinh tế ngành như sau: Cơ
cấu ngành kinh tế là tổ hợp các nhóm ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện
mối quan hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh
trình độ phân công lao động và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của nền kinh tế.
Hiện nay cơ cấu ngành kinh tế được phân theo ba nhóm chủ yếu sau:
+ Nhóm ngành nông nghiệp: Gồm nông, lâm, ngư nghiệp.
+ Nhóm ngành công nghiệp: Gồm công nghiệp và xây dựng.
+ Nhóm ngành dịch vụ: Gồm thương mại và dịch vụ.
Để hiểu rõ cơ cấu ngành kinh tế nói chung và cơ cấu ngành trong kinh tế nông
nghiệp nói riêng người ta sử dụng nhiều chỉ tiêu đo lường khác nhau, như cơ cấu diện
tích các loại cây trồng; cơ cấu về hiện vật và giá trị sản phẩm chủ yếu; cơ cấu lợi nhuận
và thu nhập, cơ cấu lao động v.v…
* Cơ cấu cây trồng, vật nuôi:
Cơ cấu cây trồng, vật nuôi là thành phần các giống và loại cây, con được bố trí
theo không gian và thời gian trong hệ sinh thái nông nghiệp nhằm tận dụng hợp lý các
nguồn lợi về tự nhiên, kinh tế - xã hội sẵn có của vùng. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi là một
phận của cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nó còn là một nội dung chủ yếu của hệ thống canh
tác nông nghiệp. Cơ cấu cây trồng còn được hình thành từ nhiều nhóm cây khác nhau
như: Nhóm cây lương thực (lúa, hoa màu), cây nông nghiệp ngắn ngày (khoai, lạc, mía,
đậu) và cây công nghiệp dài ngày (cao su, điều…). Cơ cấu con vật nuôi được hình thành

từ nhiều nhóm con khác nhau như: Đại gia súc (trâu, bò, ngựa), gia súc (lợn, dê), gia
cầm, thủy cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng) và con đặc sản (tôm, cua, ốc, ếch, ba ba…).
20

Định nghĩa chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi tập trung vào chuyển đổi từ cây
trồng có giá trị kinh tế thấp sang giá trị kinh tế cao hơn, sang chăn nuôi, nuôi trồng thủy
sản, mặc dù cây có giá trị thấp đôi khi được xác định bằng giá trị của nó trên một đơn vị
trọng lượng, tuy nhiên hợp lý hơn cả có thể xác định đó là những cây trồng mang lại lợi
ích kinh tế trên một đơn vị ruộng đất hay lao động cao.
Như vậy, có thể hiểu: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi là chuyển từ trạng
thái cây trồng, vật nuôi cũ sang trạng thái cây trồng, vật nuôi mới để nâng cao năng suất
lao động và hiệu quả kinh tế, phát triển những cây trồng, vật nuôi có triển vọng trên thị
trường, có giá trị gia tăng cao.
Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phải gắn liền với thị trường tiêu thụ và
chế biến. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng được hiểu là sự thay đổi mối quan
hệ số lượng vật nuôi, sự thay đổi diện tích, phần trăm tỷ trọng cơ cấu, sự thay đổi về giá
trị sản xuất và giá trị gia tăng của toàn ngành dưới sự tác động của điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội, môi trường và con người.
1.2.2. Xu hướng chủ yếu trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy quá trình biến đổi cơ
cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Sự tăng năng suất lao động trước hết là
nông nghiệp đã tạo tiền đề vật chất cho chuyển dịch nông nghiệp thuần nông tự cấp, tự
túc, năng suất lao động thấp sang nền nông nghiệp năng suất cao. Nó có vai trò quyết
định đối với việc thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Thực chất
của nó là phát triển nông nghiệp từ chiều rộng, hiệu quả thấp sang phát triển sản xuất
nông nghiệp theo chiều sâu, hiệu quả cao. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp diễn ra tùy tình hình cụ thể của từng vùng, từng nước, nhưng theo đà phát triển
của nông nghiệp hàng hóa, xu hướng chủ yếu nói chung trong chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế diễn ra như sau:
Thứ nhất, tỷ trọng lao động và giá trị sản lượng nông nghiệp ngày càng giảm, lao

động nông nghiệp được rút bớt để chuyển sang công nghiệp và dịch vụ.
21

Cơ cấu ngành nông nghiệp biến đổi phải nằm trong xu hướng phát triển kinh tế
nông thôn tổng hợp bao gồm cả công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Phân công lao động ở nông thôn diễn ra theo hướng giảm lao động trồng lúa
chuyển sang trồng các cây khác và phát triển chăn nuôi, mở rộng ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ, với việc mở rộng lao động ra thành thị phục vụ cho nhu cầu phát
triển công nghiệp, thương nghiệp và các dịch vụ khác.
Nếu nông nghiệp không gắn với công nghiệp chế biến và dịch vụ sẽ kém hiệu quả.
Thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi dẫn đến tăng sản lượng mà không
có công nghiệp chế biến và dịch vụ tiêu thụ hàng hóa thì dẫn đến thua lỗ, hàng nông sản
ế thừa, hư hỏng. Phải kết hợp liên hoàn giữa các khâu từ sản xuất, chế biến, bảo quản và
tiêu thụ (trên thị trường trong nước và ngoài nước) để giảm tỷ lệ hao hụt, tăng doanh thu,
tăng lợi nhuận.
Các dịch vụ nông thôn như khâu tưới tiêu, khâu làm đất, khâu cung ứng vốn, cung
cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra cho nông nghiệp, các dịch vụ cho sinh hoạt như cung cấp
hàng tiêu dùng; cũng là nhân tố thúc đẩy chuyển dịch ngành nông nghiệp hợp lý. Sự biến
đổi cơ cấu ngành công - nông nghiệp - dịch vụ là xu hướng tất yếu của phân công lao
động xã hội, dẫn đến tăng năng suất lao động nông nghiệp, tạo điều kiện rút bớt lao động
khỏi lĩnh vực nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Đây là vấn đề cấp thiết
và nan giải nhất của nước ta hiện nay.
Thứ hai, tỷ trọng giá trị sản phẩm trồng trọt giảm xuống và tỷ trọng giá trị sản
phẩm chăn nuôi tăng lên.
Tình trạng độc canh là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ, tự cấp. Chuyển nền nông
nghiệp độc canh sang đa canh, phát triển toàn diện phù hợp với hệ sinh thái, liên kết, bổ
sung cho nhau sẽ tạo ra được một nền nông nghiệp hàng hóa phát triển bền vững. Việc
hình thành một cơ cấu ngành nông nghiệp hợp lý cho phép khai thác tốt nhất các nguồn
lực tạo ra sức bật mới trong nông thôn. Xu hướng chung là phải phát triển cả nông
nghiệp (theo nghĩa hẹp), lâm nghiệp, ngư nghiệp; phải phát triển cả trồng trọt và chăn

22

nuôi, đưa chăn nuôi trở thành một ngành sản xuất chính. Sản xuất thức ăn gia súc, chăn
nuôi phát triển nhanh hơn và tỷ trọng của nó lớn dần lên và đến mức lớn hơn tỷ trọng
trồng trọt để đáp ứng nhu cầu ăn ngày càng ngon và đủ dinh dưỡng của con người và
cũng tương ứng với nhu cầu ngày càng cao của ngành chăn nuôi về kỹ thuật và vốn đầu
tư.
Ứng dụng công nghệ sinh học lựa chọn một cơ cấu cây trồng, vật nuôi đa dạng,
thích hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết của từng vùng nhằm đạt được một
năng suất, hiệu quả cao nhất trên một đơn vị diện tích.
Thứ ba, tỷ trọng giá trị sản lượng lương thực giảm (nhưng sản lượng tuyệt đối thì
tăng lên do năng suất lao động cây trồng tăng cao); tỷ trọng các loại cây công nghiệp và
rau quả tăng lên.
Trong xu hướng toàn cầu hóa nước ta chủ động hội nhập vào các tổ chức kinh tế
và đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), thì hàng
hóa nói chung và hàng hóa nông sản nói riêng sẽ phải cạnh tranh với các nước khác
không chỉ trên thị trường ngoài nước mà cả thị trường trong nước. Bởi vậy, phải giảm
dần các cây, con cho năng suất và hiệu quả kinh tế thấp, tăng dần sản lượng cây, con có
giá trị gia tăng cao, có thị trường tiêu thụ và có sức cạnh tranh mạnh mẽ, xu hướng
chung ở nước ta hiện nay là giảm tỷ trọng cây lương thực tăng giá trị cây thực phẩm, cây
ăn quả, cây công nghiệp; giảm tỷ trọng và giá trị sản phẩm thô, tăng tỷ trọng giá trị sản
phẩm chế biến… trong tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Điều đó cho phép khai thác
tiềm năng và lợi thế các vùng khác nhau, kết hợp hợp lý nông - lâm - ngư nghiệp đem lại
hiệu quả kinh tế cao hơn. Trên cơ sở phát triển cây lương thực, việc sản xuất các loại rau
đậu các cấp, cây ăn quả và cây công nghiệp được phát triển và trở thành ngành nông
nghiệp hàng hóa, trong đó có loại sản phẩm trở thành ngành nông nghiệp hàng xuất khẩu
quan trọng. Tỷ trọng các ngành đó không ngừng lớn lên, còn tỷ trọng giá trị sản lượng
lương thực thì giảm tương ứng.
23


Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp ở nước ta hiện nay là từ
nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, còn mang nặng tính tự cấp, tự túc sang nền kinh tế
hàng hóa; chuyển từ nền kinh tế có công nghệ lạc hậu sang nền nền kinh tế nông nghiệp
hiện đại, áp dụng công nghệ tiên tiến, hướng về xuất khẩu và chủ động hội nhập, hợp tác
quốc tế.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu ngành kinh tế trong nông nghiệp
Cơ cấu ngành kinh tế trong nông nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong
đó có những nhân tố chủ yếu sau:
Một là, năng suất lao động trong nông nghiệp, nhất là năng suất lao động trong
trồng cây lương thực
Trừ trường hợp đặc biệt có những nước không trồng được cây lương thực mà phải
nhập khẩu, còn nói chung, tính quy luật là năng suất lao động nông nghiệp, mà trước hết
là năng suất lao động trong trồng cây lương thực phải đạt tới một mức nhất định sao cho
người sản xuất trực tiếp có thể thực hiện được lao động thặng dư thì mới có thể rút lao
động đi trồng các cây khác, sang chăn nuôi và ra khỏi nông nghiệp. C.Mác đã chỉ rõ:
“Suy rộng ra nữa, toàn bộ lao động nông nghiệp - lao động cần thiết và lao động thặng
dư - của một bộ phận xã hội phải đủ để sản suất ra tư liệu sinh hoạt cần thiết cho toàn thể
xã hội và do đó, cho cả những người lao động phi nông nghiệp; do đó, để có sự phân
công lớn giữa người làm nông nghiệp và những người làm công nghiệp, cũng như sự
phân công giữa những người làm nông nghiệp sản suất lương thực và những người làm
sản suất nông nghiệp nguyên liệu, có thể thực hiện được. Như vậy, mặc dù đối với bản
thân những người sản suất trực tiếp ra lương thực, lao động của họ cũng chia ra thành lao
động cần thiết và lao động thặng dư, nhưng đứng trên quan điểm xã hội mà xét, thì lao
động của họ là thứ lao động tất yếu, cần thiết để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt”[31, tr.
271].
Năng suất lao động và năng suất cây trồng trong ngành lương thực tăng cao, một
mặt, vừa có thể rút bớt lao động từ ngành trồng cây lương thực chuyển sang ngành khác
24

(trồng cây công nghiệp, trồng cây ăn quả, trồng rau, trồng hoa, chăn nuôi…) vừa có thể

rút bớt diện tích ruộng đất trồng cây lương thực để tăng diện tích cho các ngành đó, kể cả
diện tích trồng cỏ để chăn nuôi. Mặt khác, năng suất lao động và sản lượng của ngành
lương thực tăng lên, cung lớn hơn cầu, làm cho giá cả lương thực rẻ, ít lợi nhuận sẽ thúc
đẩy người sản xuất lương thực sang các ngành khác có lợi nhuận cao hơn, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong nông nghiệp.
Hai là, điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cơ thể sống của cây trồng, vật nuôi, việc
sinh trưởng và phát triển của chúng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi các yếu tố của tự
nhiên tác động. Do vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp, trước hết là cơ cấu ngành thường
xuyên phụ thuộc vào sự tác động của điệu kiện thổ nhưỡng, khí hậu có vị trí đặc biệt
quan trọng, chúng vừa mang lại nguồn lợi cho con người, vừa đe dọa gây nên những rủi
ro trong sản xuất nông nghiệp. Không những độ phì của ruộng đất ảnh hưởng đến năng
suất cây trồng, năng suất lao động mà tính đa dạng về thổ nhưỡng mới là nhân tố quan
trọng tác động đến việc bố trí cây trồng, vật nuôi. Khí hậu liên quan đến mùa vụ cũng tạo
điều kiện cho việc đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi.
Điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu tạo tiền đề hình thành những vùng chuyên canh,
những vùng nông nghiệp thương nghiệp (chuyên trồng cây lương thực, chuyên trồng cây
công nghiệp, chuyên chăn nuôi gia súc, chuyên nuôi thủy sản…).
Mỗi một điều kiện tự nhiên cho phép hình thành một cơ cấu sản xuất nhất định. Vì
vậy, sản xuất nông nghiệp chỉ thực sự có hiệu quả khi bố trí hệ thống cây trồng, vật nuôi
phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu. Do sự phụ thuộc vào điều kiện thổ
nhưỡng, khí hậu nên mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa phương có cơ cấu nông nghiệp
khác nhau và sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp có những nét riêng mang tính
đặc thù. Ngày nay trình độ phát triển của khoa học và công nghệ càng cao, một số nhân
tố tự nhiên không còn là yếu tố bất biến bởi con người đã tạo ra giống cây, giống con
mới có năng suất cao và thích ứng với điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu từng vùng. Để có
25

một cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang lại hiệu quả cao nhất, nhất thiết phải tôn trọng các
quy luật phát triển của tự nhiên. Đồng thời khuyến khích sự sáng tạo của con người

nhằm tranh thủ tốt nhất tự nhiên để phát triển kinh tế, vì thế, muốn bố trí cơ cấu kinh tế
hợp lý, trước hết phải điều tra, nắm chắc điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của mỗi vùng.
Đồng thời, nắm chắc đặc điểm sinh học của từng loại cây trồng, vật nuôi trong sản xuất
hoặc dự kiến sản xuất.
Ba là, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhất là giao thông vận tải
Nhờ sự phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông vận tải và thủy lợi … Người
ta có thể khai khẩn những vùng đất hoang hóa ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, biến thành
những diện tích trồng trọt có tính chất thương phẩm, phát triển những vùng chuyên canh
hay những đồng cỏ chăn nuôi mà sản phẩm không những được tiêu thụ trên thị trường
trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài.
Giao thông vận tải phát triển còn tạo điều kiện cho việc vận chuyển nguyên liệu
nông sản về các xí nghiệp chế biến, nhờ đó thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp hàng hóa.
Bốn là, sự phát triển công nghiệp chế biến nông sản
Khi nghiên cứu sự phát triển nông nghiệp thương phẩm ở Nga, V.I.Lênin đã rút ra
kết luận: “Sự phát triển của các ngành công nghiệp chế biến nông sản có một ý nghĩa rất
lớn đối với vấn đề sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Một là, đó là một trong những hình
thức phát triển của nông nghiệp thương phẩm, chính cái hình thức đã chỉ cho thấy rất rõ
rằng nông nghiệp đã chuyển biến như thế nào thành một ngành công nghiệp của xã hội
tư bản chủ nghĩa. Hai là, sự phát triển của việc chế biến về mặt kỹ thuật các nông sản
thường thường gắn liền với sự tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp: một mặt, bản thân
việc sản xuất nguyên liệu để chế biến thường thường đòi hỏi phải cải tiến nông nghiệp
(thí dụ, việc trồng cây có củ); mặt khác, những phế liệu trong khi chế biến thường đem
dùng vào nông nghiệp, làm cho sản lượng nông nghiệp tăng lên và ít ra cũng khôi phục
một phần sự thăng bằng và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa nông nghiệp và công nghiệp; sự
26

thăng bằng và sự phụ thuộc đó bị phá hoại vốn là một trong những mâu thuẫn sâu sắc
nhất của chủ nghĩa tư bản”[26, tr.353 - 354].
1.2.4. Một vài kinh nghiệm của việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo
hướng sản xuất hàng hóa ở nước ta

Qua nghiên cứu, thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở tỉnh Cao
Bằng có những điểm tương đồng với Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang… và
rút ra một số nhận xét sau:
Một là, quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở các tỉnh mặc dù điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội còn có những điểm khác nhau, nhưng cái chung nhất là
dựa trên tiềm năng, thế mạnh của mình, phát triển theo cơ chế thị trường, mỗi tỉnh từng
bước xác định cho mình một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Hai là, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi các tỉnh đều xác
định ngành kinh tế mũi nhọn để tập trung đầu tư, nhằm mang lại hiệu quả cao.
Ba là, tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất, thiết bị, nguồn
nhân lực bằng mọi nguồn vốn, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia.
Bốn là, để chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, khi bố trí cơ cấu kinh tế hợp lý
luôn chú ý tới các vùng miền lãnh thổ, vùng sâu vùng xa phù hợp với điều kiện sinh thái
thổ những của từng vùng.
Năm là, cụ thể hóa các chủ trương, chiến lược bằng quy hoạch, kế hoạch, chương
trình và biện pháp cụ thể, rõ ràng, phối hợp giữa các ngành, địa phương.
Tóm lại, theo đà phát triển lực lượng sản xuất, nông nghiệp mang tính chất tự
cung, tự cấp tất yếu chuyển lên nông nghiệp hàng hóa do phân công xã hội ngày càng
phát triển. Nông nghiệp hàng hóa thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh hơn,
không ngừng tăng năng suất lao động; đẩy mạnh quá trình xa hội hóa sản xuất và tích tụ,
tập trung sản xuất, mở rộng thị trường hàng tiêu dùng, thị trường lao động, thị trường tư
liệu sản xuất…

×