Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Phân tích bài thơ tràng giang của huy cận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.31 KB, 11 trang )

Khóa Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
Đề bài: Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
Hướng dẫn cách làm:
Trong dàn đồng ca đa điệu buồn của thơ ca lãng mạn trước Cách mạng thì
Huy Cận là hồn thơ buồn hơn cả:
“Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm”
Trong tâm hồn ông luôn luôn chất chứa nỗi sầu buồn: buồn sông núi, sầu vũ
trụ, sầu nhân thế, sầu vạn kỉ… Tâm trạng ấy của Huy Cận được diễn tả khá thấm
thía và cảm động trong bài “Tràng giang” – một bài thơ đã đạt đến trình độ cổ
điển của dòng thơ Mới.:
I. Hoàn cảnh sáng tác và cảm hứng chủ đạo.
1. “Tràng giang” là một bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, sáng tác vào năm 1939,
đăng lần đầu tiên trên báo “Ngày nay”, sau đó in vào tập thơ “Lửa thiêng”
(Lửa sáng tạo). Bài thơ mang phong vị Đường thi khá rõ.
2. Đây là bài thơ được cảnh sông nước mênh mông của sông Hồng gợi tứ. Huy
Cận đã có lần tâm sự: “Tôi có thú vui thường vào chiều chủ nhật hàng tuần
đi lên vùng Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng và Hồ Tây. Phong cảnh sông
nước đẹp, gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ không chỉ do sông
Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của
quê hương”. Vì vậy, phân tích bài thơ này là phân tích một bức tranh thiên
nhiên sông nước hầu như đã trở thành cổ điển mà linh hồn của nó là một nỗi
buồn đìu hiu, mênh mang, cô đơn. Qua mỗi khổ thơ, tác giả điểm thêm một
nét buồn nào đó. Tất cả những nét buồn ấy cứ trở đi trở lại, vẫn là bát ngát
mênh mang mà hoang vắng và có một cái gì đó tàn tạ, lụi tắt, cô đơn, bơ vơ,
nổi trôi, chia lìa, phiêu bạt. Đây là nỗi buồn cô đơn đến rợn ngợp của cái tôi
cá nhân trước không gian ba chiều bao la, luôn luôn có niềm khát khao hoà
hợp, cảm thông giữa người và người trong tình đất nước và tình nhân loại.
3. Nhan đề:
Theo Huy Cận, đây là một bài thơ “tình”, tình gặp cảnh tình sầu nên
cảnh cũng sầu. Nỗi sầu buồn mênh mang bao trùm cả không gian, thời gian
Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 1


Khóa Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
thấm toả vào cả linh hồn tạo vật. Vào những buổi chiều tà, trên những bãi
sông, nhà thơ thường đứng trầm tư để cho lòng mình “bâng khuâng trời
rộng nhớ sông dài”. Ngay nhan đề của bài thơ đã vẽ lên trước mắt ta một
hình ảnh cổ kính, cổ điển. “Tràng giang”, hai âm Hán - Việt và vần “ang” đi
liền với nhau làm cho con sông trong thơ bỗng trở nên dài rộng hơn, vĩnh
hằng hơn trong tâm tưởng của người đọc. Đó là con sông tự một thuở xa xưa
nào đã từng chảy trên đất Việt qua nghìn năm lịch sử, nghìn năm văn hiến.
II. Phân tích
1. Khổ 1
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái, nước song song”
Bài thơ được mở đầu bằng một hình ảnh sông nước mênh mông:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
“Tràng giang” dài rộng đang trải ra từng đợt sóng “điệp điệp” không
dứt. Với tấm lòng sầu tư ngắm nhìn cảnh ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của
mình cũng đang trải ra từng đợt “điệp điệp” như những lớp sóng cùng con
thuyền quen thuộc thả mái chèo “song song” xuôi dòng. Hai câu thơ của
Huy Cận làm ta nhớ tới hai câu thơ trong bài thơ nổi tiếng “Đăng cao” của
Đỗ Phủ:
“Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai”
(Mênh mông cậy rụng hiu hiu trái
Cuồn cuộn trường giang chảy chảy mau)
Điều khác biệt mà người đọc nhận ra trước tiên là hai từ láy trong câu
thơ của Huy Cận được tác giả đưa xuống cuối câu. Vì vậy, không gian trong
“Tràng giang” vừa mở ra chiều rộng, vừa vươn tới chiều dài:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Động từ “gợn” diễn tả làn sóng nhẹ nhàng có vẻ mong manh, mơ màng
nhưng lại lan mãi không thôi. Nó gợi được nỗi buồn da diết khôn tả của thi

Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 2
Khóa Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
nhân. Để làm rõ hơn cảm giác ấy, phần sau câu thơ tác giả viết “buồn điệp
điệp”. “Điệp điệp” là một từ láy thật gợi hình, gợi cảm, vừa là hình ảnh vừa
là tâm tư. Nó vừa gợi từng đợt sóng chồng chất, tầng tầng lớp lớp, vừa diễn
tả “điệp điệp” nỗi sầu. Đúng là dòng nước đã đồng nghĩa với dòng sầu:
“Sông bao nhiêu nước dạ sầu bấy nhiêu”
“Con thuyền xuôi mái nước song song”, “xuôi mái” là con thuyền
nương theo dòng nước mà đi, nhưng cũng có thể hiểu là con thuyền bất lực
với cả mái trèo của mình lênh đênh để dòng nước cuốn xuôi tận cuối chân
trời mặc cho dòng đời xô đẩy, phiêu bạt, buông xuôi không bến đậu.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Hình ảnh sông nước mênh mang cùng con thuyền nhỏ nhoi giữa dòng
tạo nên sự đối lập gợi cho ta cảm giác cô đơn da diết. Từ xưa tới nay, thuyền
và nước là hai hình ảnh luôn luôn gần gũi, gắn bó. Vậy mà ở đây, con thuyền
lênh đênh mà dòng nước mênh mông như có một nỗi buồn chia li xa cách
đương đón đợi:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Những con thuyền đã về hết, chỉ còn dòng sông mênh mang sóng nước.
Vì thế, cảnh dễ gợi nỗi “sầu trăm ngả”. Suy ngẫm về ba câu thơ, ta thấy nỗi
lòng tác giả đã có sự nâng cấp từ “buồn điệp điệp” đến “sầu trăm ngả”. Nỗi
buồn không chỉ có bề sâu nữa mà còn được mở rộng ra “trăm ngả’.
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Giữa con sông mênh mông mang nặng dòng nước sầu buồn chia li,
“trăm ngả”gợi lên sự chia lìa cách biệt ấy hiện lên một cành củi khô trôi dạt
lạc lõng bơ vơ, không biết rồi sẽ đi đâu về đâu trong dòng sông mông lung,
vô định. Ba câu thơ trên mang dáng dấp cổ điển thì đột nhiên câu cuối lại
mang dáng dấp một câu thơ rất hiện đại. Tác giả đã đưa vào thơ ca “những
thi liệu sống của đời thường” - chữ dùng - Xuân Diệu. Hình ảnh “củi một
cành khô lạc mấy dòng” là hình ảnh mới mẻ, gợi cảm, có nhiều sức biểu

hiện, Đây không phải là thân gỗ xuôi dòng mà là một cảnh củi khô bập bềnh
Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 3
Khóa Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
nổi trôi. Nó đã nói lên được cái trôi dạt, cô đơn, bơ vơ giữa mênh mông cuộc
đời sóng gió. Từ một cành cây tươi xanh trên núi rừng đầu nguồn đến một
cành củi khô dập dềnh nổi trôi, thân phận cỏ cây đã mấy lần tan thương khô
héo, mấy lần trôi dạt đổi thay. Đó là thân phận cỏ cây hay số kiếp con người
trong cuộc đời cũ? Cái tôi cô đơn, tội nghiệp của thơ ca lãng mạn đã tìm
thấy sự tương đồng của nó trong cành củi khô lạc loài của thơ Huy Cận. Đột
nhiên, nhà phê bình Hoài Thanh viết: “Đời chúng ta nằm trọn trong vòng
một chữ tôi. Mất bề rộng, ta đi tìm bề sâu. Càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát
lên tiên cùng Thế Lữ. Ta phiêu du trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư. Ta
đắm say cùng Xuân Diệu. Ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên.
Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng, lại tỉnh, say đắm
vẫn bơ vơ. Ta lại ngẩn ngơ buồn trở về cùng Huy Cận”.
(Về nghệ thuật: ở khổ này tác giả sử dụng điệp từ: một… và nghệ thuật
đối rất thành công. Điều đó cũng tô đậm thêm nỗi buồn bát ngát, dằng dặc
và sự chia lìa, bơ vơ).
2. Khổ 2
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu”
Tiếp tục hoàn chỉnh bức tranh trời rộng sông dài với những chi tiết mới.
Nó được mở rộng thêm đất thêm người. Nhưng nỗi buồn thi nhân ở đây
dường như càng lan toả thấm sâu hơn trong từng cơn “gió đìu hiu” đưa lại
những tiếng “chợ chiều” đã vãn vẳng lên từ một làng xa xôi - nơi một “cồn
nhỏ” heo hút nào đó. Câu thơ này theo Xuân Diệu còn có thể hiểu ngay cả
những âm thanh náo nức của cuộc sống dù chen lấn, bươn trải, xô bồ, hỗn
độn nhưng có sức lôi cuốn vỗ về lòng người “cũng có đâu, đâu có”, nghĩa là

tạo vật thống trị tuyệt đối. Bức tranh “Tràng giang” tuy có cồn đất, có
nắng, có bến, có làng, có chợ nghĩa là có hơi tiếng con người đấy nhưng vẫn
Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 4
Khóa Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
không át được cái cảm giác tàn tạ, hiu hắt, quạnh vắng, buồn bã mênh mang.
Bởi không gì buồn bằng cái chợ chiều tan tác. Bởi trên nền thiên nhiên bát
ngát chỉ điểm “lơ thơ” mấy “cồn” và thoáng chốc xao động lên một vài cơn
gió buồn “đìu hiu”. Hai từ láy đồng thời là tính từ“lơ thơ” và “đìu hiu” đặc
biệt gợi cảm. Nó không chỉ gợi buồn mà nó còn gợi cảm giác quá nhỏ nhoi,
thưa thớt, quạnh quẽ, lạnh lẽo. “Lơ thơ” diễn tả những dáng cây nhỏ nhoi,
mỏng, thưa thớt trên cồn bãi, đồng thời gợi lên sự xuất hiện đơn độc lẻ loi,
đượm chút ngơ ngác của những bãi cồn giữa dòng “Tràng giang” bát ngát.
“Đìu hiu” nói về hơi gió nhẹ đưa nỗi buồn lan toả khắp đất trời. Huy Cận rất
lấy làm thích thú với những chữ này, cho rằng mình đã học được trong thơ
nổi tiếng của Đoàn Thị Điểm:
“Non kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
Hai câu thơ của Huy Cận mới đọc qua tưởng chúng không có quan hệ
gì với nhau bởi không gian địa lý và hình thức câu thơ. Nhưng thực ra chúng
đều cộng hưởng với nhau để làm nổi bật lên cái cô đơn, lạnh giá, lụi tàn của
những kiếp người.
Câu 3+4:
Không gian trời rộng, sông dài được đột ngột đẩy cao và mở ra bốn
phía đến vô cùng làm cho cảnh bờ bãi của dòng sông vốn đã vắng vẻ lại
càng trở nên “cô liêu” tĩnh mịch:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Không gian ở đây được mở rộng ra nhiều chiều khó nắm bắt. “Nắng
xuống, trời lên”, “sông dài trời rộng” nhịp nhàng tạo nên một vũ điệu kì vĩ
của vũ trụ. Tác giả dùng từ “sâu chót vót” chứ không phải “cao chót vót”.

Từ “cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời, nó thuần tuý tả cảnh; còn từ “sâu”
vừa tả cảnh vừa tả tình và hàm súc hơn. Nó không chỉ gợi cho ta mối liên
tưởng đó là vòm trời phản chiếu vào lòng sông tạo nên một không gian hun
Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 5
Khóa Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
hút, thăm thẳm đến chới với, rợn ngợp mà còn gợi lên nỗi buồn cô đơn
không đáy của hồn người trước cái vũ trụ vô cùng. Con người càng nhỏ bé
cô đơn, bơ vơ hơn giữa vũ trụ bao la. Từ khổ thơ này, các tính từ được tác
giả sử dụng như động từ (hay động từ hoá các tính từ) “dài”, “rộng”, “chót
vót”… vẽ ra những chuyển động ngược hướng làm cho “sông dài” như dài
mãi, “trời rộng” như rộng vô cùng và bến sông cũng tăng thêm phần “cô
liêu”, tĩnh mịch như tiền sử (thuở hồng hoang). Tác giả lại sử dụng nhiều
tiểu đối… kèm theo các dấu phẩy ngắt câu thơ ra thành các cụm từ biệt lập
giúp cho người đọc hiểu sâu hơn về một thực tại thiếu vắng những liên hệ,
gợi cảm giác cô đơn da diết.
Như vậy, những cảm giác quạnh hiu, trống vắng đến đây đã được tác
giả diễn tả thấm thía.
Qua khổ thơ ta thấy, nỗi buồn của thi nhân dường như bao phủ tất cả
cảnh vật, vừa lan toả theo chiều rộng, vừa dâng đầy theo chiều cao của
không gian. Đằng sau đó là tấm lòng của thi nhân đối với cuộc đời, quê
hương đất nước. Vì vậy, khổ thơ cũng gợi được nhiều hình ảnh chân thực,
bình dị, quen thuộc. Bởi thế, nó vẫn có thể khơi dậy trong tâm hồn hàng
triệu độc giả tình yêu nước Việt Nam muôn đời.
3. Khổ 3
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”
Đến đây, bài thơ lại có thêm một hình ảnh gợi về sự tan tác chia lìa, nổi
trôi phiêu dạt, dập vùi:
“Phận bèo bao quản nước xa
Lênh đênh đâu cũng nữa là lênh đênh”
Đúng là một hình ảnh thơ rất gần gũi, thân quen mà giàu sức gợi. “Bèo

dạt về đâu”, nhà thơ sống trong cảnh mất nước, nô lệ nên đã cảm nhận được
cả thế hệ thanh niên lúc đó cũng như mình đang vật vờ, lênh đênh trôi dạt, bị
cuộc đời cuốn đi nhưng không biết đi về đâu.
Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 6
Khóa Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
Cảnh mênh mông, buồn bã, trống vắng quạnh hiu của “Tràng giang”
càng được nhân lên bằng mấy lần phủ định:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ là biểu hiện sự giao nối của con người
với cuộc sống, thường gợi về sự tấp nập gần gũi và gợi nhớ quê hương:
“Chiếc cầu đám cưới đi qua”
(Nguyễn Cảnh Trà)
“Chiếc cầu là đêm trăng ta hò hẹn”; “Quê hương là cầu tre nhỏ”; “Quê
hương là con đồ nhỏ”… là sự sống. Nhưng ở đây “không một chuyến đò” lạc
qua, không một chiếc cầu bắc nối đôi bờ, nghĩa là tuyệt nhiên không một
dấu vết của sự sống hay một cái gì đó gợi về tình người, lòng nước muốn
gặp gỡ lại qua đôi bờ hoang vắng. Hai bờ sông cứ thế chảy dài về phía chân
trời xa như hai thế giới cô đơn, xa lạ không bao giờ gặp nhau, không chút
niềm thân mật của những tâm hồn đồng điệu. Cảnh “Tràng giang” chỉ còn
“lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Câu thơ vẽ lên được một bức tranh thật đẹp
nhưng tĩnh lặng, buồn đến nao lòng.
Bốn câu thơ, bốn hình ảnh, tất cả đều buồn. Mỗi hình ảnh mang một
nỗi buồn riêng. Chúng liên kết với nhau tạo thành một bức tranh gợi về số
phận nổi trôi, bơ vơ, bất hạnh, vô định của kiếp người trong xã hội cũ. Về
nghệ thuật, ở khổ thơ này tác giả sử dụng thủ pháp quen thuộc của nghệ
thuật cổ điển: lấy không để nói có, nhắc nhiều đến cái không, làm cho ta
càng thiết tha khát khao cuộc sống ấm cúng đông vui của con người.
4. Khổ 4

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”
Huy Cận là một nhà thơ lãng mạn luôn luôn có nỗi lòng khắc khoải nhớ
quê hương và một cảm giác cô đơn khi một mình đứng trước cái vô cùng của
vũ trụ. Nỗi niềm ấy của “một linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu” được
Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 7
Khóa Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
diễn tả khá thấm thía và cảm động trong khổ thơ cuối của bài “Tràng giang”
- một bài thơ không chỉ nổi tiếng của Huy Cận mà còn là cả phong trào thơ
Mới, sáng tác năm 1939, in trong tập “Lửa thiêng” - 1940:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”
Thiên nhiên, cảnh vật, tạo vật qua tâm hồn Huy Cận buồn nhưng cũng
có khi bộc lộ một vẻ đẹp kì vĩ, nên thơ. Mây trắng hết lớp này đến lớp khác
như những búp bông trắng khổng lồ cứ liên tiếp nở ra, ánh trời chiều chiếu
vào trông như quả núi dát bạc trong nền trời trong xanh khiến cho ánh chiều
trước khi vụt tắt ánh lên vẻ đẹp. Câu thơ dựng lên được một hình ảnh rất tạo
hình như một bức tranh sơn mài. Đằng sau bức tranh là nỗi lòng thi nhân. Từ
“buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” ở những khổ thơ trên, đến đây nỗi sầu thi
sĩ đã dâng lên trùng trùng, “lớp lớp” tràn ngập cả bầu trời. Từ “lớp lớp” diễn
tả nhiều lớp kế tiếp nhau, lớp nọ liền lớp kia đều đặn không dứt. “Đùn” diễn
tả những đám mây và cũng là nỗi sầu tự mở ra, liên tiếp như có một sức đẩy
từ bên trong. Đúng là: “Sầu đong càng lắc càng đầy”. Câu thơ Huy Cận làm
ta liên tưởng đến câu thơ dịch trong bai “Thu hứng” nổi tiếng của Đỗ Phủ:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Trên cảnh mây trời, sông nước buồn vắng, bao la nhưng đẹp đẽ, hùng
vĩ, nên thơ ấy, đột nhiên xuất hiện con chim “nghiêng cánh” bay như hút lấy
nắng hoàng hôn cùng “bóng chiều sa” xuống nhanh quá, nắng quá làm lệch
cả cánh chim lấp lánh phía trời xa. Cánh chim nhỏ biểu hiện của sự sống,
khát vọng, ước mơ bay liệng tuy có gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật
nhưng vẫn không vơi được nỗi buồn của thi nhân. Bởi cánh chim chiều trong

thơ Huy Cận có nét đặc sắc riêng của nó. Thơ ca cổ xưa nay khi miêu tả
cảnh chiều tà thường vờn vẽ một vài hình ảnh cánh chim:
“Chim hôm thoi thóp về rừng”
(Nguyễn Du)
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”
Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 8
Khóa Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
(Bà huyện Thanh Quan)
Cánh chim trong thơ Huy Cận xuất hiện giữa “lớp lớp mây cao đùn núi
bạc”. Đúng là cánh chim trong thơ Mới. Nó nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn, buồn
thương, tội nghiệp và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la.
Trong câu thơ trên, nghệ thuật đối lập giữa hình ảnh cánh chim nhỏ bé
với vũ trụ bao la làm cho không gian như bát ngát hơn và qua đó cũng xa
vắng buồn bã hơn. Đến đây, nỗi sầu dâng kín “Tràng giang” và từ trời cao
đổ xuống cánh chim yếu ớt rồi thấm sâu vào cõi lòng nhân thế:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Câu thơ có từ láy “dợn dợn” rất gợi cảm. Nó là một sáng tạo của nhà
thơ. Từ ấy đã diễn tả chuyển động uốn lên uốn xuống nhẹ nhàng không dứt
của mặt nước khi bị dao động, còn “vời” là xa, “con nước” là nước thuỷ triều
đương lên. “Dợn dợn vời con nước” vừa là hình ảnh vừa là tâm trạng. Nó
vừa diễn tả sóng lan ra vừa gợi cảm giác nỗi buồn lạnh lẽo u uẩn trải ra vời
vợi không nơi bám víu. Sông vốn dài rộng càng thêm rộng mênh mông lại
gặp lúc hoàng hôn đang xuống gợi nỗi buồn cô đơn da diết. Thì ra, nỗi buồn
của nhà thơ trong chiều sâu thẳm của nó cũng có nguyên nhân rất cụ thể. Đó
là nỗi buồn của người xa quê chạnh lòng nhớ tới quê hương xứ sở. Câu thơ
cuối của khổ thơ càng khẳng định điều đó:
“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
“Tràng giang” là một bài thơ mang đậm ý vị cổ điển. Cổ điển ở hình
ảnh con người một mình đứng trước không gian trời rộng sông dài; trước

thời gian buổi chiều tà lặng lẽ. Ý vị cổ điển càng được tô đậm thêm ở câu
cuối này. Nó toát ra từ một ý thơ Đường trong bài “Hoàng Hạc Lâu” của
Thôi Hiệu:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thuỷ sử nhân sầu”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 9
Khóa Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Người xưa nhìn khói sóng mơ màng trên sông lúc chiều tà mà cảm thấy
nhớ nhà đã đành. Còn Huy Cận không cần “khói hoàng hôn” gợi về một bếp
lửa có người thân đang quây quần mà vẫn nhớ nhà tha thiết. Có nghĩa là,
niềm thương nhớ quê hương của Huy Cận còn mãnh liệt và sâu sắc, cao độ
hơn thành một tình cảm thường trực: sông càng vời rộng càng buồn nhớ quê
hương da diết, cháy bỏng vì quê hương không chỉ là một làng quê thân
thương nào đó mà nó còn là bến đậu của tâm hồn, là cội nguồn đời sống tinh
thần, xây đắp trên nền tảng của một đời người. Cho nên, nỗi nhớ khắc khoải
quê hương có mặt khắp mọi nơi và tự nó tuôn trào ra từ trái tim thi sĩ. Như
vậy, hai câu kết này đã khép lại một bức tranh phong cảnh và mở ra một nỗi
lòng. Đó là nỗi sầu, niềm thương nhớ quê hương dâng trào man mác. Đây là
tâm trạng rất hiện thực và điển hình của người dân mất nước. Aragon (1942)
đã viết : “ Sống trên đất nước mình mà như người khách lạ”. Còn Huy Cận
thì luôn luôn cảm thấy một tâm trạng tha hương, lưu lạc ngay trên Tổ quốc,
ngay trên đất mẹ của mình. Đúng như câu thơ của Tố Hữu: “Sống giữa quê
hương mà bơ vơ như kiếp đi đày”. Bài thơ của Huy Cận mang vẻ đẹp vừa cổ
điển vừa hiện đại.
1. Đề tài cảm hứng:
− “Tràng giang” mang nỗi sầu từ vạn cổ của con người nhỏ bé hữu
hạn trước thời gian, không gian vô hạn của đất trời.
− “Tràng giang” đồng thời thể hiện nỗi buồn thế hệ của một cái tôi

thơ Mới thời mất nước chưa tìm thấy lối ra:
“ Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”
2. Chất liệu thi ca:
− Ở “Tràng giang” ta bắt gặp hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ
(tràng giang, bờ bãi đìu hiu, cánh chim trong bóng chiều, khói
hoàng hôn…). Nhiều hình ảnh, tứ thơ được gợi lên từ thơ cổ (lớp
lớp mây cao…).
Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 10
Khóa Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
− Mặt khác, “Tràng giang” cũng không thiếu những hình ảnh, âm
thanh chân thực của đời thường, không ước lệ (củi khô, tiếng vãn
chợ chiều…).
3. Thể loại và bút pháp
− “Tràng giang” mang đậm phong vị cổ điển qua việc vận dụng
nhuần nhuyễn thể thơ bảy chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu
trúc đăng đối, bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi nhiều hơn tả, những
từ Hán Việt cổ.
− Song “Tràng giang” lại cũng rất mới qua xu hướng bày trực tiếp
cái tôi trữ tình (buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, không khói hoàng
hôn cũng nhớ nhá) qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn cảm
xúc cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm thân mật, dợn dợn).
Kết luận:
“Tràng giang” của Huy cận không chỉ là một bức tranh phong cảnh mà còn là
một bài thơ về tâm hồn. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, trước cuộc
đời, luôn luôn khao khát hoà hợp cảm thông trong tình đất nước, tình nhân loại.
Từ đề tài, cảm hứng, chất liệu đến giọng điệu, bút pháp, “Tràng giang” vừa mang
phong vị thi ca cổ điển, vừa mang chất liệu hiện đại của thơ. Vẻ đẹp ấy cũng là nét
đặc trưng của phong cách Huy Cận.
Giáo viên: Nguyễn Quang Ninh
Nguồn: Hocmai.vn

Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 11

×