Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

ÔN THI VÀO 10 RÔ BIN XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.57 KB, 12 trang )

ÔN THI VÀO 10 RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG
(Trích Rô-bin-xơn Cru-xô của Đ. Đi-phô)
I- GỢI Ý
1. Tác giả:
Đi-phô (1660-1731) là nhà văn Anh, sinh ở Luân Đôn.
Ông là nhà văn có tư tưởng tiến bộ, thể hiện qua những tác
phẩm nổi tiếng như: Rô-bin-xơn Cru-xô, Thủ lĩnh Xinh-gơ-
tơn, Đại tá Jêc, Rô-xa-na,
2. Tác phẩm:
Văn bản này được trích từ tác phẩm nổi tiếng Rô-bin-xơn
Cru-xô của Đi-phô, một nhà văn Anh, sống vào khoảng cuối
thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII- Cách thời đại ngày nay đến
gần 300 năm nhưng Rô-bin-xơn Cru-xô vẫn được nhiều bạn
đọc say mê, không chỉ bởi cốt truyện li kì, hấp dẫn mà còn
bởi văn phong mới mẻ, hiện đại, vừa trong sáng vừa dí dỏm.
Rô-bin-xơn Cru-xô là lời ca ngợi lao động, ca ngợi sức
mạnh của con người trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên.
Đoạn trích trong sách giáo khoa kể chuyện lúc Rô-bin-xơn
đã một mình sống ở ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
3. Tóm tắt:
Có thể chia đoạn trích là hai phần: một phần tả trang
phục, một phần tả diện mạo. Trang phục thì kì cục còn diện
mạo cũng hài hước không kém, tuy vậy, qua cách miêu tả
của tác giả, bạn đọc có thể hình dung được ít nhiều những
gian nan vất vả mà nhân vật đã phải trải qua, đồng thời cảm
nhận được một nghị lực phi thường, tình yêu cuộc sống
mãnh liệt được biểu hiện qua những lời nhân vật tự miêu tả
mình, nhất là qua tiếng cười chỉ chực bật ra sau những câu
chữ.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
1. Có thể chia đoạn trích là hai phần: một phần tả trang


phục, một phần tả diện mạo. Trang phục thì kì cục còn diện
mạo cũng hài hước không kém, tuy vậy, qua cách miêu tả
của tác giả, bạn đọc có thể hình dung được ít nhiều những
gian nan vất vả mà nhân vật đã phải trải qua, đồng thời cảm
nhận được một nghị lực phi thường, tình yêu cuộc sống
mãnh liệt được biểu hiện qua những lời nhân vật tự miêu tả
mình, nhất là qua tiếng cười chỉ chực bật ra sau những câu
chữ.
2. Có lẽ rất lâu nữa, nhân loại vẫn còn phải nhắc đến câu
nói nổi tiếng của Đô-xtôi-ép-xki: "Cái đẹp cứu thế giới".
Thế giới sẽ mãi trường tồn chừng nào con người còn tin yêu
cái đẹp và không ngừng sáng tạo ra cái đẹp.
Điều gì đã khiến Rô-bin-xơn Cru-xô, một người bị tách
rời khỏi xã hội văn minh đến hơn hai mươi tám năm trời,
xung quanh không người thân thuộc, trong tay chỉ có vài
món vật dụng thô sơ, không những đã sống sót mà còn có
thể tạo dựng cho mình một cuộc sống ngày càng đầy đủ và
phong phú hơn? Chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời khi đọc
cuốn truyện, thậm chí, chỉ cần đọc những dòng miêu tả qua
một đoạn trích rất ngắn này.
Thông thường trong những hoàn cảnh tương tự người ta
rất dễ tuyệt vọng. Không tuyệt vọng sao được khi chứng
kiến toàn bộ thuỷ thủ đoàn bị chết, chỉ còn mỗi mình bị
quăng lên hoang đảo, tương lai hoàn toàn mờ mịt, không
biết khi nào mới về được quê hương. Sự tuyệt vọng nếu
không giết chết con người thì cũng dễ làm cho người ta trở
nên ngày càng tàn tạ, dẫn đến đầu hàng số phận, gục ngã
trước hoàn cảnh.
Lời văn trong truyện (cụ thể là trong đoạn trích này)
giống như những dòng nhật kí ghi lại một cách tỉ mỉ và chi

tiết từng diễn biến, sự kiện đã và đang xảy ra. Tuy vậy,
chúng ta không hề nhận thấy cảm giác tuyệt vọng hay buồn
chán. Thay vào đó là tiếng cười sảng khoái, tràn đầy niềm
tin của một người đã không ngừng đấu tranh để vượt lên trên
hoàn cảnh, không bao giờ từ bỏ niềm hi vọng được trở về
với cuộc sống bình thường.
Mở đầu đoạn trích, nhân vật "tôi" đã tưởng tượng: "Nếu
có ai đó ở nước Anh gặp một kẻ như tôi lúc bấy giờ, chắc tôi
sẽ làm cho họ hoảng sợ hoặc phá lên cười sằng sặc; và lắm
khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười
tưởng tượng tôi lang thang khắp miền Y-oóc-sai với trang bị
và áo quần như vậy ". Có thể nhận thấy ngay rằng, không
cần phải trở về nước Anh, ngay lúc đó nhân vật "tôi" cũng
đang "phá lên cười sằng sặc" bởi cái bộ dạng kì quái của
mình. Từ cái mũ "to tướng, cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì",
chiếc áo có vạt "dài tới khoảng lưng chừng hai bắp đùi" cho
đến cái quần "loe đến đầu gôi", lại thêm một đôi chẳng biết
nên gọi là bít tất hay là giày, tất cả đều bằng da dê. Điều đó
trước hết cho thấy một sự thực: Rô-bin-xơn đã không còn lấy
một mảnh vải mà may áo quần (làm gì có thứ vải nào còn lại
được qua mấy chục năm trời?). Nhưng đằng sau đó là một sự
thật đáng khâm phục: để có thể tồn tại được, Rô-bin-xơn đã
làm tất cả những gì có thể (trong truyện kể anh ta còn thuần
hoá và nuôi được cả dê, trồng được lúa mạch để làm bánh ).
Những thứ trang phục kì quái ấy (mũ, quần áo, giày, đai lưng
để đeo các vật dụng sinh hoạt, ô che nắng mưa ) đều được
chế tạo phù hợp nhằm thay thế một cách tốt nhất cho quần áo
thông thường. Chỉ qua trang phục thôi, chúng ta cũng đã thấy
ý chí và nghị lực của nhân vật "tôi" lớn đến mức nào. Thay vì
bị hoàn cảnh éo le khuất phục, Rô-bin-xơn đã không ngừng

lao động, cải tạo nó để nó phục vụ cho cuộc sống của mình.
Phần cuối đoạn trích là mấy dòng dành để tả diện mạo.
Không nhiều và cũng không thật cụ thể như khi tả trang
phục nhưng mỗi chi tiết đều rất đặc sắc, khắc hoạ rất rõ chân
dung của nhân vật lúc bấy giờ.
Quả thật, nếu không phải là lời văn mà là anh chàng Rô-
bin-xơn ấy hiện lên sừng sững trước mắt ta với bộ dạng ấy
thì hoặc là ta phải "khiếp sợ" hoặc là "phá lên cười sằng sặc"
như chính lời nhân vật "tôi" dự đoán. Một bộ trang phục từ
đầu đến cuối toàn bằng da dê (trong hoàn cảnh ấy, dù có tỉ
mẩn đến đâu cũng khó có thể gọi là đẹp), quanh người lỉnh
kỉnh toàn vật dụng (cưa, rìu, thuốc súng ), trên mép ngất
nghểu một bộ ria "dài đến mức có thể dùng treo mũ"
Có lẽ bởi sợ hung mạo ấy sẽ gây ấn tượng không tốt đến
bạn đọc nên ngay câu đầu tiên tả diện mạo, tác giả đã "rào
trước đón sau": "Còn về diện mạo của tôi, nó không đến nỗi
đen cháy như các bạn có thể nghĩ về một kẻ chẳng quan tâm
tí gì đến da dẻ của mình lại sống ở vào khoảng chín mười độ
vĩ tuyến miền xích đạo".
Có thể nói yếu tố có giá trị lớn nhất, gây ấn tượng mạnh
mẽ nhất đối với bạn đọc chính là lời văn miêu tả. Con người
luôn tự trào lộng về mình ấy cũng là con người ý thức rất rõ
về giá trị và nghị lực của mình. Chỉ riêng việc chăm chút
cho bộ ria thôi, Rô-bin-xơn cũng đã tính toán rất kĩ: một
"cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ
Kì tôi gặp ở Xa-lê vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu
như người Thổ ". Nếu chỉ nhìn ở khía cạnh bề ngoài thì sự
chăm chút ấy chẳng có nghĩa gì (thậm chí có thể coi là vô
tích sự), thế nhưng đó lại là minh chứng rõ ràng nhất cho
tình yêu cuộc sống, cho khát vọng trở về với cuộc sống bình

thường của Rô-bin-xơn.
Hầu như trong cả đoạn trích này, nhân vật "tôi" không
hề tỏ ra cô đơn. Dù đang sống một mình trên hòn đảo hoang
vu, xa cách loài người cả về không gian và thời gian, cách
miêu tả của Rô-bin-xơn luôn mang đến cho ta cảm giác nhân
vật đang sống giữa xã hội thân thuộc và vui nhộn của mình.
Cảm giác về cuộc sống bình thường không hề mất đi, trái
lại, nó càng được bộc lộ sâu sắc và mãnh liệt hơn. Mở đầu là
sự hình dung gặp một ai đó "ở nước Anh", cụ thể hơn là
cảnh lang thang "khắp miền Y-oóc-sai", những tấm da dê
được khâu rất khéo thành bộ trang phục đủ lệ bộ như của
con người, xén một bộ ria thì luôn hình dung do giống người
này mà lại không giống người khác, kết thúc lại là cảnh
"mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh". Khao
khát trở về với cuộc sống bình thường mãnh liệt đến mức tác
giả luôn hình dung mình đang sống, đang dạo khắp nước
Anh, thậm chí cả châu Âu và châu Phi.
Dù chỉ là một đoạn trích nhưng Rô-bin-xơn ngoài đảo
hoang đã giúp chúng ta hình dung rất rõ những gian nan, vất
vả mà nhân vật đã phải trải qua, đồng thời ca ngợi tinh thần
lạc quan, ý chí vượt lên mọi khó khăn gian khổ của con người.
BỐ CỦA XI-MÔNG
(G. đơ Mô-pa-xăng)
I - GỢI Ý
1. Tác giả:
- Guy-đơ Mô-pa-xăng (1850-1893) là nhà văn Pháp,
từng tham gia chiến tranh Pháp − Phổ (1870). Sau chiến
tranh, do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông lên Pa-ri để
kiếm sống, bắt đầu tạo dựng cuộc sống cho mình.
Mô-pa-xăng là tác giả của các tác phẩm nổi tiếng: tiểu

thuyết Một uộc đời, Ông bạn đẹp và hơn ba trăm truyện
ngắn.
2. Tác phẩm:
Văn bản này là phần đầu của một truyện ngắn viết về
một chú bé không có bố. Tình cảnh éo le đó đã gây cho chú
biết bao chuyện phiền toái, thậm chí chú còn nghĩ đến
chuyện tự tử. Nhờ có tấm lòng nhân hậu của một bác công
nhân, chú bé không những đã có bố mà còn có thể tự hào về
bố của mình.
3. Tóm tắt:
Có thể chia văn bản này thành bốn đoạn:
- Đoạn 1 (từ đầu đến "em chỉ khóc hoài"): nỗi tuyệt
vọng của Xi-mông;
- Đoạn 2 (tiếp đến "Người ta sẽ cho cháu một ông
bố"): bác Phi-líp gặp Xi-mông và an ủi em;
- Đoạn 3 (tiếp đến "bỏ đi rất nhanh"): bác Phi-líp đưa
Xi-mông về với mẹ và nhận làm bố của em;
- Đoạn 4 (còn lại) Xi-mông đến trường, khoe với các
bạn và tin tưởng rằng mình em có một ông bố tên là Phi-líp.
II- GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Đối với một chú bé, việc không có bố thật phiền hà, nhất
là khi người ta không thể biết bố của chú là ai. Mẹ của Xi-
mông vì lầm lỡ mà sinh ra chú, bởi thế không những bạn bè
trong lớp không chơi với chú mà còn khinh ghét, hành hạ
chú.
Đoạn trích được mở đầu với đoạn miêu tả thời tiết thật
ấm áp, dễ chịu. Sở dĩ như thế vì Xi-mông vừa mới khóc
xong, nước mắt đã làm vơi đi phần nào nỗi tủi hờn đang đè
nặng trong tâm trí.
Một chú bé dù sao cũng chỉ là một chú bé, nghĩa là nhớ

đấy rồi lại quên ngay đấy. Nỗi buồn chóng qua đi và cũng dễ
trở lại bất cứ lúc nào. Vì nắm vững tâm lí của trẻ em nên
đoạn miêu tả này của Mô-pát-xăng không rơi vào trạng thái
quá bi thảm sầu não (mặc dù trước đó, thậm chí chú bé còn
nghĩ đến chuyện tự tử). Sau khi khóc chán, chú chơi đuổi bắt
con nhái bén rồi từ đó lại nhớ nhà, nhớ đến hoàn cảnh tồi tệ
của mình và khóc hoài.
Sự xuất hiện của bác Phi-líp thật đúng lúc. Tấm lòng
nhân hậu của người thợ già khiến chú bé nguôi đi nỗi tủi
hờn. Tâm trí non nớt của chú chưa thể hiểu được "Người ta
sẽ cho cháu một ông bố" nghĩa là như thế nào, miễn là chú
có bố. Và thế là chú bé ngoan ngoãn theo bác về nhà.
Những suy nghĩ của bác Phi-líp cũng khá thú vị. Ban
đầu chỉ vì thương chú bé, bác lựa lời an ủi. Nhưng khi biết
chú là con của người đàn bà đẹp nhất vùng, bác lại mỉm
cười. Nụ cười đầy ẩn ý được nhà văn diễn giải: "có lẽ trong
thâm tâm, bác nhủ thầm rằng một tuổi xuân đã lầm lỡ rất có
thể lỡ lầm lần nữa". Suy nghĩ ấy xem ra không được trong
sáng lắm nhưng dẫu sao cũng khiến cho câu chuyện thêm
phần thú vị.
Nhưng đó chỉ là ý nghĩ thoáng qua. Ngay khi gặp mẹ của
chú bé, bác lập tức hiểu ra rằng người phụ nữ ấy hoàn toàn
không thích hợp với ý định bỡn cợt của bác. Bác trở về với
những suy nghĩ hoàn toàn nghiêm túc. Đây chính là điểm
nhấn quan trọng cắt nghĩa thái độ của bác sau này.
Có lẽ trước khi nghe được câu chuyện giữa hai mẹ con, bác
Phi-líp không hiểu được rằng vấn đề lại phức tạp đến thế. Khi
Xi-mông chạy đến bên bác và hỏi:
− Bác có muốn làm bố cháu không?
Nhìn mẹ chú bé "lặng ngắt và quằn quại vì hổ thẹn"

khiến bác cũng chưa biết nên trả lời chú như thế nào. Nhưng
khi chú bé nói:
− Nếu bác không muốn, cháu sẽ quay trở ra nhảy xuống
sông chết đuối.
Sự việc diễn ra đường đột và quá nhanh. Nhà văn không
miêu tả chi tiết, chỉ thuật lại cuộc đối thoại đang diễn ra.
Mặc dù vậy, bạn đọc vẫn có thể hình dung sự bối rối của bác
khi nghe câu hỏi của chú bé. Trả lời như thế nào đây để chú
bé yên lòng mà vẫn không xúc phạm đến người mẹ? Ban
đầu bác đưa đẩy:
− Có chứ, bác muốn chứ.
Khi chú bé hối thúc, hỏi tên bác, bác đã đáp rất gọn:
− Phi-líp.
Đó không còn là lời đáp cho qua chuyện, lại càng không
phải là sự bỡn cợt. Đó là thái độ hết sức nghiêm túc của người
thợ trước hoàn cảnh bất ngờ. Để nâng đỡ, che chở một tâm
hồn ngây thơ, non nớt, người thợ quyết định mở lòng mình ra
để đón nhận chú bé. Đó cũng không phải là sự ép buộc mà là
niềm vui khi thấy mình đã làm được một việc có ích. Bởi thế,
khi chú bé nói: "Thế nhé, bác Phi-líp, bác là bố cháu đấy nhé",
người thợ đã nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má em.
Không cần nói thêm một lời nào, đó chính là sự thừa nhận tự
nguyện và vui vẻ. Bác bỏ đi rất nhanh như để che giấu những
cảm xúc của mình (và cũng để tránh cho người phụ nữ khỏi
cảnh khó xử).
Người thợ chắc không thể đánh giá hết việc làm của mình
có ý nghĩa quan trọng đến mức nào đối với chú bé. Bằng
việc nhận làm bố chú bé, bác đã mang đến cho chú niềm tin,
đồng thời còn giúp chú có thêm sức mạnh để chống lại
những lời chế giễu đầy ác ý của lũ trẻ. Khi bị chúng trêu

chọc như mọi ngày, thay vì bỏ chạy, chú bé đã đáp trả bằng
giọng đầy tự hào:
− Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-líp.
Đó là một câu trả lời khá bất ngờ đối với bọn trẻ. Ai cũng
biết Xi-mông không có bố, vậy mà giờ đây chú ta lại đường
hoàng bảo: "bố tao tên là Phi-líp". Bởi vậy, ngay sau câu nói
của chú, "khắp xung quanh dậy lên những tiếng la hét thích
thú:
− Phi-líp gì? Phi-líp nào? Phi-líp là cái gì? Mày lấy đâu
ra Phi-líp của mày thế?".
Lũ trẻ có thể tin, cũng có thể không tin, nhưng rõ ràng
đối với Xi-mông, điều đó có ý nghĩa thật đặc biệt. Bằng
chứng là sau khi cứng cỏi đáp trả lũ trẻ, chú không bỏ chạy
như mọi khi mà sẵn sàng đứng lại thách thức chúng. Tình
cảm bao dung, nhân hậu của người công nhân già đã mang
đến cho chú sự tự tin, điều mà trước đó do mặc cảm, chú
chưa bao giờ có được.
Đó cũng là tình cảm yêu thương con người được biểu
hiện một cách giản dị mà sâu sắc trong tác phẩm của Mô-
pát-xăng.

×