1
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ PHƢƠNG THÚY
AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ
TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội – 2009
2
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ PHƢƠNG THÚY
AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ
TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.50
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS. TS. Phạm Công Trứ
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
TÔI. Những kết luận của luận văn đưa ra là kết quả nghiên
cứu của tôi sau quá trình nghiên cứu và tham khảo các tài
liệu cần thiết.
Tất cả nguồn tài liệu sử dụng của các công trình nghiên
cứu khác tôi đều có trích dẫn cụ thể và chính xác.
Học viên
Lê Thị Phương Thuý
4
LỜI CẢM ƠN
Thay lời mở đầu của luận văn, em xin cảm ơn các thầy cô, gia
đình và bạn bè đã giúp đỡ em trong toàn bộ khoá học.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Phạm Công Trứ
đã tận tâm giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Học viên
Lê Thị Phương Thuý
5
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………
1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề …………………………………………
3
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu …………………………
3
3.1. Mục đích nghiên cứu …………………………………………
3
3.2. Nhiệm vụ của nghiên cứu ……………………………………
4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu …………………………………
4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ……………………………………………
5
6. Bố cục của luận văn …………………………………………………
5
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT AN TOÀN, VỆ SINH
LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về pháp luật an toàn, vệ sinh lao động ……………
6
1.1.1. Khái niệm pháp luật an toàn, vệ sinh lao động ……………
6
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động
8
1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật an toàn, vệ sinh lao động
12
1.2. Một số vấn đề cơ bản về pháp luật an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ ở
Việt Nam ……………………………………………
20
1.2.1. Đặc điểm của lao động nữ…………………………………
20
1.2.2. Sự cần thiết khách quan phải có các quy định về an toàn, vệ sinh lao động đối
với lao động nữ……………………………………
23
1.2.3. Lƣợc sử pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ ở Việt
Nam …………………………………………….
25
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM
2.1. Các quy định hiện hành về an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ
……………………………………………………………
30
2.1.1. Các quy định chung về bảo đảm an toàn,vệ sinh lao động đối với lao động nữ
…………………………………………………….
30
2.1.2. Các quy định về an toàn nghề nghiệp và bảo vệ sức khoẻ của lao động nữ
6
…………………………………………………………
33
2.1.3. Các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi hợp lý để bảo vệ sức
khoẻ của lao động nữ…………………………………
38
2.1.4. Các quy định về chế độ thai sản đối với lao động nữ ………
40
2.1.5. Giải quyết quyền lợi cho lao động nữ bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp …………………………………………….……
41
2.1.6. Quy định về thanh tra và xử lý các trƣờng hợp vi phạm quy định về an toàn,
vệ sinh đối với lao động nữ ………………………
43
2.2. Thực trạng thực hiện các quy định về an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ ở
Việt Nam ………………………………………
45
2.2.1. Thực trạng điều kiện làm việc của lao động nữ ở Việt Nam
46
2.2.2. Tình hình thực hiện các quy định về an toàn nghề nghiệp và bảo vệ sức khoẻ
của lao động nữ……………………………………
50
2.2.3 Thực tiễn áp dụng các quy định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với
lao động nữ………………………………………
57
2.2.4. Tình hình thực hiện các quy định về thai sản đối với lao động
nữ…………………………………………………………………….
68
2.2.5.Tình hình thanh tra và xử lý vi phạm đối với các doanh nghiệp không đảm bảo
quy định về an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động
nữ
73
2.3. Đánh giá khái quát về thực trạng pháp luật an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động
nữ
74
2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc ……………………………………
74
2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân
77
CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG ĐỐI
VỚI LAO ĐỘNG NỮ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM
3.1. Sự cần thiết khác quan của việc hoàn thiện pháp luật về về an toàn, vệ sinh lao động
đối với lao động nữ
84
3.2. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động đối
với lao động nữ
89
3.1.1 Về mặt chủ quan
92
3.1.2 Về mặt khách quan
93
3.3. Sửa đổi, bổ sung một số quy định an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động
nữ
93
7
3.4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật an toàn, vệ sinh lao động
đối với lao động nữ
95
KẾT LUẬN
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
8
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã mở ra một giai đoạn mới
cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Đƣờng lối đổi mới đúng đắn của Đảng
thể hiện trƣớc hết ở sự quan tâm tới nhân tố con ngƣời với chủ trƣơng coi
nguồn nhân lực luôn là trung tâm của quá trình sản xuất và là tài sản quí giá nhất
của quốc gia. Vì vậy, việc tạo ra một môi trƣờng làm việc tốt cho ngƣời lao động
là yêu cầu ngày càng cấp thiết của xã hội.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề đảm bảo an toàn,
vệ sinh lao động (ATVSLĐ) ngày càng liên quan chặt chẽ đến sự thành đạt của
mỗi doanh nghiệp, góp phần quyết định đến sự phát triển kinh tế bền vững của
mỗi quốc gia. Xây dựng một nền sản xuất an toàn với những sản phẩm có tính
cạnh tranh cao gắn liền với việc bảo vệ sức khỏe ngƣời lao động là yêu cầu tất
yếu của sự phát triển kinh tế bền vững vµ đủ sức cạnh tranh trong nền kinh tế
toàn cầu hóa.
Cùng với những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, thời gian qua
công tác ATVSLĐ ở nƣớc ta đã có những chuyển biến đáng kể về hệ thống văn
bản pháp luật và bộ máy tổ chức. Chỉ thị số 132CT/TƯ của Ban Bí thƣ Trung
ƣơng Đảng nhấn mạnh: Ở đâu, khi nào có hoạt động lao động sản xuất, thì ở đó,
khi đó phải tổ chức công tác bảo hộ lao động theo đúng phƣơng châm: Bảo đảm
an toàn để sản xuất - Sản xuất phải bảo đảm an toàn lao động [27] .
Thể chế hoá đƣờng lối của Đảng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bé Luật Lao động n¨m 2002 đã dành chƣơng IX quy định về ATVSLĐ. Trên
thực tế, rất nhiều ngành, nhiều địa phƣơng, doanh nghiệp và ngƣời sử dụng lao
động đã có những biện pháp, sáng kiến cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an
toàn vệ sinh lao động và môi trƣờng sản xuất kinh doanh.
9
Tuy vậy, công tác BHLĐ nói chung và công tác ATVSLĐ nãi riªng
ở nƣớc ta còn quá nhiều khó khăn và tồn tại cần giải quyết. Nhiều doanh nghiệp,
đặc biệt các doanh nghiệp khu vực phi chính thức mới chỉ quan tâm đầu tƣ phát
triển sản xuất, thu lợi nhuận, thiếu sự đầu tƣ tƣơng xứng để cải thiện điều kiện
làm việc an toàn cho ngƣời lao động. Vì vậy, Việt Nam đã xảy ra nhiều vụ tai
nạn lao động làm chết và bị thƣơng nhiều ngƣời, thiệt hại tài sản của Nhà nƣớc
và doanh nghiệp. Theo Cục An toàn lao động (Bộ Lao động - Thƣơng binh và
Xã hội), trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2004, mặc dù chỉ có 10% tổng số
doanh nghiệp thực hiện báo cáo về tai nạn lao động nhƣng đã cho thấy những
con số đáng bình quân mỗi năm xảy ra 4.245 vụ, làm gần 500 ngƣời chết, hơn
4.000 ngƣời bị thƣơng; có ngƣời bị tàn phế suốt đời. Hiện tại, cả nƣớc có gần 22
nghìn lao động mắc bệnh nghề nghiệp. Số vụ tai nạn lao động hằng năm tăng
17,38%. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2005, số vụ tai nạn lao động có ngƣời
chết tăng 5,5%. Theo báo cáo của 63 Sở Lao động-Thƣơng binh và Xã hội, trong
năm 2008 đã xảy ra 5836 vụ tai nạn lao động (TNLĐ) làm 6.047 ngƣời bị nạn,
có 508 vụ TNLĐ chết ngƣời làm 573 ngƣời chết, 1.262 ngƣời bị thƣơng nặng.
Có 129 vụ có từ 2 ngƣời bị nạn trở lên, đặc biệt là vụ nổ khí metan tại mỏ than
Khe Chàm ngày 08/12/2008 làm 11 ngƣời chết và 22 ngƣời bị thƣơng nặng, vụ
sập giàn cẩu tại Cảng Cái Lân ngày 15/07/2008 làm 7 ngƣời chết, 1 ngƣời bị
thƣơng nặng [95; 4/3/2009]. Điều đáng lƣu tâm là số vụ tai nạn lao động đƣợc
thống kê kể trên còn thấp hơn rất nhiều so với số vụ xảy ra trong thực tế.
Nguyên nhân chính trong các vụ tai nạn lao động do chủ sử dụng lao động
thiếu quan tâm cải thiện điều kiện làm việc an toàn, mặt khác do ý thức tự giác
chấp hành nội quy, quy chế làm việc bảo đảm an toàn lao động của ngƣời lao
động chƣa cao, thiếu sự kiểm tra, giám sát thƣờng xuyên của cơ quan thanh tra
Nhà nƣớc về an toàn lao động. Hậu quả của thực tế trên không chỉ gây thiệt hại
về tính mạng và sức khỏe của ngƣời lao động, làm thiệt hại tài sản của nhà nƣớc
mà còn ảnh hƣởng không tốt đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc.
10
Ở nƣớc ta, 50,86% dân số là nữ, tƣơng ứng với hơn 50% lao động nữ đã,
đang và ngày càng có đóng góp quan trọng vào nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên,
do những đặc điểm về tâm sinh lý, giới tính, lao động nữ thƣờng gặp khó khăn
hơn so với lao động nam trong quan hệ lao động. Cùng với quan niệm sai lệch về
Giới, những khó khăn này đã làm cho lao động nữ trở thành đối tƣợng dễ bị tổn
thƣơng hơn trong quan hệ lao động, đặc biệt là đối tƣợng lao động nữ đang
chiếm số đông trong lực lƣợng lao động trong các doanh nghiệp các loại - nơi
mà việc áp dụng pháp luật ATVSLĐ còn nhiều bất cập và tồn tại.
Với mong muốn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ nhằm góp phần bảo vệ
sự an toàn của lao động nữ trong bối cảnh nền kinh tế thị trƣờng, học viờn chọn
đề tài nghiờn cứu “An toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ trong pháp
luật lao động Việt Nam” cho luận văn thạc sĩ của mình .
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua thực tế tìm hiểu, học viên thấy đã xuất hiện một số bài báo, công
trình nghiên cứu có đề cập tới một số khía cạnh của vấn đề an toàn, vệ sinh lao
động đối với ngƣời lao động nói chung, với một số lƣợng hạn chế.
Tuy nhiên, chƣa có một công trình khoa học nào trực tiếp đi sâu vào tìm
hiểu vấn đề an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ cũng nhƣ để từ đó có
những kiến nghị xác đáng nhằm nâng cao việc bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền
lợi của đối tƣợng lao động này.
Luận văn đi vào tìm hiểu, tổng hợp một vấn đề mới với hi vọng đóng góp
một góc nhìn khái quát hơn cho việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành pháp
luật liên quan tới lao động nữ trong chế định an toàn, vệ sinh lao động.
11
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn muốn làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật an toàn,
vệ sinh lao động cũng nhƣ sự cần thiết của việc ban hành các quy định về an
toàn, vệ sinh đối với lao động nữ. Trên cơ sở đó, luận văn đi sâu phân tích các
quy định về an toàn, vệ sinh lao động và thực tế thực hiện đối với lao động nữ
trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, có tham khảo kinh nghiệm điều chỉnh pháp
luật quốc tế của các nƣớc trong lĩnh vực này.
Dựa vào những kết quả đó, luận văn đƣa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật vệ sinh, an toàn lao động và nâng cao hiệu quả áp dụng, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của nghiên cứu
Để đạt đƣợc các mục đích nghiên cứu trên, luận văn phải làm rõ những
nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật an
toàn, vệ sinh lao động cũng nhƣ sự cần thiết của việc ban hành các quy định
pháp luật về an toàn, vệ sinh đối với lao động nữ.
Thứ hai: Phân tích và đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về an
toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ và việc thực thi trên thực tế, đánh giá
những kết quả cũng nhƣ sự bất cập, nguyên nhân của sự bất cập, tồn tại.
Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật an toàn, vệ sinh lao
động đối với lao động nữ và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về an toàn,
vệ sinh lao động trong thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn đặt mục tiêu nghiên cứu hƣớng vào tìm
hiểu các quy định pháp luật về an toàn, vệ sinh đối với lao động nữ ở Việt Nam
12
(văn bản và thực tế áp dụng). Bên cạnh đó, trong chừng mực nhất định cũng có
đề cập đến các quy phạm quốc tế có liên quan.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp
luật về an toàn, vệ sinh đối với lao động nữ trong các loại hình doanh nghiệp ở
Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ của đề tài đặt ra, đã dựa trên phƣơng pháp luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Ngoài ra, luận văn sử dung các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể khác nhƣ:
phƣơng pháp lịch sử, tổng hợp, so sánh, phân tích số liệu, tài liệu, thống kê,
phƣơng pháp chuyên gia, phƣơng pháp liên ngành, …
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1:
Những vấn đề chung về pháp luật an toàn, vệ sinh lao động
đối với lao động nữ ở Việt Nam
Chương 2:
Pháp luật an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ và
thực tế thực hiện ở Việt Nam
Chương 3:
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
an toàn, vệ sinh đối với lao động nữ ở Việt Nam.
13
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT AN TOÀN, VỆ
SINH LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ Ở VIỆT NAM
1.1 Khái quát chung về pháp luật an toàn, vệ sinh lao động
1.1.1 Khái niệm pháp luật an toàn, vệ sinh lao động
An toàn, vệ sinh lao động là tổng hợp các biện pháp được tiến hành
nhằm thiết lập điều kiện làm việc tốt nhất cho người lao động, hạn chế đến mức
thấp nhất khả năng bị tai nạn lao động hoặc giảm thiểu tỷ lệ người bị mắc bệnh
nghề nghiệp trong môi trường làm việc. An toàn, vệ sinh lao động muốn đƣợc
triển khai thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn cần đƣợc thể chế hoá thành các
quy phạm pháp luật. Tập hợp các quy phạm pháp luật về an toàn vệ sinh lao
động, có tính chất bắt buộc chung đối với các đơn vị sử dụng lao động, quy định
các điều kiện an toàn, vệ sinh lao động trong môi trƣờng làm việc; các biện pháp
phòng ngừa, ngăn chặn hoặc khắc phục những yếu tố nguy hiểm, độc hại trong
môi trƣờng làm việc nhằm bảo vệ sức khoẻ ngƣời lao động; hạn chế các tai nạn
lao động và bệnh nghề nghiệp chính là pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động.
Các quy định về an toàn, vệ sinh lao động đƣợc đề cập trong các văn bản
pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban
hành (nhƣ Bộ luật lao động, Nghị định và các Thông tƣ hƣớng dẫn các quy định
của Bộ luật lao động về an toàn, vệ sinh lao động). Ngoài ra, trong các văn bản
nội bộ của công ty nhƣ thoả ƣớc, nội quy lao động hay quy chế an toàn, vệ sinh
lao động của công ty, cũng có các quy định về an toàn vệ sinh lao động. Thực
chất, các quy định này chính là sự cụ thể hoá các quy định trong các văn bản
pháp luật về an toàn vệ sinh lao động của nhà nƣớc cho phù hợp với điều kiện
sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các công ƣớc của Tổ
chức lao động quốc tế (ILO) trực tiếp hoặc gián tiếp quy định các tiêu chuẩn lao
động quốc tế về an toàn lao động và bảo vệ tính mạng, sức khoẻ của ngƣời lao
14
động tại nơi làm việc nếu đƣợc Nhà nƣớc Việt Nam thông qua cũng chính là một
loại nguồn quan trọng bổ sung các quy định cho pháp luật về an toàn, vệ sinh lao
động ở nƣớc ta.
Với mục đích bảo vệ sức khoẻ ngƣời lao động, hạn chế đến mức thấp nhất
các tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động
thƣờng bao gồm những nội dung cụ thể sau đây:
1. Các quy định về điều kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động chung áp
dụng tại nơi làm việc
2. Các quy định nhằm hạn chế ảnh hưởng của các yếu tố nguy hiểm, độc
hại đến sức khoẻ của người lao động
3. Các quy định về chế độ bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao
động hoặc bệnh nghề nghiệp
4. Các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với những
nhóm lao động đặc thù như lao động nữ, lao động chưa thành niên, lao
động là người cao tuổi, lao động là người tàn tật
5. Các quy định quy định về quyền và nghĩa vụ của người lao động,
người sử dụng lao động và trách nhiệm của Nhà nước trong công tác
an toàn, vệ sinh lao động.
Xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt trong việc bảo vệ sức khỏe của
ngƣời lao động nên việc thực hiện các quy định về an toàn, vệ sinh lao động có
tính bắt buộc cao đối với các đơn vị sử dụng lao động, với các chủ thể tham gia
quan hệ lao động. Ngoài ra, những quy định về an toàn, vệ sinh lao động trong
nội bộ công ty nhƣ quy định trong nội quy, quy chế an toàn vệ sinh lao động hay
trong thoả ƣớc của công ty đƣợc đặt ra đều nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn, thông
số kỹ thuật cần thiết đƣợc tính toán trên cơ sở khoa học. Do đó, việc thực hiện
các quy định này có tính chất bắt buộc chặt chẽ nhằm giảm thiểu đến mức thấp
nhất những nguy cơ rủi ro xảy ra, gây ảnh hƣởng đến tính mạng và sức khoẻ của
ngƣời lao động
15
Nhƣ vậy, có thể thấy pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động là một chế
định trong hệ thống pháp luật lao động. Với những nội dung và mục tiêu điều
chỉnh nhƣ đã đề cập ở trên, chế định này có tầm quan trọng đặc biệt trong việc
bảo vệ ngƣời lao động và đƣợc coi là một bộ phận không thể thiếu trong hệ
thống pháp luật lao động ở mọi quốc gia.
1.1.2 Đặc điểm cơ bản của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động
Trong thực tế, hoạt động an toàn, vệ sinh lao động thực chất là tổng hợp
các biện pháp về khoa học kỹ thuật, y tế học, vệ sinh học, pháp luật, kinh tế học
kết hợp với tuyên truyền, vận động nhằm mục đích bảo vệ tốt nhất tính mạng,
sức khoẻ ngƣời lao động, phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục hậu quả của tai
nạn lao động, hoặc bệnh nghề nghiệp. Vì vậy, pháp luật an toàn, vệ sinh lao động
khi điều chỉnh hoạt động này cũng có những điểm đặc thù khác với các chế định
pháp luật khác.
1.1.2.1. Các quy định về an toàn, vệ sinh lao động mang tính chất khoa
học kỹ thuật rõ nét.
Mọi biện pháp nhằm hạn chế, loại trừ các yếu tố nguy hiểm, có hại đến
sức khoẻ ngƣời lao động trong môi trƣờng làm việc đều xuất phát từ cơ sở khoa
học tự nhiên và đƣợc thực hiện bằng các giải pháp kỹ thuật. Các biện pháp đó
bao gồm các hoạt động điều tra khảo sát điều kiện lao động; phân tích, đánh giá
ảnh hƣởng của các yếu tố nguy hiểm, có hại đối với ngƣời lao động; giải pháp xử
lý điều kiện môi trƣờng lao động; ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật về an toàn,
vệ sinh lao động trên cơ sở từng ngành nghề; cải tiến trang bị, kỹ thuật công
nghệ sản xuất…
Phần lớn các quy định điều chỉnh hoạt động an toàn, vệ sinh lao động
mang tính chất khoa học kỹ thuật rõ ràng. Tính khoa học và tính pháp lý cùng
tồn tại trong rất nhiều các quy phạm pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động. Các
16
quy định về tiêu chuẩn ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm không khí, nồng độ bụi tối đa
trong môi trƣờng làm việc,… là những quy định thể hiện kết quả cuối cùng của
việc nghiên cứu các yếu tố khoa học, kỹ thuật, sinh học trong môi trƣờng làm
việc và sự ảnh hƣởng của nó đến sức khoẻ của ngƣời làm việc trong môi trƣờng
tƣơng ứng.
Cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền chuyển các kết quả này thành các quy
định có tính chuẩn mực về an toàn, vệ sinh lao động trong các văn bản pháp luật
có tính chất bắt buộc chung trong phạm vi toàn quốc, hoặc trong phạm vi từng
ngành. Điều đó cho thấy tính khoa học kỹ thuật là một trong những đặc điểm
riêng biệt của pháp luật về an toàn vệ sinh lao động so với các chế định pháp luật
lao động khác.
Một trong những khía cạnh quan trọng của công tác quản lý Nhà nƣớc
trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động là việc ban hành và quản lý thống nhất
hệ thống quy phạm, tiêu chuẩn kỹ thuật về an toàn, vệ sinh lao động. Theo quy
định hiện hành, các bộ ngành chức năng có trách nhiệm phối hợp ban hành và
quản lý thống nhất hệ thống tiêu chuẩn, quy phạm về an toàn, vệ sinh lao động
cấp ngành.
Về hình thức, tiêu chuẩn về an toàn, vệ sinh lao động mang đầy đủ những
yếu tố của một quy phạm pháp luật (nhƣ có tính chất bắt buộc áp dụng). Về nội
dung, nó chứa đựng những yêu cầu mặt kỹ thuật nghiêm ngặt dựa trên cơ sở
nghiên cứu khoa học về an toàn, vệ sinh lao động. Những quy chuẩn này (gồm
150 loại) có thể đƣợc áp dụng ở cấp Nhà nƣớc hoặc cấp ngành nhằm mục đích
hạn chế, ngăn ngừa các tai nạn lao động, sự cố có thể xảy ra đối với con ngƣời,
môi trƣờng hoặc thiết bị; phòng ngừa các bệnh nghề nghiệp trong quá trình lao
động.
Đối tƣợng quản lý về an toàn, lao động của Bộ LĐ -TB & XH là các loại
máy, thiết bị, vật tƣ và các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao
động trong cả nƣớc. Trƣớc đây các thiết bị, máy móc trên đƣợc quản lý theo tiêu
17
chuẩn do Nhà nƣớc ban hành, hiện nay những quy phạm an toàn thƣờng mang
tên gọi chung là Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) quy định tại Khoản 1 điều 3
Nghị định 06/ CP. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc ban hành các TCVN
nhƣng do điều kiện về kinh phí hạn chế (chỉ có từ 3 - 5 triệu đồng/ 1 TCVN),
chịu ảnh hƣởng của hệ thống tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh lao đồng của Liên Xô
cũ Một số tiêu chuẩn đã cũ, nội dung đã lạc hậu, không phù hợp so với khu
vực và quốc tế nhƣ các quy phạm về an toàn lao động trong hầm lo than, điện
lạnh, nồi hơi và các thiết bị nâng cần đƣợc xem xét lại tiêu chuẩn và ban hành
tiêu chuẩn mới cho phù hợp.
1.1.2.2. Các quy định về an toàn, vệ sinh lao động mang tính chất bắt
buộc cao.
Để các giải pháp khoa học kỹ thuật về an toàn, vệ sinh lao động đƣợc thực
hiện, Nhà nƣớc đã thể chế các biện pháp này thành quy định, tiêu chuẩn, yêu cầu
cụ thể có tính chất bắt buộc chung đối với các đơn vị sử dụng lao động, các cá
nhân ngƣời lao động và các chủ thể có liên quan khác trong quá trình áp dụng
pháp luật. Phần lớn các văn bản pháp luật trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao
động đều chứa đựng các quy định cứng, không thể thoả thuận giữa các chủ thể
khi vận dụng. Ví dụ nhƣ các quy định về điều kiện làm việc, trang thiết bị bảo hộ
lao động cá nhân, việc khám sức khoẻ định kỳ cho ngƣời lao động.
Trong chế định pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động có một số quy định
có tính chất “định khung” khi xác định quyền lợi tối thiểu của ngƣời lao động
trong việc thực hiện chế độ bồi dƣỡng bằng hiện vật, tiền bồi thƣờng cho ngƣời
bị tai nạn lao động. So sánh với cơ chế điều chỉnh của nhiều chế định pháp luật
khác của pháp luật lao động, có thể thấy các quy định về an toàn, vệ sinh lao
động mang tính chất “cứng nhắc” hơn, khó có thể có phần linh hoạt để các bên
thoả thuận trong hợp đồng lao động hay thoả ƣớc tập thể. Đó là nguyên nhân
khách quan khiến các chủ thể khi thoả thuận về điều khoản an toàn, vệ sinh lao
18
động trong hợp đồng lao động hay thoả ƣớc tập thể thƣờng ghi là “theo quy định
của pháp luật hiện hành”.
1.1.2.3. Các quy phạm pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động mang tính
chất xã hội
Việc thực hiện các quy định về an toàn, vệ sinh lao động đòi hỏi sự tham
gia của tất cả các chủ thể bao gồm ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động, các
cơ quan quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực lao động, các tổ chức xã hội và các
đoàn thể quần chúng có liên quan.
Trong quá trình lao động, việc thực hiện đúng, đủ các quy định, tiêu
chuẩn an toàn, vệ sinh lao động chính là hoạt động đảm bảo an toàn, vệ sinh lao
động của mọi chủ thể tham gia quan hệ lao động. Họ là ngƣời thực hiện, giám
sát việc thực hiện các quy định và cũng là ngƣời phát hiện các yếu tố nguy hiểm,
có hại từ đó yêu cầu, đề xuất biện pháp giải quyết nhằm góp phần đảm bảo điều
kiện lao động ngày một tốt hơn.
Do vậy, công tác an toàn, vệ sinh lao động chỉ có hiệu quả khi mọi ngành,
mọi tổ chức, cá nhân tự giác thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn, vệ
sinh lao động. Hiển nhiên, các quy định về an toàn, vệ sinh lao động thƣờng
mang tính xã hội rộng rãi và có liên quan đến nhiều đối tƣợng trong xã hội.
1.1.2.4. Pháp luật về an toàn vệ sinh lao động đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc bảo vệ tính mạng, sức khoẻ của ngƣời lao động.
Đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động là yêu cầu tất yếu, khách quan của hoạt
động sản xuất. Hoạt động sản xuất là quá trình tác động tới môi trƣờng xung
quanh, đồng thời cũng là quá trình ngƣời lao động chịu các tác động ngƣợc trở
lại của môi trƣờng lao động. Ngay từ thời sơ khai, con ngƣời đã biết cải tiến
công cụ, điều kiện lao động để tự bảo vệ mình. Do hoạt động sản xuất là một
trong những nguyên nhân gây tác hại tới môi trƣờng sống, cùng với sự phát triển
của văn minh nhân loại, những tiến bộ của trình độ, công nghệ sản xuất cũng
19
tăng lên đóng góp cho sự tiến bộ của xã hội. Mặt khác, những yếu tố đó lại làm
cho môi trƣờng sống, trong đó có môi trƣờng lao động ngày càng xấu đi do
những tác động ngày càng nhiều với các yếu tố nguy hiểm độc hại nhƣ phóng xạ,
tia tử ngoại… Môi trường lao động ngày càng đa dạng, phức tạp, nguy hiểm đòi
hỏi công tác an toàn, vệ sinh lao động phải được phát triển tương xứng.
Công tác an toàn, vệ sinh lao động đƣợc thực hiện tốt sẽ giảm thiểu các
chi phí về y tế và bảo hiểm xã hội không cần thiết cho đối tƣợng bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, cũng nhƣ góp phần bảo vệ môi trƣờng sống của con
ngƣời. Thực hiện hiệu quả công tác này là góp phần giảm tới mức thấp nhất sự
tiêu hao lao động và những tổn thất tới vật chất, con ngƣời và môi trƣờng.
An toàn lao động, vệ sinh lao động là chính sách kinh tế xã hội lớn, có ý
nghĩa quan trọng trong việc phát triển bền vững và bảo vệ sức khoẻ ngƣời lao
động. Đặc biệt trong cơ chế thị trƣờng hiện nay, khi mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận là mối quan tâm hàng đầu của các chủ doanh nghiệp thì vấn đề đảm bảo
an toàn, vệ sinh lao động càng trở nên bức xúc. Chạy theo lợi nhuận, ngƣời sử
dụng lao động tìm mọi cách để giảm mọi chi phí, bao gồm cả chi phí xây dựng
môi trƣờng lao động an toàn, vệ sinh cho ngƣời lao động. Do đó, nếu không giải
quyết thoả đáng vấn đề an toàn, vệ sinh lao động thì nền kinh tế không đảm đƣợc
sự phát triển bền vững. Điều kiện lao động xấu không chỉ ảnh hƣởng tới ngƣời
lao động trực tiếp mà còn có tác động xấu tới thế hệ lao động tƣơng lai.
Vì vậy, đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động là đảm bảo sức khoẻ, tính mạng
ngƣời lao động, duy trì nền sản xuất ổn định và tạo tiền đề góp phần cho sự phát
triển kinh tế xã hội bền vững.
1.1.3 Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật an toàn, vệ sinh lao động
20
Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về an toàn vệ sinh lao động là những tƣ
tƣởng chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình xây dựng và áp dụng các quy phạm
pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động.
1.1.3.1. Nguyên tắc Nhà nƣớc thống nhất quản lý về an toàn, vệ sinh lao động
Công tác an toàn, vệ sinh lao động có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
việc bảo vệ an toàn tính mạng, sức khoẻ ngƣời lao động, duy trì nền sản xuất tạo
tiền đề cho sự phát triển bền vững của xã hội. Trong nền kinh tế thị trƣờng hiện
nay, an toàn, vệ sinh lao động đang đặt ra nhiều vấn đề ngày càng bức xúc, đòi
hỏi phải có sự quản lý thống nhất của Nhà nƣớc, tổ chức có đủ quyền năng và
sức mạnh cƣỡng chế, với bộ máy từ trung ƣơng đến cơ sở đảm bảo việc tiến
hành hiệu quả các hoạt động quản lý về an toàn, vệ sinh lao động.
Nguyên tắc này đã đƣợc quy định tại điều 56 Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi) và đƣợc cụ thể tại Bộ luật Lao động sửa đổi:
“Chính phủ lập chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn
lao động, vệ sinh lao động, đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và
ngân sách Nhà nước. đầu tư nghiên cứu khoa học, hỗ trợ phát triển các cơ
sở sản xuất dụng cụ, trang thiết bị an toàn lao động, vệ sinh lao động,
phương tiện bảo vệ cá nhân; ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy trình, quy
phạm về an toàn lao động, vệ sinh lao động” (Điều khoản 2 điều 95) [25].
Việc quản lý của nhà nƣớc về an toàn, vệ sinh lao động mang tính chất
tập trung dân chủ. Đây là trách nhiệm của các ngành chức năng và là nghĩa vụ
của những đối tƣợng tham gia quan hệ lao động. Quyền quản lý cao nhất thuộc
về Chính phủ, bên cạnh đó có sự phân công, phân cấp quản lý cụ thể nhằm tạo
cơ chế cho các ngành chức năng đƣợc phát huy tính chủ động trong việc thực
hiện chức năng quản lý của mình nhằm mang lại hiệu quả quản lý cao nhất.
Quản lý Nhà nƣớc về an toàn, vệ sinh lao động là hoạt động tạo cơ sở
pháp lý và thiết lập điều kiện vật chất cho việc thực thi pháp luật an toàn, vệ sinh
21
lao động trên thực tế. Việc thiết lập môi trƣờng lao động phải phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế – xã hội cụ thể. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều khó
khăn, thách thức và không đồng đều, do vậy, chúng ta chƣa thể tạo dựng đƣợc
một môi trƣờng lao động lý tƣởng với việc đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động ở
mức cao nhất hoặc theo các tiêu chuẩn quốc tế.
Nhà nƣớc đã và đang cố gắng từng bƣớc đảm bảo cho ngƣời lao động
đƣợc làm việc trong môi trƣờng lao động an toàn và vệ sinh theo điều kiện hiện
có của đất nƣớc, mục đích quan trọng nhất là đảm bảo an toàn về tính mạng và
sức khoẻ ngƣời lao động nhằm xây dựng một nền kinh tế xã hội phát triển, bền
vững.
1.1.3.2. Nguyên tắc thực hiện an toàn, vệ sinh lao động là nghĩa vụ bắt
buộc đối với các bên trong quan hệ lao động.
Thực hiện pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động, các bên tham gia quan
hệ lao động bắt buộc phải tuân thủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo
những quy định mà pháp luật đã ban hành. Bộ luật Lao động sửa đổi quy định:
“Người sử dụng lao động có trách nhiệm trang bị đầy đủ phương
tiện bảo hộ lao động, bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải
thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Người lao động phải tuân thủ
các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động và nội quy lao động của
doanh nghiệp. Mọi tổ chức và cá nhân có liên quan đến lao động, sản xuất
phải tuân theo pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo vệ môi
trường” (Khoản 1 điều 95) [25].
Trong quan hệ lao động, ngƣời sử dụng lao động phải có trách nhiệm
chính trong công tác an toàn, vệ sinh lao động, họ phải đầu tƣ kinh phí cho xây
dựng, cải tạo nhà xƣởng, máy móc, trang bị phƣơng tiện đảm bảo an toàn, vệ
sinh lao động cho cá nhân và máy móc; thực hiện chế độ bồi dƣỡng bằng hiện
vật… cho ngƣời lao động theo quy định của pháp luật. Việc ngƣời sử dụng lao
22
động phải chịu chi phí cải tạo điều kiện lao động đã làm giảm sức cạnh tranh sản
phẩm của họ trên thị trƣờng.
Điều này gây nên xu hƣớng giảm đến mức thấp nhất các chi phí đầu vào
trong đó bao gồm cả chi phí dành cho công tác an toàn, vệ sinh lao động để hạ
giá thành sản phẩm. Do đó, pháp luật quy định ngƣời sử dụng lao động có nghĩa
vụ bắt buộc trong việc đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động nhằm ràng buộc trách
nhiệm của của họ khi thiết lập quá trình sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, môi trƣờng lao động an toàn, vệ sinh là một trong những yếu
tố dễ thu hút lao động có chất lƣợng cao. Ngƣời lao động sẵn sàng phát huy chất
xám và sức lực đem lại hiệu suất lao động cao cho doanh nghiệp, hơn nữa, việc
thiết kế môi trƣờng lao động an toàn, vệ sinh sẽ làm giảm các chi phí để giải
quyết các tai nạn lao động có thể xảy ra trong doanh nghiệp. Do vậy, thực hiện
an toàn, vệ sinh lao động vừa là nghĩa vụ bắt buộc đối với người sử dụng lao
động, vừa mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho họ.
Các quy định về an toàn, vệ sinh lao động có ý nghĩa bắt buộc đối với các
cơ quan nhà nƣớc có liên quan, các tổ chức và ngƣời sử dụng lao động, đồng
thời, thực hiện nó là trách nhiệm của ngƣời lao động. Để các quy định của pháp
luật lao động đƣợc thực hiện nghiêm túc và triệt để, bản thân ngƣời lao động
phải có nghĩa vụ biết và chấp hành các nội quy đó, có ý thức trong việc tự bảo vệ
tính mạng, sức khoẻ trong quá trình lao động.
Bộ luật lao động sửa đổi quy định: “… Người lao động phải tuân thủ các
quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động và nội quy lao động của doanh
nghiệp” (Khoản 1 điều 95) [25]. Các quy định đối với ngƣời lao động thƣờng
đƣợc quy định trong nội quy doanh nghiệp, thoả ƣớc lao động tập thể (nếu có) và
điều khoản về điều kiện an toàn, vệ sinh lao động trong hợp đồng lao động.
Với các quy định này, nếu ngƣời lao động không có ý thức trách nhiệm
bảo vệ sức khoẻ, tính mạng của bản thân bởi việc không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng thì dù có đƣợc làm việc trong môi trƣờng an toàn, vệ sinh tuyệt
23
đối thì tai nạn lao động vẫn có thể xảy ra. Các quy định về an toàn, vệ sinh lao
động đối với ngƣời lao động thƣờng gồm các việc nhƣ: giữ gìn và sử dụng đúng
quy trình các thiết bị bảo vệ an toàn, vệ sinh chung (thiết bị phòng cháy chữa
cháy, quạt thông gió…); bảo quản và sử dụng các phƣơng tiện bảo vệ cá nhân,
chấp hành các quy định về an toàn, vệ sinh lao động trong nội quy doanh
nghiệp…
Việc thực hiện các quy định này phụ thuộc rất lớn vào khả năng nhận thức,
ý thức của bản thân ngƣời lao động, công tác tuyên truyền về công tác an toàn,
vệ sinh lao động của các đơn vị, tổ chức có liên quan, đặc biệt là tổ chức Công
đoàn. Đồng thời, việc áp dụng nghiêm minh các biện pháp xử lý ngƣời lao động
nếu không tuân thủ các quy định về an toàn, vệ sinh lao động là hoạt động đặc
biệt quan trọng. Nhƣ vậy, việc thực hiện các quy định về an toàn vệ sinh lao
động không chỉ đảm bảo sức khoẻ, tính mạng cho chính bản thân ngƣời lao động
mà còn là nghĩa vụ bắt buộc đối với họ.
Như vậy, các quy định về an toàn, vệ sinh lao động có ý nghĩa bắt buộc
đối với tất cả các bên khi tham gia quan hệ lao động. Nguyên tắc này đƣợc quán
triệt, xuyên suốt trong quá trình xác lập quan hệ lao động, cũng nhƣ quá trình
thực hiện quy trình lao động, sản xuất. Thực hiện tốt nguyên tắc này trên thực tế
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và hạn chế đến mức thấp
nhất các tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có thể xảy ra.
1.1.3.3. Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của tổ chức công đoàn trong
lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động.
Công đoàn là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
ngƣời lao động. Với quyền hạn, trách nhiệm và cơ chế hoạt động, công đoàn là
tổ chức có nhiều khả năng nhất trong việc bảo vệ quyền của ngƣời lao động nói
chung và quyền đƣợc làm việc trong môi trƣờng an toàn, vệ sinh lao động của
ngƣời lao động nói riêng. Vì vậy, việc đề cao và đảm bảo quyền hạn, trách
24
nhiệm của tổ chức công đoàn trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động mang tính
tất yếu, khách quan.
Chƣơng XIII, Bộ luật Lao động sửa đổi quy định về quyền hạn và trách
nhiệm của tổ chức công đoàn cụ thể và chi tiết. Đây chính là việc đề cao tổ chức
công đoàn. Đồng thời, các quy định từ điều 153 đến 156 của Bộ luật và đặc biệt
trong Luật Công đoàn năm 1990, Nhà nƣớc đã quy định rất rõ trách nhiệm của
ngƣời sử dụng lao động phải tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức công đoàn đƣợc
thành lập và hoạt động. Sau sáu tháng kể từ khi doanh nghiệp đi vào hoạt động,
tổ chức công đoàn phải đƣợc thành lập và ngƣời sử dụng lao động phải thừa
nhận tổ chức đó. “Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở việc thành lập và hoạt động
công đoàn tại doanh nghiệp” [25]. Hơn thế nữa, để tạo điều kiện cho hoạt động
của công đoàn, ngƣời sử dụng lao động phải có trách nhiệm đảm bảo các phƣơng
tiện làm việc cần thiết, phải trả lƣơng và tạo điều kiện về thời gian cho ngƣời
làm công tác công đoàn.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định rất cụ thể về nội dung hoạt động
của công đoàn trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động tại các doanh nghiệp
gồm các hoạt động củng cố tổ chức, bộ máy bảo hộ lao động, xây dựng kế hoạch
bảo vệ an toàn, vệ sinh lao động cho ngƣời lao động; tự kiểm tra công tác an
toàn, vệ sinh lao động nhƣ rà soát máy móc, kẻ vẽ biển báo hiệu nguy hiểm; mua
mới và sửa chữa máy móc; khám sức khoẻ định kỳ cho ngƣời lao động nhằm
sớm phát hiện bệnh nghề nghiệp, đo đạc yếu tố vệ sinh tại nơi làm việc; tổ chức
tuyên truyền vận động về an toàn, vệ sinh lao động cho ngƣời lao động.
Ngoài ra, các tổ chức công đoàn còn tham gia các hoạt động lớn của quốc
gia về an toàn, vệ sinh lao động của quốc gia nhƣ tham gia xây dựng Chƣơng
trình Quốc gia về an toàn,vệ sinh lao động; Tuần lễ quốc gia về an toàn,vệ sinh
lao động và phòng chống cháy nổ hàng năm; và tham gia Mạng thông tin an toàn,
vệ sinh lao động đã nói lên vị trí, vai trò của tổ chức công đoàn trong hoạt động
25
đảm bảo thực hiện pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động. Bộ luật lao động sửa
đổi quy định:
“TLĐ LĐVN tham gia với Chính phủ trong việc xây dựng chương
trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, xây
dựng chương trình nghiên cứu khoa học, xây dựng pháp luật về bảo hộ
lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động” (Khoản 3 điều 95) [25].
Đối với ngƣời lao động, trong hoạt động bảo đảm việc thực hiện pháp luật
an toàn, vệ sinh lao động cho họ, tổ chức công đoàn có vai trò quan trọng và cốt
yếu trong việc tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của ngƣời lao động
trong việc yêu cầu và thực hiện pháp luật an toàn, vệ sinh lao động; trong việc
yêu cầu ngƣời sử dụng lao động xây dựng và đảm bảo điều kiện lao động đƣợc
an toàn, vệ sinh.
1.1.3.4. Tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn, vệ sinh lao động
trong các Công ƣớc có liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động mà Việt Nam đã
phê chuẩn.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tham gia và phê
chuẩn 17 công ƣớc trong đó có nhiều công ƣớc liên quan đến việc bảo đảm an
toàn, vệ sinh cho ngƣời lao động nói chung, và lao động nữ nói riêng. Khi xây
dựng khung pháp lý và chính sách về an toàn, vệ sinh lao động, Việt Nam tôn
trọng và thể hiện trong luật pháp của mình đối với các công ƣớc mà Việt Nam đã
phê chuẩn. Với các công ƣớc liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động khác của
ILO, Việt Nam luôn coi là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng trong quá trình
xây dựng pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động.
Công ước 155 (1981) về an toàn và vệ sinh lao động cuả ILO đƣợc coi
nhƣ một công ƣớc toàn diện và đầy đủ nhất về hoạt động an toàn, vệ sinh lao
động. Theo công ƣớc này, các quốc gia thành viên phải có hệ thống chính sách
quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động trong mọi ngành nghề. Việt Nam là nƣớc