Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Đề cương Kinh tế chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.45 KB, 24 trang )

ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Câu 1: Hàng hóa là gì? Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu vấn đề này đối với việc phát triển kinh tế hàng hóa ở nước ta hiện nay.
Câu 2: Trình bay nguồn gốc, bản chất, chức năng tiền tệ
Câu 3: Phân tích nội dung, yêu cầu và tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế
hàng hóa.
Câu 4: Trình bày khái niệm sức lao động và điều kiện biến sức lao động thành hàng
hóa?
Câu 5: Trình bày 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư (GTTD). Phân biệt sự giống
và khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối.
Câu 6: Phân tích nội dung và vai trò, tác dụng của quy luật giá trị thặng dư. Tại sao nói
quy luật GTTD quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản
Câu 7: Phân tích thực chất của tích lũy tư bản và các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô
tích lũy tư bản. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với việc phát triển kinh tế ở
nước ta hiện nay.
Câu 8: Phân tích sự vận động của tư bản công nghiệp; từ đó rút ra khái niệm tuần hoàn
và chu chuyển của tư bản.
Câu 9: Phân tích nguồn gốc, bản chất của tư bản thương nghiệp và và lợi nhuận thương
nghiệp.
Câu 10: Phân tích đặc điểm của tư bản cho vay và lợi tức cho vay.
Câu 11: Phân tích bản chất và các hình thức địa tô TBCN
Câu 12: Trình bày những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.
Câu 1: Hàng hóa là gì? Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu vấn đề này đối với việc phát triển kinh tế hàng hóa ở nước ta hiện nay.
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể ( hữu hình ) hoặc ở dạng phi vật
thể ( dịch vụ vô hình ).
Hai thuộc tính của hàng hóa : mỗi vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng
hóa đều có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
- Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người. Ví dụ : cơm là để ăn, quần áo để mặc, máy móc, thiết bị để sản xuất Một vật có


thể có nhiều thuộc tính tự nhiên khác nhau nên có nhiều giá trị sử dụng và công dụng
khác nhau. Vd : gạo vừa để nấu cơm, vừa làm nguyên liệu nấu rượu, bia, cồn Số
lượng giá trị sử dụng không phải ngay một lúc phát hiện được hết mà phải phát hiện
dần dần qua quá trình phát triển khoa học kĩ thuật. Giá trị sử dụng của hàng hóa do
thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết định nên giá trị sử dụng là một phạm trù
vĩnh viễn. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng. C.Mác chỉ
rõ : chỉ có trong việc sử dụng hay tiêu dùng, giá trị sử dụng mới được thể hiện. Một vật
đã là hàng hóa thì phải có giá trị sử dụng, nhưng có giá trị sử dụng chưa chắc đã là
hàng hóa. VD : không khí rất cần cho sự sống, nhưng không phải hàng hóa. Một vật là
hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vậy được sản xuất ra để bán, để trao đổi.
Vd : nước suối khoáng trong rừng không phải hàng hóa, nhưng khi con người khai thác
đóng chai để bán lại trở thành hàng hóa.
- Giá trị của hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. C.Mac viết : giá trị trao đổi trước hết
biểu hiện như một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại
này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Một ví dụ là : 1 mét vải = 10kg
thóc. Để sản xuất ra vải và thóc, người thợ thủ công và người nông dân đều phải hao
phí lao động. Hao phí lao động là cơ sở chung để so sánh vải với thóc, để trao đổi giữa
chúng với nhau. Sở dĩ cần phải trao đổi theo 1 tỉ lệ nhất định như vậy vì người ta cho
rằng, lao động hao phí sản xuất ra 1m vải bằng lao động hao phí để sản xuất 10kg thóc.
Lao động hao phí để sản xuất hàng hóa ẩn giấu tring hoàng hóa chính là GIÁ TRỊ của
hàng hóa. Vậy giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa. Chất của giá trị là lao động, vậy sản phẩm nào không có lao động kết tinh
trong đó thì không có giá trị. Sản phẩm nào lao động hao phí càng nhiều thì giá trị càng
cao. Giá trị là một phạm trù lịch sử, là nội dung, cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị
trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng đây là sự thống
nhất của hai mặt đối lập. Sự đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở
chỗ : người làm ra hàng hóa đem bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình làm ra.
Ngược lại, người mua hàng hóa chỉ chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hóa, nhưng muốn tiêu
dùng giá trị sử dụng đó người mua phải trả giá trị của nó cho người bán. Nghĩa là qua quá

trình thực hiện giá trị tách rời quá trình thực hiện giá trị sử dụng : giá trị được thực hiện
trước, sau đó giá trị sử dụng mới được thực hiện.
Câu 2: Trình bay nguồn gốc, bản chất, chức năng tiền tệ
a. Nguồn gốc:
Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi
hàng hoá, thong quá 4 hình thái giá trị sâu đây:
- Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị:
o Công thức tổng quát là xH1=yH2. Ở hình thái này,hàng hoá H1 biểu hiện giá
trị của nó ở hàng hoá H2. Trong đó, H1 là hình thái giá trị tương đối, còn H2
đóng vai trò vật ngang giá.
- Khi số lượng hàng hoá trai đổi trên thị trường có nhiều hơn thì một hàng hoá có thể
trao đổi với nhiều hàng hoá khác. Đó là hình thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị.
Hình thái này biểu hiện ở phương trình trao đổi sau:
o xH1=yH2 hoặc = zH3 hoặc…
- Khi sản xuất hàng hoá phát triển và trao đổi hàng hoá trở nên thường xuyên rộng rãi
hơn, thì trong thế giới hàng hoá có một hàng hoá tách ra làm vật ngang giá chung.
Đó là hình thái chung của giá trị. Vật ngang giá chung có thể trao đổi trực tiếp với
một hàng hoá bất kì. Vật ngang giá trở thành môi giới, thành phương tiện để trao
đổi. Phương trình xH1 hoặc yH2 hoặc zH3 hoặc…= aH5 (H5 là vật ngang giá
chung)
- Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển hơn nữa, thị trường được mở rông, vai
trò vật ngang giá chung dần dần được cố định ở bạc và vàng thì hình thái tiền tệ của
giá trị ra đời. Ví dụ:
o xH1 hoặc yH2 hoặc zH3 hoặc…= a gam vàng ( vàng trở thành tiền)
 Khi tiền tệ xuất hiện thì thế giới hàng hoá được phân ra thành 2 cực: 1 phía là
vàng với tư cách là vật ngang giá chung, còn một phía là các hàng hoá khác, các
hàng hoá này soi mình vào vàng để xác định giá trị.
b. Bản chất
Tiền tệ là vật ngang giá chung cho tất ca các hàng hoá, là sự thể hiện chung của
giái trị và thể hiện lao động XH; đồng thời biểu hiện quan hệ kinh tế giwuax

những người sản xuất hàng hoá.
c. Chức năng tiền tệ:
1. Thước đo giá trị ( chức năng cơ bản nhất)
Với chức năng này tiền dùng để biểu hiện giá trị của các hàng hoá, hay để
đo giá trị của hàng hoá khác. Tiền đo được giá trị của hàng hoá khác vì
bản than nó cũng là giá trị. Tiền làm chức năng thức đo giá trị ko nhất
thiết phải là tiền vàng, mà chỉ là tiền trong ý niệm, tiền tượng trưng.
2. Phương tiên lưu thông
Làm chức năng phương tiện lưu thong tức là tiền làm môi giới trong việc
trao đổi hàng hoá. Công thức H-T-H
Khối lượng tiền lưu thông được đo bằng công thức = ( Tổng số giá cả
hàng hoá/ Tốc độ vòng quay trung bình của đồng tiền cùng loại)
Tiền làm phương tiện lưu thông đã trải qua nhiều hình thức: đầu tiền là
vàng thoi, bạc nén, tiếp là tiền đúc và cuối cùng là tiền giấy như hiện nay
3. Phương tiện cất trữ
Tiền cất trữ là tiền tệ rút khỏi lưu thông và được người ta cất trữ lại để khi
cần đem ra mua hàng. Làm phương tiện cất trữ phải là tiền vàng.
Tiền là phương tiện cất trữ có vai trò to lớn, nó giống như con kênh tưới và
tiêu cho lưu thông hàng hoá, nghĩa là tự phát điều tiết khối lượng tiền trong
lưu thông.
4. Phương tiện thanh toán
Tiền dùng là phương tiện thanh toán, chi trả sau khi công việc mua bán hoàn
thành. Chức năng này phát triển làm tăng them sự phụ thuộc lần nhau giwuax
những người sản xuất hàng hoá.
5. Tiền tệ thế giới.
Khi sx và trao đổi hàng hoá vượt ra khỏi phạm vi quốc giá thì cần phải có
tiền tệ thế giới.
Tiền tệ thế giới phải là vàng, bạc thực sự, hoặc tiền tín dụng được công nhận
là phương tiện thanh toán quốc tế. Tiền tệ thế giới làm nhiệm vụ thanh toán
số chênh lệch trong bảng cân đối thanh toán quốc tế, và di chuyển của cải từ

nước này sang nước khác,
 Các chức năng của tiền tệ có quan hệ mật thiết với nhau và thể hiện bản chất của
tiền tệ
Câu 3: Phân tích nội dung, yêu cầu và tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế
hàng hóa.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hang hóa vì nó quy định bản
chất của sản xuất hang hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất hàng hóa.
1. Nội dung của quy luật giá trị là:
- Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí
lao động xã hội cần thiết.
- Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho
mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội
cần thiết. Có như vậy họ mới có thể tồn tại được. Còn trong trao đổi, hay lưu thông,
phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: hai hàng hóa đc trao đổi với nhau khi
cùng kết tinh một lượng lao động giá trị như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hóa
phải thực hiện với giá cả bằng giá trị.
- Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng giá trị
và cả trong trong trường trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị. Ở đây, giá
trị như cái trục của giá cả.
2. Trong n ề n sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có 3 tác động sau:
a) Thứ nhất là điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa. Quy luật giá trị điều tiết sản
xuất hàng hóa được thể hiện trong 2 trường hợp sau:
- Một là, nếu như một mặt hàng nào đó cá giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán
chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư
thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng
hóa khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này; do đó tư liệu sản
xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở
rộng.
- Hai là, nếu như 1 mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị sẽ dẫn đến bị lỗ
vốn. Tính hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng

này hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác; làm cho tư liệu sản xuất và
sức lao động ở ngành giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên.
Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản
xuất mặt hàng này.
Như vây, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất vào các
ngành sản xuất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội.
Còn tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút
hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, và do đó góp phần làm cho
hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
b) Thứ hai, quy luật giá trị của sản xuất hàng hóa kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý
hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Các hàng hóa được
sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó có mức hao phí lao động cá biệt
khác nhau; nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức
hao phí lao động xã hội cần thiết.
c) Thứ ba, quy luật giá trị của sản xuất hàng hóa phân hóa những người sản xuất hàng
hóa thành người giàu, người nghèo. Những người sản xuất hàng hóa nào có mức
hao phi lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán
hàng hóa theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều
lãi, giàu lên, có thể mua được thêm nhiều tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh
doanh, thậm chí thuê lao động để trở thành ông chủ.
Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt
lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng thì hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng
thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.
Đây cũng chính là một trong những nguyên ngân cơ bản làm xuất hiện quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa và là cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó,
đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, Nhà nước cũng cần có những biện
pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay.

Câu 4: Trình bày khái niệm sức lao động và điều kiện biến sức lao động thành hàng
hóa?
Theo Các Mác : “ Sức lao động , đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con
người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho
hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”
Sức lao động là điều kiện cơ bản của sản xuất nhưng không phải trong bất kỳ điều kiện nào,
sức lao động cũng là hàng hóa. Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hóa trong những điều
kiện lịch sử nhất định sau đây :
- Người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của
mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.
- Người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt,
họ trở thành người “ vô sản”, để tồn tại buộc anh ta phải bán sức lao động của mình để
sống
Sự tồn tại đồng thời 2 điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hóa. Sức lao
động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản. Tuy nhiên, để tiền
biến thành tư bản thì lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ phải phát triển tới một mức độ
nhất định.
Trong các hình thái xã hội trước chủ nghĩa tư bản chỉ có sản phẩm của lao động mới là hàng
hóa. Chỉ đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định nào đó, các hình thái
sản xuất xã hội cũ bị phá vỡ, thì mới xuất hiện những điều kiện để cho sức lao động trở thành
hàng hóa, chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động đã làm cho sản xuất hàng hóa trở nên
có tính chất phổ biến và đã báo hiệu sự ra đời của một thời đại mới trong lịch sử XH- thời đại
của chủ nghĩa tư bản.
Câu 5: Trình bày 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư (GTTD). Phân biệt sự giống
và khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối.
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các nhà tư bản dung
nhiều phương pháp để tang tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát có hai phương
pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng
dư tương đối
1. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kĩ thuật còn thấp,
tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động
của công nhân.
Giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng cách kéo dài ngày lao động trong điều kiện thời
gian lao động tất yếu không thay đổi, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư gọi là giá trị
thặng dư tuyệt đối
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là
thời gian lao động thặng dư
m’ = 4/4 x 100% = 100%
Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu không
thay đổi, vẫn là 4 giờ. Khi đó tỷ suất giá trị thặng dư là
m’ = 6/4 x 100% = 150%
Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu
không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tang lên.
Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%, thì bây giờ là 150%
Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động có những
giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao
động quyết định. Vì công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức
khoẻ. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn
giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian
lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian
lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao
động
Trong phạm vi giới hạn nói trên, dộ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố
định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa gai
cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. Cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiểu chuẩn, ngày làm 8h đã kéo dài hàng thế kỉ.
2. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động và
vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất

tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kĩ thuật đã tiến bộ làm cho
năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột
dựa trên cơ sở tang năng suất lao động, bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắng thời gian lao động tất yếu trong điều
kiện độ dài của ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng
dư, được gọi là giá trị thặng dư tương đối.
Giả sử ngày lao động là 8h và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và
4 giờ là thời gian lao động thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư là
m’ = 4/4 X 100% = 100%
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3 giờ
lao động đã tạo ra được một lượng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó
ty lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi : 3 giờ là thời gian lao động tất yếu và 5h là thời
gian lao động thặng dư Khi đó tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là
m’ = 5/3 X100% = 166%
Nhưng vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tang từ 100% lên 166%
Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu. Thời gian lao động tất
yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm
giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh
hoạt thuộc phạm vi tiêu dung của công nhân Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách
tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc
phạm vi tiêu dung cuả công nhân hay tang năng suất lao động trong các ngành sản xuất
ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là
phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn sau, khi kĩ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư
tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất
lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn : hợp tác giản đơn, công
trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá
trị thặng dư tương đối
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết

hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của
chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ
cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tang cường độ lao động. Ngày
nay, việc tự động hoá sản xuất làm cho cường độ lao động tang lên, nhưng dưới hình thức
mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp
3. Giá trị thặng dư siêu ngạch:
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ
mới sớm hơn các nhà máy khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thi
trường của nó. Như thế nhà tư bản chỉ phải bỏ ra ít chi phí hơn các nhà tư bản khác mà vẫn
bán được với giá như các nhà tư bản khác, từ đó thu được giá trị thặng dư cao hơn. Khi số
đông các nhà máy đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng dư
siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa. Trong từng nhà máy, giá trị thặng dư siêu
ngạch là một hiện tượng tạm thời, nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại thường xuyên tồn tại.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công
nghệ để tăng năng suất lao động cá biệt, đánh bại các đối thủ của mình trong cạnh tranh.
C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
GTTD tương đối GTTD siêu ngạch
Giống nhau giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối có
một cơ sở chung là chúng đều dựa trên cơ sở tang năng suất
lao động ( mặc dù một bên là dựa vào tang năng suất lao
động cá biêt, một bên dựa vào tăng năng suất lao động xã
hội)
C. Mac gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến
tướng của giá trị thặng dư tương đối
Khác nhau - do tăng năng suất lao
động xã hội
- toàn bộ các nhà tư bản
thu
- biểu hiện mối quan hệ
giữa chủ nghĩa với nhà

tư bản
- do tăng năng suất lao
động cá biệt
- từng nhà tư bản thu
- biểu hiện mối quan hệ
giữa chủ nghĩa với nhà tư
bản và giữa các nhà tư
bản với nhau
Câu 6: Phân tích nội dung và vai trò, tác dụng của quy luật giá trị thặng dư. Tại sao nói
quy luật GTTD quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản
*Nội dung của quy luật là tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách
tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lý để bóc lột ngày càng nhiều lao động làm
thuê.
*Vai trò:
Quy luật giá trị thặng dư có tác động mạnh mẽ trong đời sống xã hội tư bản.
-Thúc đẩy kỹ thuật, phân công lao động xã hội phát triển làm cho lực lượng sản xuất, năng
suất lao động tăng lên nhanh chóng và nền sản xuất được xã hội hoá cao.
-Nó thể hiện mối quan hệ bản chất nhất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, làm
cho mâu thuẫn giữa tư bản và người lao đông càng trở nên gay gắt.
*Từ nội dung và vai trò của quy luật giá trị thặng dư đã nêu trên => Quy luật giá trị thặng
dư là quy luật tuyệt đối của Chủ nghĩa tư bản vì : Quy luật này giữ vai trò chủ đạo trong hệ
thống các quy luật kinh tế của Chủ nghĩa tư bản.Quy luật này chi phối sự ra đời,phát
sinh,phát triển của chủ nghĩa tư bản; là mục đích ,là động lực thúc đẩy chủ nghĩa tư bản phát
triển nhanh chóng.Đồng thời quy luật này cũng là nguyên nhân chính làm cho mâu thuẫn cơ
bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tư bản
chủ nghĩa với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa :
-Giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê
tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không -> phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ
nghĩa tư bản-quan hệ tư bản bóc lột lao độnglàm thuê. Vì trong xã hội tư bản, mối quan hệ
giữa tư bản và lao động là mối quan hệ cơ bản nhất, sâu sắc nhất, xuyên qua tất cả các quan

hệ sản xuất của xã hội đó. Giá trị thặng dư, phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê
sáng tạo ra ngoài sức lao động và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ cơ bản
nhất đó.
-Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá
trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc
đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố
gắng sản xuất ra hàng hóa với chất lượng tốt đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ vì nhà tư bản
muốn thu hút được nhiều giá trị thặng dư. Giá trị thặng dư do lao động không công của công
nhân làm thuê sáng tạo ra là nguồn gốc làm giàu của giai cấp các nhà tư bản, sản xuất ra giá
trị thặng dư là cơ sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
Câu 7: Phân tích thực chất của tích lũy tư bản và các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô
tích lũy tư bản. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với việc phát triển kinh tế ở
nước ta hiện nay.
Thực chất của tích lũy tư bản
Trong bất kỳ xã hội loài người nào thuộc hiện đại thời kỳ nào muốn tồn tại và phát triển
đều phải tiêu dùng do đó phải luôn luôn sản xuất. Quá trình sản xuất là một quá trình luôn
luôn đổi mới không ngừng đồng thời cũng là quá trình tái sản xuất. tái sản xuất là gì là quá
trình sản xuất được lặp lại thường xuyên và không ngừng phục hồi.
Về quy mô, tái sản xuất gồm có tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. tái sản xuất
giản đơn là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ do đó tái sản xuất giản đơn
không phải là hình thái điển hình của cntb mà nó chỉ là hình thái đặc thù của xh mà sản xuất
chưa phát triển, sản xuất nhỏ của thợ thủ công, công nhân cá thể hình thức tiến hành đặc thù
của cntb là tái sản xuất mở rộng. tái sản xuất mở rộng của cntb là sự lặp lại quá trình sản xuất
với quy mô lớn hơn với một lượng tb lớn hơn trước. muốn vậy phải biết một phần giá trị
thặng dư thành tư bản phụ thêm.
Việc sử dụng giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản.Như vậy, thực chất
của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản, hay là quá trình
tư bản hóa giá trị thặng dư .Nói một cách cụ thể , tích lũy tư bản là tái sản xuất ra tư bản với
quy mô ngày càng mở rộng .Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hóa thành tư bản được là vì
giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới .

Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản
1 Trường hợp khối lượng giá trị thặng dư không đổi thì quy mô của tích lũy tư bản phụ
thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành hai quỹ :quỹ tích lũy và quỹ
tiêu dùng, của nhà tư bản .Đương nhiên tỷ lệ quỹ này tăng lên thì thỷ lệ dành cho quỹ kia sẽ
giảm đi .
2 Nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định , thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào
khối lượng giá trị thặng dư .Trong trường hợp này thì khối lượng giá trị thặng dư bị phụ
thuộc vào những yếu tố sau :
a. Trình độ bóc lột sức lao động :
Bằng những biện pháp :tăng cường độ lao động , kéo dài ngày lao động ,cắt giảm tiền
lương của công nhân .Có nghĩa thời gian công nhân sáng tạo ra giá trị thì càng được
kéo dài ra nhwung chi phí càng được cắt giảm , do vậy khối lượng giá trị thặng dư
càng lớn và quy mô của tích lũy tư bản càng lớn .
b. Trình độ năng suất lao động xã hội :
Năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị
thặng dư thành tư bản mới , nên làm tăng quy mô tích lũy tư bản .
c. Sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản tiêu dùng :
Khi tư bản tăng lên thì sự chênh lệch giữa tb sử dụng và tb tiêu dùng cũng tăng lên.
tức là trong một thời kỳ dài hay ngắn trong mọi quá trình sản xuất thường xuyên lặp đi
lặp lại tất cả các bộ phận cấu thành của máy móc đều hoạt động. tức là máy móc tham
gia vào toàn bộ quá trình sản xuất nhưng chúng chỉ hao mòn dần do đó giá trị của
chúng được chuyển dần từng phần vào sản phẩm. mặc dù đã mất dần giá trị như vậy
nhưng trong suốt thời gian hoạt động máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị.
do đó nếu không kể đến phần giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng
thời gian thì máy móc phục vụ không công chẳng khác gì lực lượng tự nhiên. lực lượng
sản xuất càng phát triển máy móc càng hiện đại, do đó phần giá trị của nó chuyển dọc
từng đơn vị sản phẩm càng ít đi do vậy mà sự chêng lệch giữa tbtd và tbsd ngày càng
lớn như vậy sự phục vụ của lao động quá khứ ta được lao động sống nắm lấy và làm
sống lại đang được tích luỹ lại, cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ.
d. Quy mô của tư bản ứng trước :

Với trình độ bóc lột không thay đổi thì khối lượng gttd do khối lượng tư bản khả biến
quyết định .Do đó quy mô của tư bản ứng trước , nhất là bộ phận tư bản khả biến ngày
càng lớn thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột càng lớn, tạo điều kiện tăng thêm quy
mô của tích lũy tư bản .
Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với việc phát triển kinh tế ở nước ta hiện
nay.
Trong điều kiện đất nước ta hiện nay nền kinh tế có đặc điểm là sản xuất nhỏ nông nghiêp
lạc hậu. Năng suất thấp do đó đê xoá bỏ tình trạng này thì con đường tất yếu là phải tiến hành
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, để xây dựng cơ sở kỹ thuật đáp ứng yêu cầu xây
dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa và việc chúng ta tự do hoá thương mại afta và apec để giữ
vững được thị trường trong nước và khẳng định vị trí trên trường quốc tế thì trước hết chúng
ta phải có một số vốn lớn mà nguồn gốc của nó phải được tích luỹ từ nhiều nơi, nhiều ngành
sản xuất.
Chúng ta cần phải có những biện pháp để tích luỹ vốn trong đó tích luỹ vốn trong nước là
chủ yếu kết hợp với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (oda & fdi) để cân đối phát triển đất
nước tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Chính vì thế việc nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp chúng ta sẽ hiểu được nguyên nhân tại sao
cần phải tích lũy vốn và muốn tích lũy được vốn thì cần phải tích lũy tư bản ( cả về nội lực
lần từ bên ngoài ) và từ đó sẽ có được những giải pháp hiệu quả để xây dựng đất nước.
Câu 8: Phân tích sự vận động của tư bản công nghiệp; từ đó rút ra khái niệm tuần hoàn
và chu chuyển của tư bản.
*Sự vận động của tư bản công nghiệp:
Tư bản luôn vận động .Công thức vận động của tư bản là :
SLĐ
T – H SX H’-T’
TLSX
Sự vận động của tư bản trải qua 3 giai đoạn tồn tại ở 3 hình thái củatư bản công nghiệp: tư
bản tiền tệ (T), tư bản sản xuất (SX), tư bản hàng hoá (H’) và thực hiện 3 chức năng.
- Giai đoạn thứ nhất:
SLĐ

T - H
TLSX
Tư bản từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái hàng hoá.Đây là hàng hoá yếu tố sản xuất
gồm sức lao động và tư liệu sản xuất. Chức năng giai đoạn này là mua các yếu tố sản xuất,
tức là biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất.
- Giai đoạn thứ 2:
H SLĐ
TLSX SX H’
Hàng hoá đã mua ở giai đoạn 1 được nhà tư bản sử dụng vào quá trình sản xuất, bằng việc
kết hợp SLĐ với TLSX.
Giai đoạn này có chức năng là sản xuất. Kết quả là tạo ra một hàng hoá mới (H’), khác với
hàng hoá mà nhà tư bản đã mua, cả về giá trị sử dụng và giá trị. H’= tư bản sản xuất hao phí
để sản xuất ra nó cộng với giá trị thặng dư (m).
- Giai đoạn thứ 3 : H’ – T’
Nhà tư bản lại xuất hiện trên thị trường nhưng với tư cách là người bán hàng hoá. Đây là là
hoàng hoá “đầu ra”-H’.
Chức năng giai đoạn này là thực hiện giá trị hàng hoá.
Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hoá biến thành tư bản tiền tệ -> mục đích của nhà tư
bản được thực hiện. Tư bản quay trở lại hình thái ban đầu trong tay chủ của nó,nhưng với số
lượng lớn hơn trước.
Số tiền bán hàng hoá đoá, nhà tư bản lại đem dùng vào việc mua tư liệu sản xuất và sức
lao động cần thiết để tiếp tục sản xuất và toàn bộ quá trình trên được lặp lại.
*Từ toàn bộ quá trình vận động của tư bản đã được nêu ở trên-> Rút ra khái niệm Tuần
hoàn của tư bản : là sự vận động của tư bản trải qua 3 giai đoạn, lần lượt mang 3 hình thái,
thực hiện 3 chức năng rồi trở về hình thái ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà con
tăng lên.
* Chu chuyển tư bản là sự tuần hoàn tư bản nếu xét nó là một quá trình định kì đổi mới, và
lặp đi lặp lại không ngừng. Chu chuyển tư bản phản ánh tốc độ vận động nhanh hay chậm của
tư bản cá biêt.
Câu 9: Phân tích nguồn gốc, bản chất của tư bản thương nghiệp và và lợi nhuận thương

nghiệp.
1. Nguồn gốc:
- Tư bản thương nghiệp xuất hiện rất sớm trong lịch sử. Trong quá trình tuần hoàn
và chu chuyển của tư bản công nghiệp (TBCN), thường xuyên có một bộ phận TB tồn
tại dưới hình thái TB hàng hóa (H’), chờ để đc chuyển hóa thành TB tiền tệ (T’). Nó
tồn tại trên cơ sở lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ. Do sự phát triển của phân
công lao động XH, đến một trình độ nhất định, giai đoạn này được tách riên ra trở
thành chức năng chuyên môn của 1 loại hình thái tư bản kinh doanh riêng biệt, đó
chính là TB thương nghiệp (TB kinh doanh hàng hóa)
 Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận tư bản công nghiệp tách
ra chuyên đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa của tư bản công nghiệp. Như vậy, hoạt
động của tư bản thương nghiệp chỉ là những hoạt động phục vụ cho quá trình thực
hiện giá trị hàng hóa của tư bản công nghiệp.
- Công thức vận động của nó là: T – H – T’. Với công thức này, hành hóa đươc chuyển
chỗ 2 lần:
(1) Từ tay TBCN  tay TBTN
(2) Từ tay TBTN  tay người tiêu dùng
TBTN chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông và kbg mang hình thái là TB sản xuất.
2. Bản chất:
Ra đời từ TBCN, song lại thực hiện chức năng chuyên môn riêng tách rời khỏi chức năng
sx của TBCN nên TBTN có đặc điểm vừa phụ thuộc , vừa có tính độc lập tương đối vào
TBCN
- Sự phụ thuộc thể hiện ở chỗ: tư bản thương nghiệp chỉ là một bộ phận của tư bản công
nghiệp tách rời ra.
- Tính độc lập tương đối biểu hiện ở chỗ: chức năng chuyển hóa cuối cùng của hàng hóa
thành tiền trở thành chức năng riêng biệt tách khỏi tư bản công nghiệp, nằm trong tay người
khác.
3. Vai trò: (chả biết có cần cho vào k?)
Khi tư bản thương nghiệp xuất hiện, nó có vai trò và lợi ích to lớn đối với xã hội, bởi vì:
- Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua – bán hàng hóa nên lượng tư bản ứng

vào lưu thông và chi phí lưu thông nhỏ hơn khi những người sản xuất trực tiếp đảm
nhiệm chức năng này.
- Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua – bán hàng hóa, người sản xuất có thể
tập trung thời gian chăm lo việc sản xuất, giảm dự trữ sản xuất, nâng cao hiệu quả
kinh tế, tăng giá trị thặng dư.
- Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua – bán hàng hóa, sẽ rút ngắn thời gian
lưu thông, tăng nhanh chu chuyển tư bản, từ đó tăng tỷ suất và khối lượng giá trị
thặng dư hàng năm.
4. Lợi nhuận thương nghiệp
- Nguồn gốc: Trước chủ nghĩa tư bản, lợi nhuận của tư bản thương nghiệp chủ yếu là
do mua rẻ, bán đắt. Trong chủ nghĩa tư bản, lợi nhuận thương nghiệp là một phần
giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vữ sản xuất và do tư bản công
nghiệp nhượng lại cho tư bản thương nghiệp, để tư bản thương nghiệp bán
hàng hóa cho mình.
- Tư bản công nghiệp “nhường” một phần giá trị thặng dư cho tư bản thương nghiệp
bằng cách bán hàng hóa thấp hơn giá trị thực tế của nó, để rồi tư bản thương nghiệp
bán đúng giá trị, thu về lợi nhuận thương nghiệp.
- Nói cách khác: Lợi nhuận thương nghiệp trên thực tế là chênh lệch giữa gía bán và
gía mua. Nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hóa thấp hơn gía trị và khi bán thì họ
bán đúng với gía trị của hàng hóa, nhưng vẫn có được lợi nhuận do tư bản công
nghiệp chuyển nhượng cho.
Ví dụ : Một nhà tư bản công nghiệp có lượng tư bản ứng trước (k) là 900 đơn vị tiền tệ
(đvtt); với tỷ lệ c/v = 4/1, như vậy sẽ có: 720c +180v; giả sử m’ =100%, thì tổng gía trị
hàng hóa sẽ là :
720c + 180v + 180m = 1080 đvtt
Nếu tư bản công nghiệp trực tiếp bán hàng hóa đúng với giá trị, thì họ sẽ thu được toàn bộ
180m và tỷ suất lợi nhuận công nghiệp sẽ là:
180đvtt
P’
công nghiệp

= x 100% = 20%
900đvtt
Gỉa sử nhà tư bản công nghiệp không bán hàng hóa mà chuyển cho tư bản thương nghiệp
bán hàng hóa và tư bản thương nghiệp ứng ra 100 đvtt tư bản để mua từng phần hàng hóa
của tư bản công nghiệp. Như vậy, tổng tư bản ứng ra là 900 đvttt + 100 đvtt = 1000 đvtt .
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp sẽ là :
180
P’
chung
= x 100% = 18%
900 + 100
Theo tỷ suất lợi nhuận chung này thì lợi nhuận mà nhà tư bản công nghiệp và thương
nghiệp thu được là:
PCN = 900đvtt x 18% = 162đvtt
PTN = 100đvtt x 18% = 18đvtt
Như vậy, nhà tư bản công nghiệp sẽ bán hàng hóa cho nhà tư bản thương nghiệp với gía
là: 900đvtt + 162đvtt = 1062đvtt. Nhà tư bản thương nghiệp sẽ bán hàng hóa cho người
tiêu dùng theo đúng gía trị hàng hóa, tức là: 1062đvtt + 18đvtt = 1080đvtt.
 Ở đây P
thương nghiệp
= 1080 – 1062= 18
Khoản lợi nhuận 18 này cũng tương ứng với tỷ suất 18% của TBTN ứng trước.
- Lợi nhuận thương nghiệp là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư. Nguồn
gốc của nó cũng là một bộ phận lao động không được trả công của công
nhân.Ngoài ra, tư bản thương nghiệp còn thu được lợi nhuận cao hơn do đầu
cơ để nâng giá bán, hoặc bán cao hơn giá trị thực của hàng hóa.
Câu 10: Phân tích đặc điểm của tư bản cho vay và lợi tức cho vay.
Tư bản cho vay là hình thức tư bản xuất hiện từ trước chủ nghĩa tư bản. Điều kiện tồn tại của
hình thức tư bản này là sản phẩm trở thành hàng hóa và tiền tệ đó phát triển các chức năng
của mình. Trước chủ nghĩa tư bản, hình thức đặc trưng của tư bản cho vay là tư bản cho vay

nặng lãi. Trong xã hội tư bản, tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà người chủ
của nó cho nhà tư bản khác sử dụng trong thời gian nhất định để nhận được số tiền lời (gọi là
lợi tức).
1. Tư bản cho vay có đặc điểm:
a) Quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng tư bản.: tư bản cho vay chỉ có quyền sở hữu,
còn tư bản đi vay chỉ có quyền sử dụng.
b) Tư bản cho vay là một hàng hóa đặc biệt: nó thể hiện ở chỗ
- Khi cho vay, người bán không mất quyền sở hữu mà chỉ mất quyển sử dụng
- Người mua không có quyền sở hữu, mà chỉ có quyển sử dụng mà chỉ được sử
dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
- Giá cả của hàng hóa (tiền lãi) mà người đi vay trả cho người cho vay không phụ
thuộc và giá trị tiền đó quyết định mà do khả năng sinh lời của nó quyết định.
c) Tư bản cho vay là loại hình tư bản thần bí và được sùng bái nhất: vì nó vận động
theo công thức T – T’ (T’ = T + z), nhìn vào công thức ta có thể thấy, công thức này
gây ấn tượng hình thức rằng tiền có thể đẻ ra tiền và sự vận động của nó chỉ thể
hiện mối quan hệ giữa nhà tư bản cho vay và nhà tư bản đi vay nên quan hệ bóc lột
của tư bản chủ nghĩa được che giấu một cách kín đáo nhất, làm cho tư bản cho vay
trở nên thần bí và được sừng bái nhất.
2. Lợi tức:
- Lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà tư bản đi vay phải trả cho tư bản
cho vay về quyền sở hữu tư bản để có được quyền sử dụng tư bản trong một thời
gian nhất định, kí hiệu là (z).
- Người cho vay và người đi vay sẽ thỏa thuận với nhau về tỷ suất lợi tức (z’). Đó
là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức z và tổng tư bản tiền tệ cho vay (Kcv)
trong một khoảng thời gian nhất định. Ta có công thức: z’ = z/Kcv . 100%. Tỷ
suất lợi nhuận phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận bình quân và quan hệ cung – cầu
về tư bản cho vay. Tỷ suất lợi nhuận bình quân luôn lớn hơn 0 và nhỏ hơn tỷ suất
lợi nhuận bình quân (p’).
- Tóm lại, thực chất thì lợi tức cũng có nguồn gốc là giá trị thặng dư. Đó chính là
phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay để có

quyền sử dụng tư bản trong một thời gian nhất định.
Câu 11: Phân tích bản chất và các hình thức địa tô TBCN
Địa tô TBCN là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân của tư bản nông
nghiệp nộp cho địa chủ về ruộng đất để được quyền kinh doanh ruộng đất
1. Bản chất địa tô TBCN
Quan hệ sản xuất TBCN trong nông nghiệp là một mối quan hệ giữa ba giai cấp:
- Giai cấp địa chủ là người sở hữu ruộng đất nhưng không trực tiếp kinh doanh
mà họ cho thuê ruộng đất.
- Nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp trực tiếp là người thuê ruông đất của địa
chủ kinh doanh theo phương thức sản xuất TBCN .
- Công nhân nông nghiệp là người lao động làm thuê cho các tư bản kinh doanh
trong nông nghiệp bị cả hai giai cấp địa chủ bóc lột .Như vậy tư bản kinh doanh
trong nông nghiệp thúc đẩy nông nghiệp phát triển lên sản xuất lớn tư bản chủ
nghĩa.
 Nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải thuê ruộng đất của địa chủ và thuê
công nhân để tiến hành sản xuất. Do đó nhà tư bản phải trích một phần giá trị
thặng dư do công nhân tạo ra để trả cho địa chủ dưới hình thức địa tô. Như vậy,
địa tô tư bản chủ nghĩa bản chất là một bộ phận lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi
nhuận bình quân của tư bản đầu tư trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp
tạo ra mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ với tư cách là
kẻ sở hữu ruộng đất.
2. Các hình thức của địa tô TBCN:
a) Địa tô chênh lệch: Nông nghiệp có một số đặc điểm khác với công nghiệp, như
số lượng ruộng đất bị giới hạn; độ màu mỡ tự nhiên và vị trí địa lý của ruộng đất
không giống nhau; các điều kiện thời tiết, khí hậu của địa phương ít biến động;
nhu cầu hàng hoá nông phẩm ngày càng tăng. Do đó, xã hội buộc phải canh tác
trên ruộng đất xấu nhất (về độ màu mỡ và vị trí địa lý) nên giá cả hàng hóa nông
phẩm được hình thành trên cơ sở điều kiện sản xuất xấu nhất chứ không phải ở
điều kiện trung bình như trong công nghiệp. Vì thế, canh tác trên đất tốt và trung
bình sẽ có lợi nhuận siêu ngạch. Phần lớn lợi nhuận siêu ngạch sẽ tồn tại thường

xuyên, tương đối ổn định và chuyển hoá thành địa tô chênh lệch. Như vậy, địa tô
chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân thu được trên
ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch giữa giá cả
sản xuất chung được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất
và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình (ký hiệu Rcl). Địa tô
chênh lệch có hai loại là địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II.
- Địa tô chênh lệch I: là loại địa tô thu được trên những ruộng đất có điều kiện tự
nhiên thuận lợi. CHẳng hạn, có độ màu mỡ tự nhiêu trung bình, tốt và có vị trí gần nơi
thiêu thụ hay gần đường giao thông.
- Địa tô chênh lệch II: là loại địa tô thu được nhờ thâm canh năng suất, là kết quả
của tư bản đầu tư thêm trên cùng đơn vị diện tích.
b) Địa tô tuyệt đối: là lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân hình thành
do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp…
địa tô tuyệt đối gắn liền với sở hữu ruộng đất, nhất thiết phải nộp cho địa chủ, dù
ruộng đất đó thuộc loại xấu nhất.
c) Địa tô độc quyền: là địa tô thu được trên những khu đất trồng được các cây quý
hiếm, hoặc có vị trí đặc biệt về công nghiệp, thương mại, dịch vụ…Nguồn gốc
của địa tô độc quyền cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả độc quyền của sản
phẩm thu được trên đất đai ấy, mà nhà tư bản phải nộp cho địa chủ.
Câu 12: Trình bày những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.
1. Đặc điểm 1: Tập trung sản xuất và tập trung tư bản đến mức tạo thành những tổ chức
lũng đoạn
- Thực chất độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản kếch xù
- Mục đích là lợi nhuận độc quyền
- Độc quyền không làm mất đi cạnh tranh mà trái lại làm cạnh tranh gay gắt thêm
- Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế TBCN.
2. Đặc điểm 2: TBCN kết hợp với TB ngân hàng tạo thành TB tài chính và bọn đầu sỏ tài
chính
- Đế quốc công nghiệp kết hợp với đế quốc ngân hàng tạo nên một tư bản mới về chất,
đó là TB tài chính

- Một nhóm nhỏ những chủ ngân hàng và công nghiệp độc quyền lớn hình thành khống
chế đời sống kinh tế, chính trị, xã hội  bọn đầu sỏ tài chính.
3. Đặc điểm 3: Xuất khẩu TB: là xuất khẩu vốn và kỹ thuật vào các nước đang có nhu
cầu phát triển
- Hình thức: cho vay, viện trợ hoặc đầu tư trực tiếp
- Mục đích: là để nô dịch và bóc lột kinh tế dẫn đến các nước nhập khẩu trở thành phụ
thuộc cả kinh tế lẫn chính trị
4. Đặc điểm 4: Hình thành các khối liên minh tư bản lũng đoạn quốc tế phân chia thị
trường thế giới.
- Mục đích: Hình thành các mối liên minh này để đảm bảo lợi nhuận và bóc lột nhân dân
thế giới
 Nguyên nhân bùng nổ hai cuộc chiến tranh thế giới
5. Đặc điểm 5: Các cường quốc đế quốc đấu tranh với nhau để phân chia và phân chia
lại lãnh thổ thế giới.
- Từ sau năm 1880, các cuộc xâm chiếm thuộc địa bắt đầu phát triển mạnh
- Đến cuối TK 19 đầu TK 20, các nước đế quốc đã hoàn thành phân chia lãnh thổ thế
giới và bước vào đấu tranh gay gắt để phân chia lại.
Cụ thể: Năm 1914, 6 nước đế quốc gồm: Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật chiếm 65 triệu
km2 thuộc địa với 523,4 triệu dân. Số dân thuộc địa Anh gấp 12 lần thuộc địa Nga, bằng 7
lần của Pháp. Pháp nhiều hơn số dân thuộc địa của 3 nước Đức, Mỹ, Nhật cộng lại.
 Các cường quốc đấu tranh để phân chia lại lãnh thổ thế giới.
 KẾT LUẬN:
• Các đặc điểm 2,3,4,5 chi phối lẫn nhau và chịu sự chi phối chung của đặc điểm 1.
• Bản chất kinh tế của chủ nghĩa đế quốc là độc quyền.
Bản chất chính trị của chủ nghĩa đế quốc là phản dân chủ, hiếu chiến
Các nước đế quốc luôn mâu thuẫn gay gắt với nhau.

×