Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Quy chế pháp lý về Ủy ban bảo vệ môi trường nước theo các lưu vực sông Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 88 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN HẢI HÀ AN




QUY CHẾ PHÁP LÝ
VỀ ỦY BAN BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NƯỚC
THEO CÁC LƯU VỰC SÔNG






Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50





TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









Hà Nội - 2010


1
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu

Chƣơng 1. Bảo vệ môi trƣờng nƣớc và hiện trạng bảo vệ môi
trƣờng nƣớc ở Việt Nam

1.1 Bảo vệ môi trƣờng nƣớc

1.1.1 Khái niệm

1.1.2 Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường nước

1.2 Hiện trạng bảo vệ môi trƣờng nƣớc ở Việt Nam hiện nay

1.2.1 Thực trạng môi trường nước

1.2.2 Các yếu tố tác động đến hoạt động bảo vệ môi trường nước


1.2.3 Các biện pháp bảo vệ môi trường nước

1.2.3.1 Biện pháp tổ chức – chính trị

1.2.3.2 Biện pháp kinh tế

1.2.3.3 Biện pháp khoa học – công nghệ

1.2.3.4 Biện pháp giáo dục

1.2.3.5 Biện pháp pháp luật

1.3 Pháp luật tài nguyên nƣớc và Uỷ ban bảo vệ môi trƣờng nƣớc
theo lƣu vực sông

1.3.1 Pháp luật tài nguyên nước

1.3.2 Uỷ ban bảo vệ môi trường nước theo lưu vực sông

1.3.2.1 Khái niệm

1.3.2.2 Đánh giá tổng quan về các Uỷ ban bảo vệ môi trường
nước theo lưu vực sông

1.4 Kinh nghiệm của các nƣớc trên thế giới

1.4.1 Mô hình quản lý lưu vực sông Murray- Darling (Australia)

1.4.2 Mô hình quản lý lưu vực sông Hoàng Hà (Trung Quốc)


1.4.3 Mô hình quản lý lưu vực sông của Pháp

1.4.4 Mô hình quản lý lưu vực sông Mekong


2
Chƣơng 2. Một số vấn đề pháp lý về tổ chức, hoạt động của Ủy
ban Bảo vệ môi trƣờng nƣớc theo lƣu vực sông ở Việt Nam hiện
nay

2.1 Hiện trạng quy định pháp luật Việt Nam về Uỷ ban bảo vệ
môi trƣờng nƣớc theo lƣu vực sông

2.1.1 Cơ sở pháp lý

2.1.2 Đánh giá hoạt động thực tiễn

2.2 Mục đích, yêu cầu đối với các Uỷ ban bảo vệ môi trƣờng theo
lƣu vực sông

2.2.1 Về mặt quản lý

2.2.2 Về mặt kinh tế

2.2.3 Về mặt xã hội

2.3 Việc thành lập Uỷ ban bảo vệ môi trƣờng lƣu vực sông

2.4 Tổ chức, hoạt động của Uỷ ban bảo vệ môi trƣờng theo lƣu
vực sông


2.4.1 Vai trò của Nhà nước, các doanh nghiệp và các tổ chức khác

2.4.2 Chức năng, nhiệm vụ

2.4.3 Cơ cấu tổ chức

2.4.3.1 Thành phần tham gia

2.4.3.2 Cơ quan giúp việc

2.4.4 Cơ chế hoạt động

2.4.5 Tài chính

2.5 Nhận xét, đánh giá, bình luận

2.5.1 Những kết quả đã đạt được

2.5.2 Những tồn tại cần khắc phục

2.5.2.1 Hoạt động trên thực tế của các Uỷ ban chưa hiệu quả

2.5.2.2 Sự phối hợp giữa các cơ quan Trung ương với địa
phương, giữa các địa phương trong lưu vực sông còn yếu


3
2.5.2.3 Vấn đề tài chính


2.5.2.4 Nguồn nhân lực hạn chế và chưa chú trọng đúng mức
đến vai trò và trách nhiệm của cộng đồng lưu vực sông

Chƣơng 3. Kiến nghị và giải pháp

3.1 Về xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật và thể chế

3.2 Xây dựng quy chế pháp lý

3.2.1 Xác định quyền, nghĩa vụ của Nhà nước, doanh nghiệp và các
tổ chức, cá nhân khác

3.2.2 Thành phần

3.2.3 Cơ chế hoạt động

3.2.4 Cơ chế tài chính: cần nguồn kinh phí ổn định lâu dài

3.3 Mô hình

3.3.1 Mô hình một cơ quan đầu mối

3.3.2 Nguyên tắc hoạt động

3.3.2.1 Độc lập

3.3.2.2 Có sự phân cấp phân quyền

3.3.2.3 Đảm bảo việc tiếp nhận và chia sẻ thông tin


3.3.2.4 Đảm bảo sự tham gia và giám sát của cộng đồng dân cư
lưu vực sông

3.3.2.5 Nguyên tắc phối hợp giữa trung ương và địa phương

3.3.3 Chức năng, nhiệm vụ

Kết luận

Tài liệu tham khảo






4
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Số hiệu hình vẽ
Tên hình vẽ
Trang
1.1
Sơ đồ giới thiệu tổng quát một lưu vực sông

2.1
Mô hình tổ chức các Ủy ban Bảo vệ môi trường
lưu vực sông ở Việt Nam hiện nay

3.1

Mô hình tổ chức quản lý lưu vực





















5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước là khởi nguồn của sự sống, là phần cấu thành quan trọng của tất
cả mọi sinh vật cũng như con người trên thế giới. Hơn 70% diện tích của Trái
đất được bao phủ bởi nước. Lượng nước trên trái đất vào khoảng 1,38 tỉ km
3


nhưng đa số là nước mặn trong các đại dương trên thế giới, phần còn lại:
2,6% là nước ngọt, tồn tại chủ yếu dưới dạng băng tuyết đóng ở 2 cực và trên
các ngọn núi, chỉ có 0,3% nước trên thế giới (xấp xỉ 3,6 triệu km
3
) là có thể sử
dụng làm nước uống [56].
Theo Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020 (Bộ Tài
nguyên và Môi trường (BộTN&MT), 2005) Việt Nam có khoảng 2.372 con
sông lớn nhỏ có chiều dài từ 10 km trở lên, trong đó có 109 sông chính. 9 con
sông (sông Hồng, sông Thái Bình, sông Bằng Giang - Kỳ Cùng, sông Mã,
sông Cả, dông Vu Gia – Thu Bồn, sông Ba, sông Đồng Nai và sông Cửu
Long) và 4 nhánh sông (sông Đà, sông Lô, sông Sê San, sông Serepok) đã tạo
nên một vùng lưu vực trên 10.000 km
2
, chiếm khoảng 93% tổng diện tích của
mạng lưới sông ở Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam còn có rất nhiều các loại
hồ tự nhiên và hàng ngàn các hồ đập nhân tạo với tổng sức chứa lên đến 26 tỷ
m
3
nước. Với sự ưu ái của thiên nhiên này giúp Việt Nam có nguồn cung cấp
nước dồi dào (255 tỷ m
3
/năm) [47].
Nhờ trữ lượng nước dồi dào, hệ thống kênh rạch, sông ngòi chằng chịt
khiến Việt Nam có ưu thế rất lớn trong việc phát triển mạng lưới thuỷ điện,
thuỷ lợi, giao thông đường thuỷ và nuôi trồng thuỷ sản. Tuy nhiên trên thực
tế, nguồn nước có thể sử dụng ngay không phải là vô tận do sự phân bố không
đồng đều. Hơn nữa, hàng loạt những hoạt động của con người, những yếu tố
tác động cả khách quan và chủ quan đang ngày càng gia tăng áp lực đối với
môi trường nước nói chung, tài nguyên nước nói riêng. Hệ luỵ tất yếu của sự

tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, của sự gia tăng dân số đó là tình trạng ô

6
nhiễm nguồn nước nặng nề. Nước đang ngày càng cạn kiệt về số lượng, suy
giảm về chất lượng. Việc quản lý nguồn tài nguyên nước tại Việt Nam đang
gặp phải nhiều thách thức lớn. Điều đó đòi hỏi Việt Nam cũng như các nước
trên thế giới cần phải tìm các phương thức thích hợp để bảo vệ và phát triển
bền vững tài nguyên nước của mình; khai thác và sử dụng nước phải bảo đảm
cả ba mục tiêu kinh tế, phát triển xã hội và sự toàn vẹn của môi trường.
Trong những năm gần đây, quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam với
cách tiếp cận quản lý tài nguyên nước tổng hợp và dựa trên lưu vực đã được
đẩy mạnh; việc quản lý lưu vực sông trở thành một trong những nội dung chủ
yếu của quản lý tài nguyên nước và các lưu vực sông đã được xem là cơ sở để
lập quy hoạch và quản lý.
Quản lý lưu vực sông là một vấn đề đã được thực hiện ở nhiều nước.
Kể từ sau Hội nghị Dublin và Hội nghị thượng đỉnh về môi trường và phát
triển của thế giới họp tại Rio de Janero (Brazin,1992) phần lớn các nước trên
thế giới đều áp dụng phương thức quản lý tài nguyên nước theo lưu vực sông.
Đối với Việt Nam, thực hiện quản lý nước theo lưu vực sông là một xu thế và
định hướng tất yếu. Tuy nhiên nó cũng là một vấn đề rất mới và việc thực
hiện trong thực tế gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù vậy, việc tiếp cận kinh
nghiệm của các nước trên thế giới và nghiên cứu vận dụng cho phù hợp với
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội lại là một lợi thế lớn cho Việt Nam.
Việc thực hiện quản lý nước theo lưu vực sông luôn gắn với việc thành
lập trên lưu vực một tổ chức có vai trò chủ yếu là điều hành tất cả các hoạt
động có liên quan đến sử dụng nước và các yếu tố liên quan đến nước, bảo vệ
môi trường lưu vực sông (gọi chung là tổ chức lưu vực sông). Nhằm đáp ứng
các yêu cầu cần thiết của công tác quản lý lưu vực sông, ngày 01/12/2008,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2008/NĐ-CP quy định các nguyên
tắc quản lý, quy hoạch và tổ chức điều phối lưu vực sông. Bên cạnh đó, việc

thành lập các Uỷ ban bảo vệ môi trường lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy,
sông Đồng Nai đã đáp ứng phần nào các nhu cầu bức thiết của thực tế trong

7
việc quản lý tài nguyên nước nhằm phát triển bền vững, đảm bảo sự hài hoà
giữa ba yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, để các Uỷ ban bảo
vệ môi trường theo lưu vực sông (Ủy ban lưu vực sông) hoạt động một cách
có hiệu quả thì việc xây dựng một quy chế pháp lý về hoạt động của nó là vấn
đề có ý nghĩa rất lớn đòi hỏi sự đầu tư nghiện cứu một cách thoả đáng.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên tôi lựa chọn đề tài luận văn thạc sỹ
của mình về “Quy chế pháp lý về Ủy ban bảo vệ môi trƣờng nƣớc theo các
lƣu vực sông” với mong muốn góp phần hoàn thiện những vấn đề lý luận và
thực tiễn của pháp luật Việt Nam trong việc xây dựng các mô hình quản lý
theo lưu vực sông cũng như quy chế pháp lý về các Uỷ ban bảo vệ môi trường
nước.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý và cơ sở lý luận của
việc quản lý tài nguyên nước theo lưu vực sông dựa trên cơ sở so sánh, đánh
giá giữa các mô hình quản lý theo lưu vực sông trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Qua đó tác giả sẽ đưa ra những đánh giá, nhận xét về ưu điểm và những
tồn tại cần khắc phục trong mô hình quản lý nước theo lưu vực sông ở Việt
Nam (mà cụ thể là vai trò của các Uỷ ban lưu vực sông), từ đó đề xuất các
giải pháp, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
trong việc xây dựng Quy chế pháp lý về tổ chức và hoạt động của các Uỷ ban
này.
3. Tình hình nghiên cứu
Phương thức quản lý tài nguyên nước theo lưu vực sông đã được các
nước trên thế giới áp dụng một cách rộng rãi từ những năm cuối thế kỷ 20. Ở
Việt Nam vài năm trở lại đây chúng ta mới thực sự chú trọng tới vấn đề này.
Các nhà nghiên cứu đã bắt đầu quan tâm đến việc nghiên cứu các vấn đề lý

luận và xây dựng các cơ chế, chính sách pháp luật nhằm thể chế hoá việc
quản lý nước theo lưu vực sông cho phù hợp với điều kiện đặc trưng của Việt
Nam. Một số bài báo và một vài công trình nghiên cứu về vấn đề này như:

8
- Nguyễn Văn Thắng (2004), Một số ý kiến về vấn đề thực hiện Quản
lý tài nguyên nước theo lưu vực sông ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn – số 10/2004.
- Lê Trung Tuân (2005), Quản lý tổng hợp lưu vực sông trên thế giới và
những vấn đề cần nghiên cứu khi đề xuất mô hình quản lý lưu vực sông ở
Việt Nam, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn-Kỳ 2, tháng 3/2005.
- Đỗ Hồng Phấn, Lê Thạc Cán (2006), Quản lý Tổng hợp lưu vực sông
ở Việt Nam nhằm phát triển bền vững, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường
tháng 8/2006.
- Nguyễn Biểu, Kinh nghiệm quản lý lưu vực sông trên thế giới khu
vực và Việt Nam.
- Ngô Trọng Thuận, Vấn đề quản lý tổng hợp lưu vực sông, Hội thảo
khoa học lần thứ 9 - Viện Khí tượng thủy văn.
- Các tham luận tại Hội thảo “Đối thoại: Quản lý lưu vực sông ở Việt
Nam”, Núi Cốc – Thái Nguyên, tháng 8/2009.
……
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng ở mức độ các bài
báo, tạp chí hay các tham luận trong các Hội thảo dưới các góc độ riêng lẻ mà
chưa có đề tài nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phép biện chứng triết học
Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh để đánh giá các vấn đề. Bên cạnh đó,
trên cơ sở tiếp cận kinh nghiệm của các nước trên thế giới kết hợp với việc
nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của Việt Nam tác giả đưa ra
những nhận xét, kiến nghị nhằm xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp

luật Việt Nam trong việc xây dựng quy chế Pháp lý về tổ chức, hoạt động của
các Uỷ ban lưu vực sông.
5. Bố cục của luận văn

9
Ngoài phần Mục lục, Lời nói đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương1: Bảo vệ môi trường nước và hiện trạng bảo vệ môi trường
nước ở Việt Nam.
Chương 2: Một số vấn đề pháp lý về tổ chức, hoạt động của Ủy ban bảo
vệ môi trường nước theo lưu vực sông ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Kết luận và Kiến nghị.
























10
CHƢƠNG 1
BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG NƢỚC VÀ HIỆN TRẠNG BẢO VỆ MÔI
TRƢỜNG NƢỚC Ở VIỆT NAM
1.1 Bảo vệ môi trƣờng nƣớc
1.1.1 Khái niệm
Khái niệm môi trường được sử dụng khá phổ biến và cũng có nhiều cách
hiểu và định nghĩa khác nhau. Môi trường theo định nghĩa thông thường “là
toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay
một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật
ấy”

[58]. Trang Wikipedia (Bách khoa toàn thư mở) lại đưa ra định nghĩa
“Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con
người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con
người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể
chế”[57].
Môi trường sử dụng trong lĩnh vực khoa học pháp lý là khái niệm được
hiểu như mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường được
hiểu như là những yếu tố, hoàn cảnh và điều kiện tự nhiên bao quanh con
người. Điều 1 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 định nghĩa môi trường
“bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có
ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại,phát triển của con người và sinh
vật”[1].
Môi trường được tạo thành bởi các thành phần cơ bản là các yếu tố vật

chất như đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và
các hình thức vật chất khác.
Có bốn loại môi trường cơ bản: môi trường đất, môi trường không khí,
môi trường nước và môi trường sinh vật.
Môi trường hiện nay đang có những thay đổi bất lợi cho con người, đặc
biệt là những yếu tố mang tính tự nhiên như nước, đất, không khí, hệ thực vật,
hệ động vật.

11
Nghiên cứu và bảo vệ môi trường có ý nghĩa sống còn đối với mỗi quốc
gia bởi vì sự phát triển của mỗi quốc gia chỉ có thể được bền vững, đảm bảo
khi môi trường sống và thiên nhiên được bảo vệ tốt, duy trì mối cân bằng sinh
thái, hạn chế sự ô nhiễm, có biện pháp khai thác, sử dụng phục hồi một cách
hợp lí các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường nước nói riêng là
“hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế
tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô
nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý
và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học” [5].
1.1.2 Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường nước
Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự
sống và môi trường, quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của đất nước.
Dưới góc độ pháp luật, nguồn nước là khái niệm chỉ các dạng tích tụ nước
tự nhiên hoặc nhân tạo có thể khai thác sử dụng được, bao gồm: sông, suối,
kênh, rạch, biển, hồ, đầm, ao, các tầng nước dưới đất, mưa, băng, tuyết và các
dạng tích tụ nước khác.
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tốc độ đô thị hóa khá nhanh
và sự gia tăng dân số đã gây áp lực nặng nề khiến tài nguyên nước ngày càng
có xu hướng cạn kiệt về số lượng và suy giảm về chất lượng. Nhu cầu về nước
ngày càng tăng dẫn đến việc khai thác sử dụng tài nguyên nước ngày càng

nhiều. Suy thoái, cạn kiệt nguồn nước mặt, nước ngầm; thiếu nước, khan
hiếm nước ngày càng trở nên phổ biến hơn. Các yếu tố ảnh hưởng đến tài
nguyên nước không chỉ là các yếu tố chủ quan (hoạt động sản xuất kinh
doanh trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và du lịch, giải trí hay sinh
hoạt của con người) mà còn là các yếu tố khách quan mang tính tự nhiên gây
ô nhiễm, suy thoái nước như hiện tượng động đất, núi lửa phun, lũ lụt, sóng
thần, hạn hán….Như vậy, bảo vệ tài nguyên nước dưới góc độ bảo vệ môi
trường không chỉ nhằm giữ gìn trữ lượng, chất lượng các nguồn nước mà còn

12
phải nhằm phòng chống, khắc phục các hậu quả, tác hại do sự vận động bất
thường của nước gây ra [55].
Việc bảo vệ môi trường cần được coi là trách nhiệm của từng cá nhân
cũng như của cả cộng đồng. Do các hoạt động của mỗi cá nhân có thể ảnh
hưởng trực tiếp (bảo vệ hoặc gây tổn hại) đến môi trường nên mỗi cá nhân
đều có trách nhiệm thực hiện đúng những quy định của pháp luật, các quy tắc
của cộng đồng để giữ gìn môi trường sống. Bên cạnh đó các cộng đồng cũng
có vai trò rất lớn đối với việc bảo vệ môi trường đặc biệt là cộng đồng làng
bản (xuất phát từ mối liên hệ mật thiết với môi trường với nhiều lợi ích ràng
buộc). Ở cấp độ cộng đồng cao hơn (cấp độ địa phương, vùng) hay ở cấp độ
quốc gia việc bảo vệ môi trường được thực hiện thông qua hoạt động quản lý
của nhà nước. Ở cấp độ quốc tế hiện nay đã có rất nhiều các tổ chức được
thành lập, các công ước quốc tế ra đời nhằm tìm tiếng nói chung giữa các dân
tộc, quốc gia trong hoạt động bảo vệ môi trường.
Tóm lại, trước thực tế nguồn nước đang bị suy thoái trầm trọng, xuất phát
từ vai trò của tài nguyên nước đối với cuộc sống và môi trường đòi hỏi các
nhà hoạch định chính sách cần có những chính sách, biện pháp quản lý phù
hợp trong việc bảo vệ môi trường nước – một nội dung quan trọng của công
tác bảo vệ môi trường.
1.2 Hiện trạng bảo vệ môi trƣờng nƣớc ở Việt Nam hiện nay

1.2.1 Thực trạng môi trường nước
Việt Nam đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu nước, cạnh tranh gay gắt
về nước. Lượng nước bình quân đầu người ở Việt Nam khoảng 5000m
3
/năm.
Trong tổng số nước được sử dụng thì hơn 70% phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp. Mặc dù có lượng mưa trung bình năm tương đối cao, nhưng lượng
nước lại phân bố không đồng đều giữa các mùa, các vùng. Mùa khô nước ta
kéo dài, lượng nước chủ yếu tập trung trong mùa mưa (chiếm 70 - 75%, trong
đó có tháng đạt đến 20 – 30% lượng mưa cả năm gây ra lũ lụt nghiêm trọng,
ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất) dẫn đến hậu quả mùa khô rất nhiều

13
nơi xảy ra tình trạng thiếu nước [46.tr319]. Cạnh tranh giữa sử dụng nước cho
thuỷ điện và các nhu cầu tiêu thụ nước khác, đặc biệt cho sản xuất nông
nghiệp ở hạ lưu một số lưu vực sông lớn đã xảy ra trong những năm gần đây,
nhất là vào mùa khô. Hơn nữa do nước ta có bờ biển dài nên nguồn nước bị
ảnh hưởng mạnh bởi xâm ngập mặn (năm 2007, Ngân hàng Thế giới đưa dự
báo Việt Nam là một trong năm nước (bốn nước còn lại là Ai Cập, Suriname,
Bahamas, Bangladesh) bị ảnh hưởng nghiêm trọng của nước biển dâng do
biến đổi khí hậu); dung tích trữ của các hồ chứa còn thấp; chất lượng nước
giảm dần do những nguồn chất thải từ đô thị và các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và từ những hoạt động khác [59].
Theo báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam năm 2003 thì tổng nhu cầu
nước tưới cho sản xuất nông nghiệp năm 2000 là 76,6 tỉ m
3
, dự báo đến năm
2010 nhu cầu này sẽ tăng lên 88,8 tỉ m
3
. Cũng theo báo cáo này thì tiêu dùng

nước sinh hoạt ở Việt Nam năm 1990 là khoảng 1,341 tỉ m
3
nhưng có thể tăng
lên đến 3,008 tỉ m
3
trong năm 2010. Mặt khác hiện nay tình trạng ô nhiễm,
suy thoái nguồn nước ở những khu vực khác nhau đang ở mức báo động.
Theo đánh giá của các cơ quan chuyên môn, tại các thành phố lớn hiện nay
nước thải sinh hoạt cũng không được xử lý, độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp
nhận nước thải đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép tới hàng chục lần. Ngay cả
nguồn nước sinh hoạt là nguồn nước có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ con
người cũng bị ô nhiễm ở mức đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu của sự ô nhiễm
trên là do việc các nhà máy, khu chế xuất, khu công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, làng nghề và các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ; các bệnh viện và
các cơ sở y tế không có hệ thống xử lý tập trung mà xả trực tiếp ra nguồn tiếp
nhận (sông, hồ, kênh, mương ). Nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng mà
lượng nước ngày càng giảm [64].
Theo tính toán sơ bộ cảnh báo đến năm 2010, lượng dòng chảy mùa cạn
của các sông, kể cả dung tích được điều tiết và lượng nước ngầm không còn
đáp ứng được nhu cầu dùng nước. Trước bối cảnh như vậy, để đảm bảo sự

14
phát triển bền vững đòi hỏi phải tiến hành những biện pháp thích hợp trong
khai thác, sử dụng, quản lý và bảo vệ tài nguyên nước. Bảo vệ môi trường
nước là nhiệm vụ trở nên cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết.
1.2.2 Các yếu tố tác động đến hoạt động bảo vệ môi trường nước
Mặc dù bảo vệ môi trường nước là nhiệm vụ cấp bách nhưng không phải
là việc một sớm một chiều có thể hoàn thiện ngay được. Nó đòi hỏi cả một
quá trình tác động và vận động một cách có tổ chức và khoa học đến nhận
thức của con người. Bảo vệ môi trường nước cũng như bảo vệ môi trường nói

chung chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như:
Thứ nhất: Nhận thức của người dân, của cộng đồng.
Con người tác động đến môi trường, giữa con người và môi trường có mối
liên hệ gắn bó mật thiết không thể tách rời. Con người khai thác môi trường
và cũng là nhân tố chủ yếu có thể bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, ở một thời
điểm, một góc độ nào đó, con người có những nhu cầu bức thiết hơn (ví dụ
như duy trì sự sống…) nên việc bảo vệ môi trường đã bị xem nhẹ hoặc không
tính toán đến. Ở các nước phát triển, khi cuộc sống con người cơ bản được
đảm bảo, họ bắt đầu quan tâm đến vấn đề môi trường. Điều đó giải thích tại
sao việc bảo vệ môi trường cũng như công cuộc nghiên cứu khoa học về môi
trường ở các nước phát triển được đầu tư và thực hiện tốt hơn ở những nước
thuộc thế giới thứ ba, nơi mà cuộc sống còn chưa được đảm bảo những nhu
cầu tối thiểu.
Việc nâng cao nhận thức cộng đồng thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng, các đoàn thể, các tổ chức xã hội, tư liệu, tranh ảnh, các chiến dịch
truyền thông, các cuộc thi viết, vẽ, tìm hiểu luật bảo vệ môi trường… giúp
mọi người dân đều hiểu rõ nguyên nhân và tác hại của ô nhiễm môi trường và
biến đổi khí hậu đối với phát triển kinh tế, xã hội và sức khoẻ con người. Từ
việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cộng đồng dân cư đối với việc bảo
vệ môi trường qua đó từng bước làm thay đổi hành vi, phong tục tập quán lạc
hậu làm ảnh hưởng xấu đến môi trường, tạo thói quen tự giác tham gia các

15
hoạt động, phong trào bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên
thiên nhiên không tái tạo.
Thứ hai: Áp lực phát triển kinh tế
Con người tác động vào môi trường trước hết là vì lợi ích kinh tế. Không
phải mọi hành vi gây ô nhiễm môi trường đều xuất phát từ nhận thức yếu
kém. Ở cả các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, dưới áp lực của
phát triển kinh tế, trước những món lợi khổng lồ các nhà đầu tư, các nhà quản

lý đã chạy theo lợi nhuận mà không quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường
nói chung và môi trường nước nói riêng. Các chủ doanh nghiệp khi đầu tư thì
chỉ chú trọng các hạ mục đầu tư cho sản xuất, còn hạ mục xử lý chất thải nói
chung và xử lý nước thải nói riêng thì thường bị xem nhẹ. Thậm chí không ít
nhà máy đã xây dựng xử lý nước thải nhưng lại không vận hành hoặc vận
hành rất hạn chế để giảm thiểu chi phí sản xuất.
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, hy sinh lợi ích môi trường sống
để đạt được tăng trưởng nhanh sẽ phải trả giá đắt hơn nhiều lần (thậm chí là
không thể khắc phục ) những tổn hại về môi trường. Vì vậy để phát triển bền
vững thì phát triển kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ môi trường, kiên quyết
loại bỏ tư tưởng “ phát triển kinh tế trước, giải quyết môi trường sau”, “ phát
triển kinh tế bằng mọi giá” bởi chúng ta đang phải chạy đua với thời gian để
cứu môi trường sống của mình.
Thứ ba: Hệ thống quản lý nhà nước về môi trường còn nhiều hạn chế
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô
nhiễm môi trường nước trong đó đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt động
quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan
quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy
rõ ô nhiễm môi trường nước là loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng
ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người cũng như sự phát triển bền
vững của đất nước. Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn
thiếu, cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa

16
phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng.
Thứ tư: Vốn đầu tư cho công tác Bảo vệ môi trường thường đòi hỏi rất lớn
trong khi nguồn ngân sách nhà nước lại có hạn. Nếu chỉ trông chờ vào nguồn
vốn từ ngân sách thì các hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường sẽ luôn
trong tình trạng hoạt động cầm chừng và không mang lại hiệu quả. Trong khi
đó, lĩnh vực môi trường thường khó thu hút được các khoản đầu tư tự nguyện

của các tổ chức, cá nhân đặc biệt là của các doanh nghiệp. Chính vì vậy cần
xây dựng chính sách từ phía nhà nước nhằm khuyến khích cũng như bắt buộc
các tổ chức, cá nhân liên quan đến nước phải có trách nhiệm đối với nguồn tài
nguyên nước trên lưu vực mình sinh sống.
Thứ năm: Sự tác động từ bên ngoài (đối với những con sông quốc tế mà
Việt Nam là hạ nguồn)
Việt Nam là nước nằm ở hạ lưu do đó có rất nhiều các con sông quan
trọng rút nước từ các nước láng giềng đổ về. Một số sông lớn ở nước ta bắt
nguồn hay có một phần lưu vực ở nước ngoài như các sông: sông Hồng, Mã,
Cả, Vàm Cỏ, Mekong. Chất lượng và trữ lượng của nước mặt của các con
sông cũng do đó mà phụ thuộc vào việc sử dụng nước ở các quốc gia vùng
thượng lưu nên việc quản lý môi trường nước ở Việt Nam không thể tách rời
quản lý sử dụng nước của các quốc gia này. Hợp tác là rất cần thiết cho việc
quản lý và bảo vệ có hiệu quả môi trường nước chung. Tuy nhiên tiến trình
quản lý sẽ chỉ đạt kết quả khi các quốc gia coi hợp tác là quyền lợi và mối
quan tâm lớn nhất của họ. Chỉ cần một quốc gia không có thiện chí thì sẽ gây
khó khăn rất lớn cho việc bảo vệ tài nguyên nước của các quốc gia khác, đặc
biệt là các quốc gia thuộc hạ lưu.
1.2.3 Các biện pháp bảo vệ môi trường nước
1.2.3.1 Biện pháp tổ chức – chính trị
Chính trị được coi là một trong những biện pháp quan trọng của bảo vệ
môi trường nói chung. Biện pháp chính trị tuy không tác động trực tiếp đến
môi trường nhưng được xem là biện pháp mang tính nền tảng, cơ sở, khởi

17
nguồn cho các biện pháp cụ thể khác. Nếu như trên thế giới, vấn đề môi
trường được các đảng phái, tổ chức sử dụng triệt để để thu hút sự ủng hộ
chính trị của quần chúng, nâng cao vai trò và tầm ảnh hưởng của Đảng mình
đối với xã hội thì ở Việt Nam, với đặc trưng chỉ có một Đảng cầm quyền;
Đảng cộng sản Việt Nam đưa vấn đề môi trường vào cương lĩnh, chiến lược

hành động của mình. Vấn đề bảo vệ môi trường trở thành các nhiệm vụ chính
trị và sẽ được Nhà nước thể chế hoá thành các chính sách pháp luật [55].
1.2.3.2 Biện pháp kinh tế
Biện pháp kinh tế là biện pháp được sử dụng khá phổ biến và có tác
dụng trong việc quản lý các vấn đề xã hội. Trong việc quản lý và bảo vệ môi
trường nước các biện pháp kinh tế cũng tỏ ra rất hiệu quả bởi nó sử dụng đòn
bẩy lợi ích kinh tế để tác động đến các chủ thể có liên quan. Thực chất của
phương pháp kinh tế trong bảo vệ môi trường là việc dùng những lợi ích vật
chất để kích thích chủ thể thực hiện những hoạt động có lợi cho môi trường,
cho cộng đồng [55].
Các biện pháp kinh tế được thực hiện trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
nói chung, bảo vệ môi trường nước nói riêng rất phong phú và đa dạng, gồm
[56]:
- Thành lập các quỹ bảo vệ môi trường (ở nước ta quỹ này mang tên
Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam);
- Áp dụng các ưu đãi về thuế đối với những doanh nghiệp, những dự án
có các giải pháp tốt về bảo vệ môi trường;
- Áp dụng thuế suất cao đối với những sản phẩm mà việc sản xuất
chúng có tác động xấu đến môi trường;
- Gắn hạn chế hoặc khuyến khích thương mại với việc bảo vệ môi
trường;
- Bên cạnh đó, việc quy định thu phí bảo vệ môi trường cũng được áp
dụng trên nguyên tắc coi nước là một loại hàng hoá, người sử dụng nước phải
trả tiền và trả phí ô nhiễm. Người dùng nước phải mất tiền mua nước và khi

18
thải nước ra môi trường cũng phải đóng một khoản phí nhất định để đầu tư
vào hệ thống xử lý nước thải chung.
Việc áp dụng các biện pháp kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc
quản lý và bảo vệ tài nguyên nước, nó thường mang lại hiệu quả cao hơn so

với các biện pháp khác.
1.2.3.3 Biện pháp khoa học – công nghệ
Việc áp dụng các biện pháp khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào giải
quyết những vấn đề môi trường được khẳng định trong nguyên tắc thứ 9 của
Tuyên bố Rio De Janerio. Biện pháp khoa học – công nghệ có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong cả quá trình quản lý và bảo vệ môi trường nước. Để vừa
phát triển kinh tế vừa bảo vệ môi trường bắt buộc phải sử dụng công nghệ
hiện đại. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay việc áp dụng biện pháp khoa học –
công nghệ còn gặp nhiều khó khăn do trình độ phát triển về khoa hoặc kỹ
thuật của chúng ra chưa cao, chi phí đầu tư cao hơn so với các biện pháp thủ
công truyền thống và hơn nữa do chúng ta chưa nhận thức được đầy đủ tầm
quan trọng của biện pháp này [55].
Tóm lại, công nghệ được xem là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn
giữa môi trường và phát triển. Việc sử dụng các thông tin khoa học để xây
dựng các cơ sở dữ liệu rất cần thiết cho quá trình lập quy hoạch quản lý tài
nguyên nước đồng thời cũng đưa ra các gải pháp khoa học tiên tiến cho việc
xử lý và bảo vệ môi trường một cách hiệu quả nhất.
1.2.3.4 Biện pháp giáo dục (bao gồm cả khía cạnh xã hội hoá)
Phổ cập kiến thức nâng cao dân trí qua các hệ thống thông tin đại chúng
có vai trò to lớn trong việc huy động thu hút các cộng đồng tham gia vào các
phong trào bảo vệ môi trường nước của địa phương. Sử dụng phương tiện
thông tin và sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý môi trường. Ý
thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường sẽ được nâng cao thông qua các
hoạt động tuyên truyền và giáo dục. Đây cũng là một nguyên tắc quan trọng
được ghi nhận trong Tuyên bố Rio De Janerio [55].

19
Các biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường có thể thực hiện dưới
nhiều hình thức, cấp độ và phạm vi khác nhau như: Đưa vào chương trình
học - Sử dụng phương tiện thông tin đại chúng - Tổ chức các hoạt động cụ thể

(như phong trào tình nguyện) - Tổ chức các diễn đàn và các cuộc điều tra xã
hội (Việt Nam hiện nay có khá nhiều Diễn đàn về môi trường; đây là dấu hiệu
đáng mừng cho thấy một bộ phận không nhỏ người dân đã thực sự quan tâm
đến việc bảo vệ môi trường).
1.2.3.5 Biện pháp pháp luật
Pháp luật đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ môi trường nước.
Các biện pháp bảo vệ môi trường nói trên tuy có tác động nhưng chắc chắn
không phát huy tác dụng nếu không có sự trợ giúp của pháp luật. Pháp luật
bản thân nó có những ưu thế đặc biệt của một công cụ quản lý mà các công cụ
khác không có được. Pháp luật thông qua các hệ thống quy phạm để điều
chỉnh hành vi xử sự của con người và được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực
nhà nước, do đó sự điều chỉnh của pháp luật trong việc quản lý và bảo vệ môi
trường nước là đặc biệt hiệu quả so với các biện pháp khác. Việc bảo vệ môi
trường nước thực hiện thông qua biện pháp pháp luật bằng các hình thức như
[55]:
Pháp luật quy định các quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi
khai thác và sử dụng tài nguyên nước. Việc khai thác tài nguyên nước một
cách có định hướng, tuân theo những tiêu chuẩn nhất định và có tính đến sự
cân bằng của môi trường sẽ hạn chế được các tác hại xấu, ngăn chặn sự suy
thoái của môi trường nước, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững của mỗi
quốc gia.
Pháp luật quy định các chế tài hình sự, kinh tế, hành chính đề buộc các
các nhân, tổ chức phải thực hiện đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật trong việc
khai thác và sử dụng tài nguyên nước. Các chế tài này vừa có tác dụng ngăn
chặn các hành vi vi phạm pháp luật môi trường nước vừa có tác dụng giáo
dục công dân tôn trọng pháp luật bảo vệ môi trường.

20
Pháp luật ban hành các tiêu chuẩn về môi trường nước để mọi cá nhân,
tổ chức trong xã hội phải tuân thủ nghiêm ngặt. Đây cũng là cơ sở pháp lý cho

việc xác định vị phạm pháp luật môi trường và cũng là cơ sở cho việc truy
cứu trách nhiệm đối với những hành vi vi phạm luật môi trường.
Pháp luật quy định trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp liên quan đến việc bảo vệ môi trường.
Một biện pháp pháp luật vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ môi
trường nước đó là xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh để điều chỉnh việc
thành lập, tổ chức, hoạt động của các tổ chức bảo vệ môi trường cũng như
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức này. Bảo vệ môi
trường là công việc rất khó khăn phức tạp. Nhà nước đóng vai trò quản lý ở
tầm vĩ mô trong khi đó ở tầm vi mô cần phải giao cho các tổ chức bảo vệ môi
trường cụ thể. Những tổ chức này sẽ thực hiện các quy định của pháp luật về
bảo vệ môi trường nước trong thực tế, và như vậy pháp luật mới thực sự phát
huy vai trò của mình.
Tóm lại, bảo vệ môi trường nước bằng pháp luật là hết sức cần thiết và
có hiệu quả cao. Trong đó việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các Uỷ ban bảo vệ môi trường - với vai trò quản lý các lưu
vực sông là điểm tiến bộ đáng được ghi nhận.
1.3 Pháp luật tài nguyên nƣớc và Uỷ ban bảo vệ môi trƣờng nƣớc
theo lƣu vực sông
1.3.1 Pháp luật tài nguyên nước
Trong những năm gần đây, hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên
nước ngày càng được bổ sung và hoàn thiện về mặt pháp lý, cấu trúc thể chế
và các cơ chế, đã phát huy vai trò tích cực trong việc huy động mọi nguồn lực
của toàn xã hội vào việc bảo vệ tài nguyên nước. Năm 1998 Luật Tài nguyên
nước đã được chính thức ban hành, tiếp theo đó là hàng loạt các văn bản pháp
quy hướng dẫn đã cung cấp các quy định về quản lý, điều hành, lưu trữ, khai
thác và sử dụng tài nguyên nước trên toàn quốc. Luật Tài nguyên nước đã quy

21
định Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) thay mặt Chính

phủ quản lý tài nguyên nước trên phạm vi toàn quốc trừ nước khoáng và nước
nóng thiên nhiên.
Về mặt thể chế, Luật Tài nguyên nước được ban hành là một bước quan
trọng trong công tác quản lý lưu vực và quản lý tài nguyên nước, trong đó đặc
biệt lưu ý đến nội dung quản lý quy hoạch lưu vực sông (quy định tại Điều
64). Quản lý tổng hợp tài nguyên nước là một trong những công tác được ưu
tiên hàng đầu trong các lưu vực sông. Nội dung Quản lý quy hoạch lưu vực
sông được quy định tại Điều 64 gồm:
- Lập, trình duyệt và theo dõi việc thực hiện quy hoạch lưu vực sông,
đảm bảo quản lý thống nhất quy hoạch kết hợp với địa bàn hành chính;
- Thực hiện việc phối hợp với các cơ quan hữu quan của các Bộ, ngành
và địa phương trong việc điều tra cơ bản, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước
của ưu vực sông và trong việc lập, trình duyệt và theo dõi việc thực hiện các
quy hoạch lưu vực sông nhánh;
- Kiến nghị giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước trong lưu vực
sông.
Luật Tài nguyên nước đã quy định nguyên tắc bảo vệ, khai thác, sử
dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước
gây ra phải theo quy hoạch lưu vực sông đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt; bảo đảm tính hệ thống của lưu vực sông, không chia cắt
theo địa giới hành chính (Điều 5 khoản 1). Việc điều hoà, phân phối tài
nguyên nước cho các mục đích sử dụng phải căn cứ vào quy hoạch lưu vực
sông, tiềm năng thực tế của nguồn nước, đảm bảo nguyên tắc công bằng
(Điều 20 khoản 1)……Tuy nhiên, Nghị định số 179/1999/NĐ-CP ngày
30/12/1999 quy định việc thi hành Luật Tài nguyên nước chưa đề cập đến các
quy định về quản lý lưu vực sông, chưa quy định nguyên tắc, nội dung quản
lý lưu vực sông, nội dung quy hoạch lưu vực sông, trách nhiệm lập và thực
hiện quy hoạch lưu vực sông, tổ chức quản lý lưu vực sông [60].

22

Và mặc dù sau khi có luật, nhiều tổ chức Quản lý tài nguyên nước đã
được thành lập (Hội đồng Tài nguyên nước quốc gia và tổ chức quản lý quy
hoạch ba sông lớn gồm: sông Hồng – Thái Bình, sông Đồng Nai và sông Cửu
Long theo Quyết định số 38 và 39/2001/QĐ/BNN-TCCB ngày 09/4/2001) với
vai trò là một cơ quan tư vấn cho Chính phủ trong lĩnh vực điều tiết, cân đối
trong khai thác và sử dụng tài nguyên nước, bảo vệ và phát triển Tài nguyên
nước bao gồm cả các quan hệ quốc tế nhưng do chưa có được quy chế hoạt
động cộng thêm nhiều hạn chế trong công tác quản lý lưu vực nên các hoạt
động còn rời rạc chưa tập trung và chưa có sự phối hợp giữa Trung ương và
địa phương. Về thực chất, đây chưa phải là các tổ chức quản lý lưu vực sông
mà chỉ là “quản lý quy hoạch” với thành phần chủ yếu là đại diện các Sở
NN&PTNT của các tỉnh thuộc lưu vực.
Ngày 11/11/2002 Bộ TN&MT được thành lập trên cơ sở Tổng cục Địa
chính, Tổng cục Khí tượng thuỷ văn, Cục Môi trường (Bộ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường), Cục quản lý tài nguyên nước (Bộ NN&PTNT) và Cục
Địa chất khoáng sản Việt Nam (Bộ Công Nghiệp) theo Quyết định số
02/2002/QH11 ngày 05/8/2002; Nghị định số 91/2002/NĐ-CP quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ TN&MT [60]. Trong đó
chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước và một bộ phận quản lý tài
nguyên nước đã chuyển từ Bộ NN&PTNT sang Bộ TN&MT. Nghị định 91
cũng tách rời chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước do Bộ TN&MT
đảm nhiệm với các chức năng về cung cấp các dịch vụ nước công cộng mà sẽ
do Bộ NN&PTNT và các Bộ ngành khác có chức năng liên quan đến các vấn
đề về nước đảm nhiệm. Cụ thể, theo Nghị định 91, Bộ TN&MT sẽ chịu trách
nhiệm về các vấn đề sau đây:
- Phân công, phân cấp điều tra cơ bản và thẩm quyền cấp, thu hồi giấy
phép về tài nguyên nước;
- Điều tra cơ bản, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước và xây dựng cơ sở
dữ liệu về tài nguyên nước;


23
- Thực hiện các biện pháp bảo vệ tài nguyên nước;
- Thường trực Hội đồng Quốc gia Tài nguyên Nước.
Trong khuôn khổ Bộ TN&MT, Cục Quản lý Tài nguyên Nước được
hình thành để triển khai công tác quản lý nhà nước đối với các vấn đề về tài
nguyên nước. Quyết định số 600/2003/QĐ-BTNMT quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý tài nguyên nước đã
được phê duyệt ngày 08/5/2003 [60].
Như vậy, giữa Luật Tài nguyên nước và Nghị định 91 đã có sự mâu
thuẫn chồng chéo khi cùng quy định chức năng quản lý tài nguyên nước cho
cả Bộ NN&PTNT và Bộ TN&MT. Cho đến năm 2004, các văn bản hướng
dẫn cơ chế chuyển giao chức năng quản lý tài nguyên nước giữa Bộ
NN&PTNT và Bộ TN&MT vẫn chưa được ban hành. Do đó, Bộ NN&PTNT
vẫn ban hành các quyết định về quản lý quy hoạch lưu vực sông (Quyết định
14/2004/QĐ-BNN ngày 09/4/2004 về việc Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt
động của Ban quản lý quy hoạch các lưu vực sông) khi mà đúng ra các văn
bản về quản lý lưu vực sông phải thuộc về chức trách của Cục Quản lý tài
nguyên nước thuộc Bộ TN&MT. Việc mỗi cơ quan trên độc lập thực hiện
nhiệm vụ được giao mà không có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên trong
hoạt động quản lý nước đã làm giảm hiệu lực và hiệu quả của quản lý nhà
nước về tài nguyên nước.
Cùng với việc sắp xếp lại chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của
các Bộ, ngành, ở cấp địa phương, Sở TN&MT ở các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, Phòng quản lý TN&MT ở các quận, huyện và tương
đương và cán bộ địa chính kiêm thực hiện trách nhiệm quản lý môi trường ở
các xã, phường và cấp tương đương đã được hình thành và chịu trách nhiệm
quản lý nhà nước về môi trường trên địa bàn.
Ngày 25/11/2005 Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng
Hòa XHCN Việt Nam thông qua. Điều 121 đã quy định chức năng quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường của Bộ TN&MT và giao Bộ NN&PTNT chủ


24
trì phối hợp với Bộ TN&MT, các cơ quan có liên quan và UBND cấp tỉnh
trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ
môi trường [60].
Tuy nhiên, sự chồng chéo về chức năng giữa Bộ TN&MT và Bộ
NN&PTNT còn kéo dài đến năm 2007 cho tới khi Văn phòng Chính phủ có
Công văn số 43 ngày 15/3/2007 thông báo ý kiến kết luận của Phó thủ tướng
Nguyễn Sinh Hùng về việc phân định chức năng, nhiệm vụ giữa Bộ TN&MT
và Bộ NN&PTNT về quản lý lưu vực sông. Sau nhiều năm bị chồng chéo về
mặt quản lý nhà nước, giờ đây tài nguyên nước và các lưu vực sông đã được
thống nhất về một mối dưới sự quản lý của Bộ TN&MT. Uỷ ban sông
Mekong Việt Nam cũng được chuyển giao từ Bộ NN&PTNT sang Bộ
TN&MT [60].
Việc quản lý lưu vực sông là một trong những nội dung chủ yếu của
quản lý tài nguyên nước. Bộ TN&MT thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về tài nguyên nước, trong đó có lưu vực sông, có các nhiệm vụ chủ yếu là:
điều tra, khảo sát, kiểm kê, đánh giá nguồn nước của lưu vực sông, điều phối,
sử dụng tổng hợp nguồn nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và
phát triển bền vững.
Từ thực tế việc quản lý lưu vực sông không chỉ quản lý về mặt số lượng
mà còn quản lý cả chất lượng nước đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các địa
phương vùng thượng lưu với các địa phương vùng hạ lưu và cho thấy không
thể tách rời quản lý tài nguyên nước với bảo vệ môi trường có liên quan đến
tài nguyên nước. Để khắc phục những nhược điểm về thể chế trong việc quản
lý lưu vực sông, gắn việc thực hiện Luật Tài nguyên nước với việc thực hiện
Luật Bảo vệ môi trường đối với lưu vực sông, cuối năm 2008 Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 120/2008/NĐ-CP về quản lý lưu vực sông. Với nghị
định này, tài nguyên nước trong lưu vực sông sẽ được quản lý theo nguyên
tắc thống nhất, không chia cắt giữa các cấp hành chính, giữa thượng nguồn và

hạ nguồn; bảo đảm sự công bằng, hợp lý và bình đẳng về nghĩa vụ và quyền

×