Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận quản trị ngân hàng Các công cụ phái sinh tín dụng. Thực trạng và khả năng ứng dụng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.92 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Môn học: Quản trị ngân hàng
Chuyên đề 05: Các cơng cụ phái sinh tín dụng. Thực trạng và khả năng
ứng dụng tại Việt Nam


Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS. Trần Huy Hồng
Thành viên nhóm:
1. Nguyễn Tiến Dũng 0938020577

2. Trần Hồng Dũng
3. Đỗ Thị Bích Hào
4. Võ Thị Ngọc Linh
5. Huỳnh Thị Hồng Ngọc
6. Nguyễn Hoàng Lan Phương
7. Nguyễn Thị Thu Thủy
8. Trần Thị Minh Trang
Khóa: K23
Hệ: Cao học

Tp.HCM, tháng 01 năm 2015


Mục lục
I. Những vấn đề cơ bản về phái sinh tín dụng và các cơng cụ phái sinh tín dụng...........................2
1.Phái sinh tín dụng (Credit Derivative)......................................................................................2
1.1.Khái niệm...........................................................................................................................2
1.2.Phân loại............................................................................................................................3
1.3.Định giá phái sinh tín dụng................................................................................................4


1.4.Rủi ro của tín dụng phái sinh.............................................................................................4
2.Các cơng cụ phái sinh tín dụng.................................................................................................6
2.1.Hốn đổi tín dụng (Credit swap)........................................................................................6
2.2.Quyền chọn rủi ro tín dụng (Credit default Option)........................................................15
2.3.Trái phiếu liên kết tín dụng ( Credit linked note)............................................................17
3.Ngân hàng thương mại với việc sử dụng cơng cụ phái sinh tín dụng.....................................19
II. Thực tế áp dụng tín dụng phái sinh tại Việt Nam.....................................................................22
1.Sự cần thiết phải sử dụng công cụ phái sinh tài chính trong quản trị rủi ro tín dụng ở Việt
Nam............................................................................................................................................22
2.Thực tế áp dụng cơng cụ phái sinh tín dụng tại Việt Nam.....................................................23
III. Nguyên nhân làm cho các công cụ phái sinh tín dụng chưa được sử dụng rộng rãi tại Việt
Nam và giải pháp khắc phục những trở ngại đó............................................................................26
1.Nguyên nhân...........................................................................................................................26
1.1.Điều kiện về thị trường:...................................................................................................26
1.2.Điều kiện về pháp lý:.......................................................................................................27
1.3.Về nhân lực và chính sách đào tạo:.................................................................................27
1.4.Về cơng nghệ:..................................................................................................................27
2.Giải pháp.................................................................................................................................27
KẾT LUẬN....................................................................................................................................30
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................31


LỜI MỞ ĐẦU
Tín dụng là một hoạt động quan trọng trong bất cứ một ngân hàng thương mại hay
một nền kinh tế nào, một quốc gia muốn tận dụng tối ưu nguồn lực kinh tế của mình thì
nhất thiết phải cần đến hoạt động tín dụng. Cịn đối với các ngân hàng thương mại thì tín
dụng là một hoạt động cơ bản khơng thể thay thế, tín dụng mang lại nguồn thu chủ yếu
cho các ngân hàng và là hoạt động mà thơng qua đó ngân hàng thể hiện tốt chức năng
trung gian tài chính của mình. Mặc dù vậy tín dụng lại là hoạt động chứa đựng nhiều
nguy cơ tiềm ẩn mà các nhà quản lý, điều hành ngân hàng có kinh nghiệm nhất cũng

khơng thể dự đốn hết được. Và khi rủi ro tín dụng xảy ra có thể gây tổn thất cho ngân
hàng thương mại và cũng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Do vậy, hạn
chế rủi ro tín dụng giảm thiểu tổn thất có thể gặp phải là một hoạt động hết sức quan
trọng quyết định tới sự sống còn của các ngân hàng thương mại hiện đại. Đặc biệt là
trong thời kỳ hội nhập toàn cầu hiện nay, chúng ta đã gia nhập WTO, khi mà hàng loạt
các quy định pháp luật về ngân hàng đều phải thay đổi cho phù hợp với thơng lệ thế giới
thì các ngân hàng thương mại càng cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng và ứng dụng tốt
các giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng để có thể tự bảo vệ mình trước những rủi ro
tiềm ẩn. Hiện nay với thế giới tài chính ngày một phát triển, bên cạnh những phương
pháp phịng ngừa rủi ro truyền thống, cơng cụ phái sinh tín dụng ngày nay đã trở thành
một sản phẩm mới trong cơng nghệ quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại
và ngược lại, các ngân hàng thương mại đã ngày càng quan tâm hơn đến loại hình công
cụ phái sinh này để quản lý rủi ro. Trong nội dung bài tiểu luận này chúng ta sẽ cùng tìm
hiểu về các loại cơng cụ phái sinh tín dụng, và các cơng cụ phái sinh tín dụng này đã
được áp dụng tại Việt Nam như thế nào, gặp phải những khó khăn gì? Và đưa ra một số
các giải pháp đề giải quyết những trở ngại đó.

1


I. Những vấn đề cơ bản về phái sinh tín dụng và các cơng cụ phái sinh tín dụng
1. Phái sinh tín dụng (Credit Derivative)
1.1. Khái niệm
Trong tài chính, phái sinh tín dụng đề cập đến bất kỳ một trong “các công cụ và các
kỹ thuật khác nhau được thiết kế để tách và sau đó chuyển giao rủi ro tín dụng” hoặc rủi
ro của một sự kiện vỡ nợ, của một cơng ty hoặc chính phủ, người cho vay hoặc chủ nợ sẽ
chuyển rủi ro đó đến một chủ thể khác.
Cơng cụ tín dụng phái sinh là các hợp đồng tài chính được ký kết bởi các chủ thể
tham gia giao dịch tín dụng (ngân hàng, cơng ty tài chính, cơng ty bảo hiểm, nhà đầu tư,
…) nhằm đưa ra những khoản đảm bảo chống lại sự dịch chuyển bất lợi về chất lượng tín

dụng của các khoản đầu tư hoặc tổn thất liên quan đến tín dụng. Đây là công cụ hiệu quả
giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất.
Phái sinh tín dụng không đảm bảo là một công cụ mà bảo hiểm tín dụng được mua
và bán giữa các đối tác song phương mà người bán bảo hiểm không phải trả tiền trước
hoặc tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình giao dịch trừ khi xảy ra vỡ nợ. Thông
thường các hợp đồng này được giao dịch theo hợp đồng mẫu của Hiệp hội hoán đổi và
phái sinh quốc tế (ISDA). Cơng cụ phái sinh tín dụng loại này đa phần là hợp đồng hốn
đổi rủi ro tín dụng. Nếu phái sinh tín dụng được ký kết bởi một tổ chức tài chính hoặc
SPV và những khoản thanh tốn theo phái sinh tín dụng được tài trợ bằng kỹ thuật chứng
khốn hóa, tức là tổ chức tài chính hoặc SPV phát hành một nghĩa vụ nợ để hỗ trợ các
nghĩa vụ trên, gọi là phái sinh tín dụng đảm bảo.
Q trình chứng khốn hóa tổng hợp này ngày càng trở nên phổ biến trong thập kỷ
trước, với các dạng cấu trúc đơn giản, như là nghĩa vụ nợ thế chấp tổng hợp (CDOs); trái
phiếu tín dụng liên kết; CDOs phát hành đơn lẻ. Trong phái sinh tín dụng đảm bảo, các
giao dịch thường được đánh giá bởi các cơ quan xếp hạng, cho phép các nhà đầu tư có sự
phân chia rủi ro tín dụng khác nhau theo mức chập nhận rủi ro của họ.

2


Thị trường phái sinh tín dụng bắt đầu từ năm 1993 sau khi được Peter Hancock JP
Morgan thực hiện lần đầu tiên. Đến năm 1996 đã có khoảng 40 tỷ USD giao dịch nổi bật,
một nửa trong đó là các khoản nợ của các quốc gia đang phát triển.
Các sản phẩm rủi ro tín dụng là các sản phẩm phái sinh tín dụng được giao dịch phổ
biến nhất và bao gồm các sản phẩm khơng đảm bảo như hốn đổi rủi ro tín dụng và các
sản phẩm đảm bảo như nghĩa vụ nợ thế chấp.
Ngày 15/05/2007, trong một bài phát biểu liên quan đến phái sinh tín dụng và rủi ro
thanh khoản. Ơng Geither đã nói: “Cải cách tài chính đã cải thiện được khả năng đo
lường và quản lý rủi ro”.
ISDA báo cáo vào tháng 04/2007 tổng số tiền tượng trưng cho phái sinh tín dụng là

35.1 nghìn tỷ USD với giá trị thị trường 948 tỷ USD (Website của ISDA). Theo báo cáo
trong The Times ngày 15/09/2008, “Thị trường phái sinh trên toàn thế giới được định giá
là 62 nghìn tỷ USD”.
Mặc dù thị trường phái sinh tín dụng là thị trường tồn cầu, nhưng London có thị
phần 40% với phần còn lại của châu Âu khoảng 10%.
Những chủ thể chính tham gia thị trường là các ngân hàng, quỹ đầu tư, cơng ty bảo
hiểm, quỹ hưu trí, và các doanh nghiệp khác.
1.2. Phân loại
Phái sinh tín dụng cơ bản được chia thành 2 loại: phái sinh tín dụng đảm bảo và
phái sinh tín dụng khơng đảm bảo.
Phái sinh tín dụng khơng đảm bảo là một hợp đồng song phương giữa 2 đối tác,
trong đó mỗi bên có trách nhiệm thực hiện thanh tốn theo hợp đồng (đó là các khoản
thanh tốn phí và bất kỳ khoản tiền giải quyết nào) mà khơng địi hỏi tài sản khác.
Phái sinh tín dụng đảm bảo là người bán bảo hiểm (bên cho là có rủi ro tín dụng)
thực hiện thanh toán ban đầu (được sử dụng để giải quyết bất kỳ sự kiện tín dụng tiềm ẩn

3


nào). (Tuy nhiên, người mua bảo hiểm vẫn có thể gặp phải rủi ro tín dụng từ bản thân
người bán bảo hiểm. Điều này được gọi là rủi ro đối tác).
Sản phẩm phái sinh tín dụng khơng tài trợ bao gồm các sản phẩm sau:
-

Hốn đổi rủi ro tín dụng (CDS)
Hốn đổi tổng thu nhập
Quyền chọn rủi ro tín dụng
Hốn đổi rủi ro tín dụng đáo hạn liên tục (CMCDS)
….


Sản phẩm phái sinh tín dụng được tài trợ bao gồm các sản phẩm sau:
-

Trái phiếu liên kết tín dụng (CLN)
Nghĩa vụ nợ thế chấp tổng hợp (CDO)
CPDO
…..

1.3. Định giá phái sinh tín dụng
Việc định giá tín dụng phái sinh khơng phải là quá trình dễ dàng. Điều này là do:
-

Phức tạp trong việc giám sát giá thị trường của các nghĩa vụ tín dụng cơ sở.
Nắm được mức độ uy tín của người vay thường là một nhiệm vụ khó khăn vì

-

khơng dễ dàng để có thể định lượng được.
Mức độ ảnh hưởng của rủi ro thì khơng thường xun và gây khó khăn cho các nhà
đầu tư để tìm dữ liệu thực nghiệm của một cơng ty có khả năng thanh tốn đối với

-

vỡ nợ.
Mặc dù có sự trợ giúp của việc xếp hạng do các cơ quan xếp hạng công bố nhưng
họ thường xếp hạng khác nhau.

1.4. Rủi ro của tín dụng phái sinh
Trong khi phái sinh tín dụng cung cấp một cơng cụ có giá trị để quản lý rủi ro tín
dụng, các cơng cụ phái sinh này cũng có thể gây ra cho người sử dụng các rủi ro tài chính

và chi phí pháp lý mới. Giống như chứng khoán phái sinh giao dịch trên thị trường phi
tập trung (OTC) khác, phái sinh tín dụng là các hợp đồng tài chính đã thỏa thuận riêng.
Các hợp đồng này làm người sử dụng gặp phải rủi ro hoạt động, rủi ro đối tác, rủi ro
thanh khoản và rủi ro pháp lý. Ngồi ra, có sự khơng chắc chắn về tình trạng pháp lý của
4


phái sinh tín dụng và về các chi phí vốn hợp lý đối với các khoản vay ngân hàng được
bảo đảm bằng phái sinh tín dụng. Đối với hầu hết các bên tham gia hợp đồng, những rủi
ro này có thể kiểm sốt hoặc tương đối nhỏ và do đó khó có khả năng hạn chế sự phát
triển của thị trường phái sinh tín dụng.
Có lẽ, rủi ro lớn nhất của việc sử dụng phái sinh tín dụng là rủi ro hoạt động. Rủi
ro hoạt động là rủi ro mà người giao dịch có thể sử dụng bất kỳ cơng cụ phái sinh nào
một cách thiếu thận trọng để đầu cơ thay vì bảo hiểm rủi ro. Ví dụ, những tổn thất, từ
giao dịch liên quan đến phái sinh không chính thống, đã gây ra sự phá sản của Baring,
một ngân hàng đầu tư ở Anh, và góp phần làm sụp đổ Orange County Califomia. Trong
khi rủi ro hoạt động có thể cao, nó cũng có thể được kiểm sốt dễ dàng. Ví dụ, các quy
trình kiểm sốt nội bộ chặt chẽ có thể ngăn chặn người giao dịch tạo ra các vị thế không
phù hợp.
Rủi ro thứ hai là rủi ro đối tác. Đây là rủi ro mà đối tác để giao dịch sẽ bị rủi ro. Ví
dụ, trong hợp đồng hoán đổi tổng thu nhâp - TRS, Minneapolis Mutual có thể bị rủi ro
sau khi thực hiện giao dịch với Kansas Agricultural. Bởi vì trong sự kiện này, phái sinh
tín dụng có thể khơng hồn tồn loại bỏ rủi ro tín dụng.
Rủi ro thứ ba là rủi ro thanh khoản. Rủi ro thanh khoản là sự không chắc chắn về
khả năng bán hoặc bù đắp cho một vị thế được xác lập trước đây. Đối với các công ty
nắm giữ phái sinh tín dụng chặt chẽ để bảo hiểm rủi ro, rủi ro thanh khoản là tương đối
không quan trọng. Ví dụ, hãy xem xét một tổ chức phát hành trái phiếu mà sử dụng một
quyền chọn tín dụng để phịng ngừa chi phí vay nợ tương lai. Bởi vì các quyền chọn sẽ
được thiết kế đáo hạn vào ngày vay nợ, tổ chức phát hành trái phiếu chỉ đơn giản là giữ
quyền chọn cho đến khi đáo hạn. Ngược lại, rủi ro thanh khoản là một yếu tố quan trọng

đối với tổ chức phát hành phái sinh tín dụng và đối với người sử dụng phái sinh tín dụng
mà dự đốn bồi thường cho vị thế của họ trước khi hợp đồng đáo hạn. Rủi ro thanh khoản
hiện tại khá cao vì khơng có thị trường thứ cấp linh hoạt cho các chủ thể tham gia phòng
ngừa rủi ro tín dụng hoặc để bù đắp một vị thế được xác lập trước. Trong phạm vi mà thị
trường trở nên sôi động hơn, nguy cơ này sẽ giảm.
5


Rủi ro thứ tư cho người sử dụng phái sinh tín dụng là rủi ro pháp lý. Rủi ro pháp lý
là khả năng một hợp đồng phái sinh có thể được coi là bất hợp pháp hoặc không phù hợp.
Vụ phá sản Orange County cho chúng ta một ví dụ về rủi ro pháp lý. Trong nhiều năm,
County thành công trong đầu tư chứng khốn phái sinh có thu nhập ổn định, đầy rủi ro.
Tuy nhiên, một sự thay đổi lãi suất lớn và đột ngột làm giá trị các chứng khốn của nó tụt
dốc, làm County khơng thể đáp ứng các khoản ký quỹ. Bên bờ vực phá sản, County kiện
ngân hàng đầu tư đã bán các chứng khoán cho họ. County cho rằng để nó nắm giữ các
chứng khốn như vậy là bất hợp pháp và do đó các chứng khốn phái sinh là các hợp
đồng khơng phải thực hiện. Vấn đề này hiện đang được giải quyết tại tòa án. Nếu tòa án
đồng ý với lập luận của County, thì khả năng mà các bên chịu thiệt trong các giao dịch
phái sinh khác áp dụng hàng rào pháp luật để tránh tuân thủ hợp đồng phái sinh của họ sẽ
gia tăng. Một sự phát triển như vậy sẽ hạn chế mạnh mẽ sự tăng trưởng trong thị trường
phái sinh tín dụng.
2. Các cơng cụ phái sinh tín dụng
2.1. Hốn đổi tín dụng (Credit swap)
Theo hợp đồng hốn đổi này, hai ngân hàng sau khi cho vay sẽ thỏa thuận trao đổi
một phần hay toàn bộ các khoản thu nhập cho vay theo các hợp đồng tín dụng của mỗi
bên. Việc thỏa thuận sẽ được thực hiện bởi một tổ chức trung gian (có thể là một tổ chức
tín dụng khác). Tổ chức trung gian có trách nhiệm lập hợp đồng hoán đổi giữa hai bên,
đứng ra bảo đảm việc thực hiện hợp đồng của các bên và thu được phí (phí dịch vụ và phí
bảo đảm)
Việc thực hiện hợp đồng hốn đổi tín dụng giúp cho các ngân hàng tham gia đa

dạng hóa danh mục tín dụng để giảm thiểu rủi ro tín dụng (vì mỗi ngân hàng thường chỉ
cấp tín dụng cho một ngành, lĩnh vực, kỳ hạn nhất định; khi thực hiện hợp đồng này,
ngân hàng sẽ có được những khoản nợ phải thu từ ngân hàng hoạt động ở ngành, lĩnh
vực, kỳ hạn khác….)
Khoản thu gốc và lãi của NH A
Ngân hàng A

Khoản thu gốc và lãi của NH B

Khoản thu gốc và lãi của NH A
Trung gian
6

Ngân hàng B

Khoản thu gốc và lãi của NH B


2.1.1. Hợp đồng hốn đổi rủi ro tín dụng (Credit Default Swap - CDS)
Hợp đồng hốn đổi rủi ro tín dụng là một loại hợp đồng bảo hiểm trong đó một bên
mua bảo hiểm cho những tổn thất do xảy ra sự kiện tín dụng, là cơng cụ được giao dịch
trên thị trường phi tập trung (OTC). CDS thường được sử dụng với các trái phiếu đô thị,
các khoản vay của doanh nghiệp và các chứng khoán thế chấp. Người mua CDS được coi
như người mua bảo hiểm. Người mua bảo hiểm sẽ thanh tốn một khoản phí định kỳ cho
đến ngày đáo hạn và sẽ có lợi nếu sự kiện tín dụng xảy ra hoặc nếu thanh khoản tín dụng
trở nên xấu đi trong thời gian hiệu lực của hợp đồng hoán đổi.

Người mua mua CDS tại thời điểm t o và thanh tốn các khoản phí bảo hiểm tại thời
điểm t1, t2, t3 và t4. Nếu các công cụ tín dụng có liên quan khơng xảy ra sự kiện tín dụng,
sau đó người mua tiếp tục trả phí tại thời điểm t 5, t6 và tiếp tục cho đến khi kết thúc hợp

đồng tại thời điểm tn.
Tuy nhiên, nếu cơng cụ tín dụng có liên quan xảy ra sự kiện tín dụng tại thời điểm
t5, sau đó người bán trả tiền cho người mua cho việc tổn thất và người mua sẽ ngừng việc
thanh tốn phí bảo hiểm cho người bán.
Theo ISDA, sự kiện tín dụng bao gồm phá sản, mất khả năng thanh toán các nghĩa
vụ nợ, hoặc trong một số hợp đồng CDS, đó là sự tái cấu trúc lại một trái phiếu hay
7


khoản vay. Việc mua bảo hiểm có trạng thái rủi ro tín dụng giống như việc bán trái phiếu
hay khoản vay, hoặc trạng thái đoản về rủi ro.
Người bán hợp đồng hốn đổi rủi ro tín dụng được coi như người bán bảo hiểm.
Người bán sẽ nhận phí và có lợi nếu khả năng tín dụng của tổ chức tham chiếu được duy
trì ổn định hoặc được cải thiện trong thời gian hiệu lực của hợp đồng hoán đổi. Việc bán
bảo hiểm có trạng thái rủi ro tín dụng tương tự như sở hữu một trái phiếu hay khoản vay,
hay trạng thái trường về rủi ro.
Hình 1: Mơ hình hốn đổi rủi ro tín dụng

Phí CDS
Người mua CDS –
Người mua bảo hiểm

Người bán CDS – Người
bán bảo hiểm

Thanh toán khi xảy ra
sự kiện tín dụng
Tài sản tham chiếu

Nguồn: JP Morgan – Credit Derivatives Handbook

Phí CDS (CDS spread): là mức phí mà người mua bảo hiểm trả cho người bán bảo
hiểm để được bảo hiểm khi sự kiện tín dụng xảy ra. Phí CDS thường được yết theo điểm
cơ bản (basis point) hàng năm trên giá trị danh nghĩa của hợp đồng (mệnh giá của hợp
đồng).
Mức phí CDS thường phụ thuộc vào xếp hạn tín nhiệm của bên đi vay/ tổ chức phát
hành trái phiếu. Mức tín nhiệm này càng cao thì phí CDS càng thấp và ngược lại. Nếu phí
CDS của một công ty là 600 điểm cơ bản, tức là mỗi khoản vay 10 triệu USD mệnh giá
thì phí bảo hiểm rủi ro là 600.000 USD/năm. Phí CDS thay đổi, lên xuống liên tục theo
8


tâm lý nhà đầu tư và theo trạng thái hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu xếp
hạng tín nhiệm của bên đi vay (hoặc bên phát hành trái phiếu) càng thấp thì mức phí bảo
hiểm càng cao và ngược lại. Ngoài ra, nếu khoản vay/trái phiếu bị xếp hạng quá thấp thì
bên bán CDS phải đặt trước một khoản thế chấp. Tuy nhiên trên thị trường Mỹ, có một
qui tắc là nếu bên bán CDS được xếp hạng AAA (hạng cao nhất) sẽ được miễn không
phải trả đặt ký quỹ ban đầu và yêu cầu tăng đặt cọc sau đó nếu CDS bị mất giá (phí CDS
tăng).
Tuy bản chất giống như một hợp đồng bảo hiểm, song cách thức CDS được thực
hiện giống như một Hợp đồng hoán đổi (swap) thơng thường. Hai bên tham gia sẽ hốn
đổi cho nhau hai dòng tiền: Người mua trả cho người bán dịng phí CDS hàng năm trong
suốt thời hạn hợp đồng; còn người bán trả cho người mua dòng tiền bảo hiểm rủi ro.
Dòng tiền này sẽ bằng 0 nếu vỡ nợ không xảy ra và bằng giá trị khoản cho vay hoặc
mệnh giá của trái phiếu được bảo hiểm nếu bên đi vay/nhà phát hành trái phiếu bị vỡ nợ.
Thị trường giao dịch CDS dựa trên những gói quy chuẩn là 10 triệu USD cho một hợp
đồng. Khi khả năng phá sản của doanh nghiệp cao sẽ làm cho phí CDS tăng vọt. Phí CDS
được chia theo các chuẩn 1 năm, 2 năm, 5 năm và 10 năm. Tương ứng với mỗi mức thời
hạn sẽ có các mức phí bảo hiểm sẽ khác nhau (giống như các mức lãi suất kỳ hạn tại ngân
hàng). Phổ thơng nhất là phí CDS cho 5 năm.
 Phương thức thanh toán khi sự kiện tín dụng xảy ra

- Phương thức chuyển giao tài sản
Hợp đồng hốn đổi rủi ro tín dụng có thể quy định, nếu xảy ra sựu kiện tín dụng,
người mua bảo hiểm phải chuyển giao tài sản tham chiếu cho người bán bảo hiểm, đổi
TSTC (khi xảy ra sự

lại, người bán bảo hiểm phải thanh toán số tiền bằng mệnh giá của tài sản được chuyển
kiện tín dụng)
giao. Đây được gọi là phương thức chuyển giao tài sản.
Phí CDS
Hình 2: Phương thức chuyển giao tài sản
Người mua CDS – Người
mua bảo hiểm

CDS
Bảo hiểm

Mệnh giá (khi xảy
9
ra sự kiện tín dụng)

Người bán CDS –
Người bán bảo hiểm


-

Phương thức thanh tốn bằng tiền mặt

Người mua CDS khơng chuyển giao tài sản cho người bán CDS, người mua CDS sẽ
nhận được số tiền bằng mệnh giá của tài sản trừ giá trị thu hồi từ người bán.

Hình 3: Phương thức chuyển giao tiền mặt
Phí CDS
Người mua CDS –
Người mua bảo hiểm

Người bán CDS – Người
bán bảo hiểm
(1)
(2)

Tài sản tham chiếu

Giá trị thanh tốn bằng 0 khi khơng xảy ra sự
kiện tín dụng

Minh họa phương thức thanh tốn bằng tiền mặt trong CDS: Giả sử giá trừ đi giá trị thu
Giá trị thanh toán bằng mệnh giá trị danh nghĩa
hồi của bằng tiền ra sự 10 tín dụng
của hợp đồng hốn đổi rủi ro tín dụng thanh tốn TS khi xảymặt làkiện triệu USD. 30 ngày
sau khi sự kiện tín dụng xảy ra, trái phiếu được định giá 30 cent trên một đơla. Khi đó,
người bán bảo hiểm có nghĩa vụ thanh toán 7 triệu USD cho người mua bảo hiểm
( chênh lệch giữa mệnh giá - 10 triệu USD, với phần giá trị thu hồi từ trái phiếu – 30
cent * 10 triệu USD; người mua bảo hiểm không phải chuyển giao tờ trái phiếu cho bên
bán báo hiểm). Theo Daniel (2011), ngày nay, phương thức thanh toán bằng tiền mặt trở
nên phổ biến, một phần do việc khơng có đủ tài sản tham chiếu thực do dư nợ của các
hợp đồng CDS lơn hơn nhiều so với các khoản nợ thực tế của tố chức tham chiếu.
10


Nhà đầu tư hoặc đầu cơ có thể mua bảo hiểm để tự bảo hiểm rủi ro vỡ nợ của trái

phiếu và các công cụ nợ khác, bất kể nhà đầu tư hoặc đầu cơ nắm giữ quyền lợi và chịu
bất cứ rủi ro của việc tổn thất liên quan đến trái phiếu hoặc công cụ nợ. Trong trường hợp
này, CDS tương tư như bảo hiểm tín dụng, mặc dù CDS không phụ thuộc vào các quy
định bảo hiểm truyền thống chủ yếu. Ngồi ra, nhà đầu tư có thể mua và bán bảo hiểm
mà không sở hữu nợ của đơn vị tham chiếu. Những CDS khống cho phép nhà đầu tư đầu
cơ trên mức độ tin cậy về khả năng trả nợ của đơn vị tham chiếu. CDS có thể được sử
dụng đế tạo ra những quan điểm dài hạn và ngắn hạn tổng hợp trong đơn vị tham chiếu.
CDS khống chiếm phần lớn trong thị trường CDS. Ngoài ra, các CDS cũng được sử dụng
trong kinh doanh chênh lệch cấu trúc vốn.
2.1.2. Hoán đổi tổng số thu nhập ( Total return Swap - TRS)
Hoán đổi tổng số thu nhập là một giao dịch tài chính song phương giữa hai đối tác,
các đối tác trao đổi tổng thu nhập của một tài sản hoặc một rổ tài sản để đổi lấy dòng tiền
định kỳ. TRS được thiết kế để chuyển rủi ro tín dụng từ đối tác này sang đối tác khác.
TRS là một trong những công cụ phái sinh tín dụng chính được sử dụng bởi các ngân
hàng và các định chế tài chính khác để quản lý rủi ro tín dụng.
TRS được sử dụng như là cơng cụ quản lý rủi ro tín dụng và cũng là cơng cụ repo
tổng hợp cho các mục đích tài trợ. Một định nghĩa TRS được đưa ra trong Francis etal
(1999), trong đó nói rằng TRS là một thỏa thuận hốn đổi trong đó tổng thu nhập của một
khoản vay ngân hàng hoặc tín dụng chứng khốn nhạy cảm (credit –sensitive security)
được trao đổi cho một số dòng tiền khác, thường gắn liền với Libor hoặc một số khoản
vay hoặc tín dụng chứng khốn nhạy cảm khác.
Giao dịch TRS tự nó có thể đáo hạn bất kỳ lúc nào, điều đó có nghĩa là nó khơng
cần phải phụ thuộc vào kỳ hạn thanh toán của chứng khoán cơ sở (chứng khoán tham
chiếu). Trong TRS, tổng thu nhập từ tài sản cơ sở được thanh toán qua các đối tác để đổi
lấy một dòng tiền cố định hoặc thả nổi. Điều này làm cho TRS hơi khác với các phái sinh
tín dụng khác ví như: hốn đổi rủi ro tín dụng, như các khoản thanh toán giữa các đối tác
với TRS được liên kết với những thay đổi trong giá thị trường của tài sản cơ sở, cũng như
11



những thay đổi do sự xuất hiện của một sự kiện tín dụng. Vì vậy, nói cách khác, dịng
tiền TRS không chỉ liên quan đến việc xuất hiện của một sự kiện tín dụng; trong TRS rủi
ro lãi suất cũng được chuyển giao. Giao dịch cho phép người nhận được nhận lưu chuyển
tiền tệ hoàn toàn của một trái phiếu mà thực tế người nhận này không mua trái phiếu đó,
điều này làm cho nó là một sản phẩm trái phiếu lai tạp (tổng hợp) và do đó nó là một phái
sinh tín dụng. Một nhà đầu tư có thể muốn nhận lưu chuyển tiền tệ như tổng hợp về thuế,
kế tốn, vốn điều lệ, kiểm tốn bên ngồi hoặc các lý do pháp lý. Mặt khác, nó có thể dễ
dàng hơn đối với nguồn tài sản tham chiếu tổng hợp – thông qua TRS – hơn là trong thị
trường tiền mặt. Điều này đôi khi xảy ra với trái phiếu không dễ thanh khoản. Thực tế
trong một số phiên bản của TRS tài sản cơ sở là thực sự bán cho các đối tác, với một giao
dịch hoán đổi tương ứng được thỏa thuận giữa các đối tác điều này làm cho TRS giống
như một giao dịch repo tổng hợp. Trong những phiên bản khác khơng có sự thay đổi
quyền sở hữu của tài sản cơ sở.
TRS được giao dịch trên thị trường phi tập trung - OTC. Tham gia thị trường bao
gồm các ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại, các quỹ tương hỗ, các quỹ đầu tư, các
quỹ cổ phần tư nhân, quỹ hưu trí, gói hỗ trợ, người cho vay thẻ tín dụng, các cơng ty bảo
hiểm, chính phủ, phi chính phủ, ngân hàng cho vay mua nhà, ….Một loạt các cơng ty có
mục đích đặc biệt – SPV như CDO và ủy thác đầu tư bất động sản cũng tham gia vào thị
trường.
Hợp đồng hốn đổi tổng số thu nhập có 2 hình thức:
Thứ nhất, hoán đổi thu nhập giữa ngân hàng mức một tổ chức tài chính: tổ chức tài
Lãi + lãi bổ sung + với
tăng giá

chính sẽ cam kết nhận lấy một khoản thu nhập từ một hợp đồng cho vay của ngân hàng
Ngân hàng A

Ngân hàng B

(Ngân hàng thụ

hưởng)

(Ngân hàng đảm
bảo)

(bao gồm cả rủi ro kèm theo là rủi ro tín dụng) và trả cho ngân hàng này một khoản thu
nhập ổn định (thông thường cao hơn thu nhập mang lại từ trái phiếu dài hạn của chính
phủ). Điều này có nghĩa là ngân hàng chứa đựng đầy đủ rủi ro từ cho vay để nhận lấy
LIBOR + Mức giảm giá

một khoản thu nhập khác ổn định hơn.

Thứ
thu nhập giữa một ngân hàng với một ngân hàng khác: Ngân
Cho hai, hoán đổi Trả gốc
vay
và lãi
hàng A sau khi cho khách hàng vay theo hợp đồng tín dụng sẽ chuyển giao tồn bộ thu
12
Tài sản tham chiếu
hoặc khách hàng
vay


nhập từ khoản cho vay đó (bao gồm cả gốc, lãi và mức tăng giá thị trường của khoản cho
vay) cho ngân hàng B. Còn ngân hàng B sẽ cam kết thanh toán cho ngân hàng A một
khoản thu nhập ổn định (bằng lãi suất LIBOR cộng với mức điều chỉnh tăng giảm) và
thanh toán cho ngân hàng A các khoản giảm giá trị thị trường của khoản vay trên. Như
vậy, ngân hàng B sẽ gánh chịu toàn bộ rủi ro từ khoản cho vay (mà lẽ ra phải là ngân
hàng A gánh chịu). Tuy nhiên, trong tường hợp người vay mất khả năng thanh tốn thì

hợp đồng sẽ kết thúc trước hạn. Loại hợp đồng này giúp cho ngân hàng có thể đa dạng
hóa danh mục đầu tư và cho vay của mình.

Giá của tài sản thường được lấy từ một nguồn của bên thứ 3 độc lập chẳng hạn như
Bloomberg hay Reuters, hoặc là trung bình của một loạt các báo giá thị trường. Nếu
người có nghĩa vụ với tài sản cơ sở có rủi ro, hốn đổi có thể chấm dứt ngay lập tức với
một khoản thanh tốn giá trị hiện tại rịng được chuyển nhượng theo những gì giá trị này
có hoặc nó có thể được tiếp tục với mỗi bên thực hiện các khoản thanh toán được định
giá cao hoặc định giá thấp cho phù hợp. Lựa chọn thứ 2 chỉ có giá trị nếu có một thị
trường cho các tài sản, việc này khó xảy ra trong trường hợp của một khoản vay ngân
hàng. Nếu hoán đổi được chấm dứt, các đối tác sẽ chịu trách nhiệm cho người khác với
tiền lãi tích lũy cộng với bất kỳ sự tăng hoặc giảm giá của tài sản. Thông thường theo các
điều khoản của giao dịch thương mại, ngân hàng bảo lãnh có quyền lựa chọn mua tài sản
cơ sở của ngân hàng thụ hưởng, và sau đó trao đổi trực tiếp với người vỡ nợ. TRS cũng

13


có thể được giao dịch giống như một phái sinh tín dụng tài trợ trong trường hợp nó tham
gia vào với mục đích tài trợ chứ khơng phải như một giao dịch repo.
Các ngân hàng đã sử dụng một số phương pháp định giá phái sinh tín dụng và hốn
đổi tổng thu nhập. Về cơ bản giá của phái sinh tín dụng được liên kết với những cơng cụ
khác; tuy nhiên, sự khác biệt chính giữa các phái sinh tín dụng và sản phẩm ngoại bảng
khác như cổ phiếu, phái sinh tiền tệ hoặc phái sinh trái phiếu là sau này có thể được định
giá và bảo hiểm với sự tham chiếu đến tài sản cơ sở, điều này có thể có vấn đề khi áp
dụng các phái sinh tín dụng. Định giá sản phẩm tín dụng sử dụng dữ liệu thống kê về khả
năng vỡ nợ, khả năng thanh tốn, mức độ chấp nhận rủi ro và mơ hình định giá. Với một
giao dịch hoán đổi tổng thu nhập, các khái niệm cơ bản là một bên tham gia “tài trợ" một
tài sản cơ sở và chuyển tổng thu nhập của tài sản cho một bên khác để đổi lấy một thu
nhập thả nổi (Libor + spread). Mức phí này là một hàm số của:

-

Xếp hàng tín dụng của các đối tác tham gia giao dịch hoán đổi
Số lượng và giá trị của tài sản tham chiếu
Chất lượng tín dụng của tài sản tham chiếu
Chi phí huy động vốn của ngân hàng thụ hưởng
Bất kỳ yêu cầu về tỷ suất sinh lợi
Chi phí vốn liên quan đến việc hốn đổi tổng thu nhập
Các đối tác tham gia hợp đồng hoán đổi tổng thu nhập phải xem xét một số yếu tố

-

rủi ro liên quan đến việc giao dịch, trong đó bao gồm:
Khả năng người thụ hưởng TRS có thể vỡ nợ trong khi tài sản tham chiếu bị giảm

-

giá trị
Tiếp theo sự vỡ nợ của người có nghĩa vụ với tài sản tham chiếu có rủi ro của
người nhận hoán đổi tổng thu nhập trước khi khoản thanh toán giảm giá đã được
thực hiện cho người thanh toán hoặc 'nhà cung cấp'.
Đo lường rủi ro đầu tiên là một hàm số về khả năng vỡ nợ bởi người nhận hoán đổi

tổng thu nhập và biến động thị trường của tài sản tham chiếu, trong khi rủi ro thứ hai liên
quan đến khả năng tham gia của cả hai nhân tố rủi ro, cũng như khả phục hồi của tài sản.
Lợi thế của việc sử dụng hợp đồng hoán đổi tổng số thu nhập trong trường hợp này
là: Các hợp đồng hoán đổi tổng số thu nhập cho phép một bên (Ngân hàng B) có được
14



các lợi ích kinh tế của việc sở hữu một tài sản mà khơng đặt tài sản của mình trên bảng
cân đối kế toán, và cho phép người khác (ngân hàng A, không giữ lại tài sản trên bảng
cân đối của nó) để mua bảo hiểm chống lại sự mất đi giá trị của nó.
2.2. Quyền chọn rủi ro tín dụng (Credit default Option)
Quyền chọn rủi ro tín dụng (credit default option) là một quyền chọn để mua sự bảo
hộ (payer option) hoặc bán sự bảo hộ ( receiver option) như là một sự hốn chuyển rủi ro
tín dụng trên một khoản tín dụng xác định với ngày đáo hạn xác định. Quyền chọn
thường là kiểu châu Âu, chỉ thực hiện tại một ngày trong tương lai với một mức giá xác
định được xem như là lợi tức trên hoán chuyển rủi ro.
Những quyền chọn rủi ro tín dụng trên những khoản tín dụng đơn được thanh tốn
trên rủi ro mà khơng có bất cứ dịng tiền nào, dĩ nhiên người mua sẽ phải trả trước một
khoản phí. Vì thế mua quyền chọn không phải là một sự bảo vệ tốt đối với rủi ro thật sự
mà chỉ chống lại sự gia tăng trong biên độ rủi ro. Điều này có thể giải thích tại sao những
quyền chọn này khơng có tính thanh khoản cao. Tuy nhiên, những quyền chọn trên chỉ số
như iTraxx và CDX bao gồm toàn bộ rủi ro trong giá trị nội tại của quyền chọn khi được
thực hiện. Điều này được thể hiện vào những thời điểm mà quyền chọn đưa ra sự bảo hộ
đầu cuối. Kết luận có giá trị của bảo hộ đầu cuối làm phức tạp giá trị những quyền chọn
chỉ số.
Quyền chọn hợp đồng tín dụng sẽ giúp các ngân hàng giảm thiểu thiệt hại một khi
chất lượng của khoản vốn vay giảm do khơng thu được nợ hay chi phí cho vay tăng do
phải huy động vốn với lãi suất cao hơn.
 Quyền chọn mua tín dụng
Hợp đồng này được sử dụng khi ngân hàng lo ngại khoản tín dụng vừa cấp cho
khách hàng có chất lượng kém, bấy giờ ngân hàng sẽ tìm đến người bán quyền để mua
quyền chọn tín dụng với một mức phí nhất định phụ thuộc vào giá trị của khoản cho vay.
Khi đến hạn thu nợ, nếu khoản cho vay bị giảm giá, có thể do chi phí cho vay tăng hay
người đi vay không trả được nợ, ngân hàng sẽ thực hiện quyền chọn của mình để được
15



thanh tốn tồn bộ thu nhập của khoản cho vay. Trường hợp người vay thanh toán đầy đủ
và đúng hạn, ngân hàng sẽ bỏ quyền chọn và chấp nhận một khoản phí mua quyền chọn.
Thực chất là việc ngân hàng mua quyền được bù đắp thiệt hại từ rủi ro tín dụng khi
cho vay.
 Quyền chọn bán tín dụng
Hợp đồng này được sử dụng khi ngân hàng lo ngại trong tương lai khi phát hành
trái phiếu để huy động vốn mà phải trả một mức lãi suất cao hơn hiện tại do biến động
của nền kinh tế hay do ngân hàng bị giảm bậc trong xếp hạng tín dụng. Bấy giờ ngân
hàng sẽ ký hợp đồng mua quyền chọn bán rủi ro trong huy động vốn với người bán quyền
và chịu một khoản phí nhất định.
Theo hợp đồng này, nếu đến ngày phát hành trái phiếu để huy động vốn mà lãi suất
huy động cao hơn hiện tại thì ngân hàng được quyền bán trái phiếu cho người bán quyền
(option dealer) với lãi suất huy động hiện tại. Ngược lại, nếu đến ngày phát hành trái
phiếu để huy động vốn mà chi phí huy động bằng hoặc nhỏ hơn hiện tại thì ngân hàng bỏ
quyền chọn bán, cũng có nghĩa là ngân hàng chịu mất một khoản phí mua quyền chọn để
huy động vốn theo lãi suất thị trường.
Thực chất là việc ngân hàng mua quyền để được bù đắp thiệt hại từ rủi ro tín dụng
khi huy động vốn.
Trả phí quyền chọn
Người bán quyền chọn ( tổ
chức kinh doanh quyền
chọn)

Ngân hàng (mua quyền
chọn

Thanh tốn nếu chi phí TD tăng
q mức thỏa thuận hay chất
lượng TD giảm dưới mức quy
định


16


2.3. Trái phiếu liên kết tín dụng ( Credit linked note)
Trái phiếu liên kết tín dụng (CLN) là 1 chứng khốn nợ mà việc thanh tốn lãi và
nợ gốc cịn tuỳ thuộc vào khả năng thanh toán của tổ chức phát hành. Nếu khơng có sự
kiện tín dụng bất thường xảy ra thì trái chủ sẽ nhận được 1 khoản thanh tốn lãi suấtt hấp
dẫn hơn thơng thường. Đến thời kỳ đáo hạn của trái phiếu, người nắm giữ trái phiếu này
sẽ được hoàn trả theo giá trị danh nghĩa. Khi có một sự kiện tín dụng bất thường xảy ra
thì trái phiếu sẽ được hồn trả trước thay vì giá trị danh nghĩa hoặc giá trị hiện tại của của
một trái phiếu tương đương được xác định và chi trả.
Ví dụ minh họa, Ví dụ minh họa,một ngân hàng cho cơng ty XYZ vay và vào cùng
Dịng tiền trước khi CKH
thời Người phát hành trái phiếu liên kết tín dụng cho nhà đầu tư. Lãi suất trên trái phiếu
điểm đi vay
Lợi nhuận khai thác

được xác định bởi rủi ro tín dụng của cơng ty XYZ. Nguồn vốn của ngân hàng gia tăng từ
việc phát hành trái phiếu liên kết cho nhà Người khởi tạo tư vào trái phiếu có rủi ro vỡ
đầu tư được đầu
Bán
nợ thấp. Nếu công ty XYZ có thể trả được nợ thì ngân hàng phải thanh toán đầy đủ khoản
Giá

tài

bán
trái phiếu liên kết cho nhà đầu tư. Nếu XYZ phá sản, người nắm giữ trái phiếu liên kết sẽ
sản


trở thành chủ nợ của XYZ và nhận khoản nợ của XYZ. Còn ngân hàng sẽ được bồi
SPV

thường bằng lợi tức trên việc đầu tư vào trái phiếu ít rủi ro hơn được tài trợ bằng trái
phiếu liên Dòng tiền sau khi CHK
kết.

Giá
CKH
Dòng tiền trước khi CKH

Lãi

gốc

Người đi vay
Nhà đầu tư

Lợi nhuận khai thác

Người khởi tạo
Bán
tài
sản

Giá
bán
SPV


Dòng tiền sau khi CHK

Lãi

gốc

Giá
CKH

17

Nhà đầu tư


CLN thường được tạo ra thông qua một công ty có mục đích đặc biệt (SPV), hoặc
tin tưởng, được thế chấp bằng chứng khoán được đánh giá cao. CLN cũng có thể được
phát hành trực tiếp từ ngân hàng hoặc tổ chức tài chính. Nhà đầu tư mua chứng khốn từ
sự tin tưởng rằng (hoặc ngân hàng phát hành) người phát hành trả trái tức cho một phiếu
trái phiếu là cố định hoặc thả nổi trong suốt thời hạn của trái phiếu đến lúc đáo hạn.
Chứng khốn hóa có lịch sử phát triển từ năm 1977 tại Mỹ, song thực sự phát triển
mạnh từ thập kỷ 90. Các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ chấp nhận rủi ro liên quan tới
danh mục tài sản đảm bảo được đem ra chứng khốn hóa. Như vậy, người cho vay khơng
nhất thiết phải nắm giữ rủi ro tín dụng mà có thể chuyển hóa sang cho người khác một
cách dễ dàng thơng qua việc phát hành chứng khoán nợ lấy danh mục tín dụng làm tài
sản đảm bảo. Thơng thường, danh mục tín dụng được bán sang cho một cơng ty có mục
đích đặc biệt do ngân hàng lập lên và cơng ty này phát hành chứng khoán nợ cho nhà đầu
tư. Trái phiếu được phân ra thành nhiều gói (tranche) được định mức tín nhiệm với các hệ
số khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau và cuống lãi suất khác nhau. Các nhà đầu tư có
rất nhiều sự lựa chọn gói trái phiếu hình thành từ chứng khốn hóa tùy theo sở thích rủi
ro của mình.

Ngân hàng A có một danh mục tài sản tín dụng. Ngân hàng thực hiện bán rủi ro tín
dụng sang cho một cơng ty có mục đích đặc biệt (Special Purpose Vehicle – SPV) bằng
một hợp đồng hốn đổi rủi ro tín dụng. Qua đó, ngân hàng sẽ thanh tốn cho SPV (Bên
bán bảo vệ) một khoản phí bảo hiểm cố định định kỳ.
SPV mua rủi ro tín dụng của ngân hàng và chuyển giao rủi ro này cho nhà đầu tư
bằng cách phát hành trái phiếu liên kết rủi ro tín dung (CLN). Sau đó, cơng ty này dùng
tiền thu được từ phát hành trái phiếu và phí bán bảo hiểm rủi ro tín dụng để đầu tư vào
các tài sản có ít rủi ro hơn như trái phiếu chính phủ.

18


Như vây, về bản chất, nhà đầu tư mua trái phiếu thơng thường cộng với việc mua rủi
ro tín dụng của một tài sản tham chiếu, do đó nhận được lãi trái phiếu kết hợp với một
khoản phí bảo hiểm rủi ro tín dụng từ việc bán bảo hiểm rủi ro rín dụng.
Trong thời hạn trái phiếu, nếu khơng xảy ra sự kiện tín dụng nào thì nhà đầu tư sẽ
được hoàn trả toàn bộ số tiền gốc tại thời điểm đáo hạn trái phiếu. Nhưng nếu có sự kiện
tín dụng xảy ra, nhà đầu tư sẽ không nhận được toàn bộ số tiền gốc của trái phiếu, mà chỉ
nhận được số tiền gốc trừ đi tổn thất rủi ro tín dụng của gốc tài sản tham chiếu.
Lợi ích của các bên tham gia vào giao dịch trái phiếu liên kết rủi ro tín dụng
* Đối với nhà đầu tư:
- Được hưởng lợi suất cao hơn so với các trái phiếu cùng kỳ hạn thông thường
-

Hấp dẫn các nhà đầu tư như các quỹ đầu cơ, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí,…do

những loại hình cơng ty này bị giới hạn đầu tư vào các sản phẩm phái sinh tín dụng
-

Có nhiều sự lựa chọn sản phẩm với các mức lãi suất, kỳ hạn,…khác nhau tùy vào nhu


cầu của nhà đầu tư
* Đối với tổ chức phát hành:
- Giảm chi phí huy động vốn
-

Được bảo đảm 100% vốn, do vừa là bên bán bảo hiểm nhưng lại là bên mua bảo hiểm

từ nhà đầu tư. Nếu sự kiện tín dụng xảy ra, tổ chức phát hành kiểm sốt được dịng tiền
và khơng bị ảnh hưởng bởi sự kiện tín dụng này do rủi ro đã được chuyển giao sang nhà
đầu tư.
3. Ngân hàng thương mại với việc sử dụng công cụ phái sinh tín dụng
Ngân hàng thương mại (NHTM) là những thành viên chính trên thị trường các cơng
cụ phái sinh tín dụng, họ hoạt động như là người mua hoặc người bán bảo hiểm, hoặc
19


đồng thời trong vai trò của cả người mua và người bán. Số liệu từ ngân hàng thanh toán
quốc tế cho thấy, 95% các giao dịch CDS được thực hiện giữa các tổ chức tài chính.
Như vậy, phái sinh tín dụng cho phép các ngân hàng mua bán các rủi ro tín dụng
tương tự như mua bán rủi ro thị trường. Nếu như trước đây ngân hàng và các định chế tài
chính gặp phải rủi ro tín dụng thì họ khơng thể làm gì ngoại trừ việc chờ đợi và hy vọng
có thể thu hồi nợ thì giờ đây họ có thể linh hoạt trong việc quản lý danh mục của rủi ro
tín dụng bằng cách thực hiện các hợp đồng phái sinh tín dụng để bảo vệ mình tránh khỏi
những rủi ro. Bên cạnh đó, cơng cụ này rất hiệu quả giúp ngân hàng trong việc giảm
thiểu rủi ro tín dụng vì trên thực tế khi người đi vay bị phá sản, ngân hàng và nhà đầu tư
sẽ phải gánh chịu thiệt hại từ các khoản cho vay, nhà đầu tư có liên quan. Tuy nhiên,
khoản thiệt hại này có thể bù đắp bởi thu nhập từ các phái sinh tín dụng.
Giả sử có một khách hàng doanh nghiệp có tình hình hoạt động rất tốt đang muốn
thực hiện một khoản vay tại ngân hàng. Tuy nhiên, hiện tại, dư nợ tín dụng của khách

hàng, hoặc của ngành của khách hàng này tại ngân hàng đã rất lớn và ngân hàng không
thể cho vay tiếp để tránh rủi ro tập trung. Một trong những cách để tránh rủi ro tập trung
mà ngân hàng vẫn cho vay được khách hàng này đó là sử dụng CDS. CDS giúp cho rủi ro
tín dụng được chuyển sang cho một ngân hàng/ tổ chức tài chính khác – những chủ thể
khơng có khả năng thực hiện trực tiếp khoản vay với khách hàng, đồng thời ngân hàng
mua CDS vẫn giữ được mối quan hệ tốt với khách hàng. So sánh với các biện pháp
phịng ngừa rủi ro truyền thống như đa dạng hóa danh mục đầu tư, chứng khốn hóa tài
sản hay bán trực tiếp các khoản vay thì CDS khơng u cầu người mua và người bán bảo
hiểm phải điều chỉnh danh mục cho vay. Thay vào đó, trạng thái rủi ro tín dụng được
quản lý bằng việc thực hiện các giao dịch ngồi với chi phí tương đối thấp và khơng làm
ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
Hơn nữa, theo quy định an toàn vốn Basel, khi ngân hàng mua CDS cho một khoản
đầu tư rủi ro, ngân hàng có thể duy trì số vốn pháp định ít hơn cho khoản đầu tư rủi ro đó.
Nhờ đó, phần vốn tiết kiệm được có thể được sử dụng cho các mục tiêu sinh lời khác.
Theo Weistroser (2009), việc làm giảm nhu cầu vốn trên bảng cân đối của ngân hàng có
20


thể xem là một trong những động lực chủ yếu của việc sử dụng CDS tại các NHTM. Điều
này có thể được minh họa như sau: Ngân hàng có một khoản tín dụng A và đã mua bảo
hiểm cho khoản tín dụng đó, có giá trị là B. Lúc này, tài sản đã điều chỉnh rủi ro – RWA
(Risk – Weighted Asset) được xác định như sau: RWA = (A-B)*x + B*y. Trong đó x và
y là các trọng số rủi ro của người đi vay và bên bán CDS. Ví dụ, khi ngân hàng cho vay
khách hàng có xếp hạng tín nhiệm từ BBB+ đến BB- thì x =100%. Bên bán CDS có xếp
hạng tín nhiệm cao hơn từ AAA đến AA-, nên y = 20%. Nếu ngân hàng không mua CDS,
tài sản của ngân hàng là RWA= 100%*A; Nếu ngân hàng có mua CDS, RWA= (AB)*100% + B*20%. Vì mục đích phịng ngừa rủi ro nên giá trị của hợp đồng CDS (B)
thường xấp xỉ bằng giá trị của tài sản tham chiếu (A), do đó RWA là B*20%. Như vậy,
nhờ việc sử dụng CDS, tài sản đã điều chỉnh rủi ro của ngân hàng giảm, mà RWA là mẫu
số trong cơng thức tính CAR ( Capital Aquadecy Ratio), do đó, ngân hàng dễ dàng hơn
trong việc đảm bảo an tồn vốn.

Các cơng cụ phái sinh tín dụng cũng được sử dụng tại các ngân hàng trong vai trị là
các trung gian tín dụng. Ngân hàng có thể đóng vai trị là người tạo lập thị trường bằng
cách bán bảo hiểm cho những người muốn phòng ngừa rủi ro tín dụng và mua bảo hiểm
cho những khách hàng khác. Nếu ngân hàng ở trạng thái mua bảo hiểm rịng, có nghĩa là
ngân hàng đang có xu hướng sử dụng phái sinh tín dụng để phịng ngừa rủi ro, nếu họ ở
trạng thái bán bảo hiểm rịng thì điều đó có nghĩa là ngân hàng dùng cơng cụ phái sinh
trong việc tạo lập thị trường hay với mục đích đầu cơ. Một báo cáo của Fitch Rating
( 2007) cho thấy 58% các ngân hàng sử dụng phái sinh tín dụng với mục đích chính là
kinh doanh, chỉ có 30% các ngân hàng sử dụng với mục đích phịng ngừa rủi ro.
Ở góc độ kinh tế vĩ mơ, nhờ phái sinh tín dụng mà rủi ro trong nền kinh tế được
phân phối. Trong quá khứ, rủi ro tín dụng tưởng chừng chỉ này sinh trong hoạt động của
ngân hàng nay đã được mở rộng sang đối tượng khác như: công ty tài chính, quỹ đầu tư
… Những cú sốc trong nền kinh tế như vỡ nợ hay khủng hoảng trong những ngành riêng
lẻ có thể được giảm nhẹ do có sự tham gia chia sẻ từ những ngành khác, nhờ đó mà góp
phần ổn định hệ thống tài chính.Bên cạnh hiệu quả bình ổn, phái sinh tín dụng cung cấp
21


những thơng tin phụ trợ về mức đội tín nhiệm của người đi vay thơng qua giá cả của nó,
thể hiện tính thanh khoản trên thị trường. Vì thế, nó có thể cải thiện tính hiệu quả của
thơng tin trên thị trường tài chính.
II. Thực tế áp dụng tín dụng phái sinh tại Việt Nam
1. Sự cần thiết phải sử dụng cơng cụ phái sinh tài chính trong quản trị rủi ro tín
dụng ở Việt Nam
Hệ thống ngân hàng thương mại đóng một vai trị hết sức quan trọng trong việc huy
động nguồn vốn trong nền kinh tế của đất nước. Trong khoảng 10 năm gần đây, hệ thống
ngân hàng Việt Nam đã tăng trưởng mạnh kể cả về quy mơ tài sản và số lượng các ngân
hàng. Tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam có gần 100 ngân hang thương mại lơn, nhỏ
khác nhau.
Kinh nghiệm của hệ thống ngân hàng các nước phát triển là các dịch vụ ngân hàng

sẽ chiếm ưu thế cộng thêm với việc chiếc bánh thị trường cho vay trong nước ngày càng
bị chia nhỏ qua từng năm do sự gia nhập của các ngân hàng mới (trong nước lẫn nước
ngoài) và sự xuất hiện các kênh đầu tư khác, đầu tư vào thị trường chứng khoáng…) đã
làm tỷ lệ của khoản mục cho vay có xu hướng giảm đi. Tuy nhiên, tỷ lệ của các khoản
mục cho vay giảm qua các năm nhưng khơng có nghĩa là giá trị tuyệt đối của dư nợ tín
dụng của các ngân hàng cũng giảm mà vẫn tăng do tỷ lệ này được tính trên tổng tài sản
mà các ngân hàng có khuynh hướng tăng tài sản của ngân hàng mình qua các năm.
Kể từu năm 2005, ngân hàng nhà nước ban hành nhiều quy định mới về quản trị rủi
ro, an toàn hoạt động ngân hàng và quản lý tín dụng đặc biệt là quy định về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phịng rủi ro tiến dần tới các chuẩn mực quốc tế.
Bản chất cảu nợ xấu ngân hàng là do khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay khơng
hiệu quả và nó thường phát sinh sau một chu kỳ vay vốn, thậm chí sau một thời gian dài.
Nợ xấu hiện nay của các tổ chức tín dụng được tích lũy từ trước đây do môi trường kinh
doanh xấu kể từu năm 2008, khách hàng vay gặp nhiều khó khăn về tài chính và hoạt
động, vì vậy nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng có chiều hướng gia tăng nhanh
22


chóng thời gian gần đây. Trong bối cảnh dư nợ tín dụng khơng biến động nhiều từ đầu
năm 2012 trở lại đây cho thấy nợ xấu phát sinh mới chủ yếu là các khoản tín dụng đã
được cấp trước đây, đặc biệt là trong giai đonạ tăng trưởng tín dụng nhanh
Vì vậy, các ngân hàng thương mại đã đưa ra nhiều chính sách : trích lập dự phịng,
quản lý và kiểm sốt chặt chẽ rủi ro, cơ cấu lại mơ hình tổ chức quản lý rủi ro. tuy nhiên,
việc sử dụng kết hợp các biện pháp phòng ngừa rủi ro này vẫn chưa được hiệu quả. Do
đó, việc áp dụng các nghiệp vụ phái sinh là cần thiết bởi lẽ các nghiệp vụ phái sinh sẽ
phân tán rủi ro và vấn đề chính là giúp ngân hàng tạo ra tài sản có mang tính thanh khoản
trên cơ sở những tài sản kém thanh khoản, tạo cho ngân hàng một nguồn vốn mới từ các
khoản vay của mình.
2. Thực tế áp dụng cơng cụ phái sinh tín dụng tại Việt Nam
Trong tiến trình hội nhập kinh tế Quốc tế, Hệ thống tài chính Việt Nam đã có những

bước phát triển rất quan trọng theo hướng hội nhập với thông lệ quốc tế và chuẩn mực
Quốc tế. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, cơng cụ tài chính phái sinh và thị trường cơng
cụ tài chính phái sinh vẫn chưa phát triển, việc mua bán cơng cụ tài chính phái sinh được
rất ít doanh nghiệp hoặc tổ chức tài chính thực hiện trong quá trình hoạt động kinh doanh
của mình, đồng thời thị trường chính thức chưa được thiết lập, thị trường phi chính thức
nhỏ lẻ và hoạt động khơng thường xun. Loại cơng cụ tài chính phái sinh được phổ biến
nhiều nhất ở Việt Nam là cơng cụ tài chính phái sinh tiền tệ. Ngồi ra, một ít ngân hàng
thương mại Việt Nam đang được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện thí điểm một
số loại cơng cụ tài chính phái sinh khác như cơng cụ tài chính phái sinh về tín dụng, hốn
đổi lãi suất, quyền chọn về vàng, kỳ hạn về hàng hóa.
Trên thị trường tài chính ở Việt nam, các nghiệp vụ phái sinh bắt đầu xuất hiện
khoảng 5 năm trước đây và đến nay xuất hiện nhiều loại công cụ phái sinh chuẩn và
không chuẩn đang được thực hiện.Tuy nhiên, cơ sở pháp lý các các nghiệp vụ phái sinh
cịn mang tính thí điểm và đơn lẻ, ngoại trừ giao dịch hoán đổi lãi suất đã có qui chế của
NHNN ( Quyết định số 1133/2003/QĐ - NHNN, ngày 30/9/2003 ban hành kèm theo qui
23


×