Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

CÂU TRẢ LỜI THI CUỐI KỲ MÔN LICH SỬ ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.86 KB, 47 trang )

1
Câu 1: Phân tích quan điểm của Đảng “ Tăng trưởng kinh tế cần gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội trong từng thời kỳ và trong cả quá trình”

Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản
lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, các chỉ tiêu để đo tăng trưởng kinh tế thường
được sử dụng là mức tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), GDP
bình quân đầu người và các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác. Nội hàm tăng trưởng kinh tế là tăng
lên về số lượng trong một thời gian nhất định, khái niệm này chưa thể hiện đầy đủ chất lượng
của sự tăng trưởng.
Tiến bộ xã hội là sự vận động của xã hội từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ lạc hậu đến văn
minh hiện đại. Tiến bộ xã hội trước hết phải xuất phát từ con người, vì con người và hướng tới sự
tiến bộ của con người. Sự tiến bộ xã hội còn thể hiện ở sự phát triển ngày càng cao hơn của cơ sở
hạ tầng, kiến trúc thượng tầng và ý thức xã hội.
Công bằng xã hội là khái niệm mang tính chuẩn tắc phụ thuộc vào quan niệm khác nhau của mỗi
giai cấp, mỗi quốc gia. Công bằng xã hội là sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân,
công bằng trong phân phối thu nhập, cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội. Như vậy,
công bằng xã hội là một khái niệm rất rộng, bao gồm cả yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Những thước đo chủ yếu về công bằng xã hội là: Chỉ số phát triển con người (HDI); Đường cong
Lorenz; Hệ số GINI; mức độ nghèo khổ; Mức độ thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những cái đích cần hướng tới của các quốc
gia hiện nay. Tuy nhiên, việc nhìn nhận mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội ở những quốc gia khác nhau là không giống nhau; vì vậy, cách giải quyết vấn đề cũng đi theo
những xu hướng khác nhau.
Đại hội VIII của Đảng đánh dấu bước phát triển mới trong chỉ đạo về vấn đề này. Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã
hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã
hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản
xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của
mình"
Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là khát vọng của tất cả các quốc gia và trong


mọi thời đại. Tuy nhiên, việc đạt được mong muốn kép này là hết sức khó khăn và trong thực
tiễn đã có những ý kiến cho rằng có sự đối lập giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã
hội. Giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội luôn luôn là yêu
cầu đặt ra trong suốt quá trình phát triển kinh tế xã hội ở các nước. Bài toán đặt ra hiện nay đối
với các quốc gia là thực hiện tăng trưởng kinh tế trước, sau đó mới thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội hay đặt tiến bộ và công bằng xã hội lên trước, sau đó mới chú trọng cho việc tăng
trưởng kinh tế hay giải quyết hài hòa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội? Thực tế ở
nhiều quốc gia cho thấy không thể thực hiện tiến bộ hay công bằng xã hội trước nếu như không
bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao, liên tục theo hướng phát triển bền vững. Mặt khác, nếu sự
tăng trưởng kinh tế không bảo đảm thực hiện hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội thì sự tăng
trưởng này cũng không có ý nghĩa. Những chính sách chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế có thể làm
gia tăng tình trạng bất bình đẳng. Mặt khác, những chính sách dựa trên ưu tiên mục tiêu tiến bộ
và công bằng xã hội có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng kinh tế, kết cục cả mục
2
tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế đều không thực hiện được.
Có quan điểm cho rằng, tăng trưởng kinh tế là yếu tố quyết định sự sống còn của một đất nước;
vì vậy, cần tập trung cho tăng trưởng kinh tế. Với quan niệm như vậy, nhiều quốc gia đã đạt được
mức tăng trưởng kinh tế cao, song lại phải đối mặt với nhiều vấn đề xã hội. Theo nhiều nhà
nghiên cứu, sự phát triển của Trung Quốc trong những năm vừa qua đã đi theo mô hình này. Nhờ
quyết tâm đổi mới và chính sách ưu tiên tập trung phát triển kinh tế, trong hơn hai mươi năm cải
cách, mở cửa, kinh tế Trung Quốc đã đạt mức tăng trưởng cao, xếp vào hàng các nước có mức
tăng trưởng đứng đầu thế giới. Song, rất nhiều vấn đề vốn được coi là hậu quả xã hội do tập
trung quá mức cho tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc đang được đặt ra, như ưu tiên quá mức cho
tăng trưởng GDP, xem nhẹ sự phù hợp giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, phần lớn nhân
dân ít được hưởng lợi từ sự tăng trưởng kinh tế; sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các
nhóm xã hội, giữa các vùng, miền ngày càng tăng; môi trường bị hủy hoại nghiêm trọng do tài
nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức Nhận định về tình hình này, ông Chi Fu lin - Chủ tịch
Viện Nghiên cứu và phát triển Trung Quốc cho rằng, thách thức lớn nhất mà Trung Quốc phải
đối mặt hiện nay là sự mất cân đối ngày càng tăng trong phát triển kinh tế và phát triển xã hội, là
nguy cơ tiềm ẩn mâu thuẫn và khủng hoảng xã hội đang cản trở sự phát triển của Trung Quốc(1).

Hiện nay, Trung Quốc đang cố gắng đổi mới phương thức phát triển kinh tế theo chiều hướng kết
hợp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội.
Từ thực tế phát triển ở nhiều nước, chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đã đưa ra lời
cảnh báo về 5 kiểu tăng trưởng kinh tế cần phải tránh. Đó là:
1. Tăng trưởng không việc làm – kiểu tăng trưởng kinh tế nhưng không mở rộng những cơ hội
tạo thêm việc làm, hoặc phải làm việc nhiều giờ và có thu nhập thấp.
2. Tăng trưởng không lương tâm – kiểu tăng trưởng mà thành quả của nó chủ yếu đem lại lợi ích
cho người giàu, còn người nghèo được hưởng ít, thậm chí số người nghèo còn tăng thêm, khoảng
cách giàu nghèo gia tăng.
3. Tăng trưởng không có tiếng nói – kiểu tăng trưởng kinh tế không kèm theo sự mở rộng nền
dân chủ hay là việc tạo thêm quyền lực, chặn đứng tiếng nói khác và dập tắt những đòi hỏi được
tham dự nhiều hơn về xã hội và kinh tế.
4. Tăng trưởng không gốc rễ – kiểu tăng trưởng khiến cho nền văn hóa của con người trở nên
khô héo.
5. Tăng trưởng không tương lai – kiểu tăng trưởng mà thế hệ hiện nay đã phung phí những
nguồn lực mà các thế hệ tương lai cần đến(2).
Ngược lại, cũng có quan điểm cho rằng, công bằng xã hội là ước mơ của con người ở mọi thời
đại; vì vậy, cần đạt tới một xã hội công bằng càng nhanh càng tốt. Do nôn nóng muốn có ngay
một xã hội không còn áp bức, bất công, mọi người được sống tự do và bình đẳng, một số nước
đã bất chấp quy luật phát triển kinh tế - xã hội, không căn cứ vào điều kiện lịch sử - cụ thể và
nhanh chóng tiến hành công hữu hóa toàn bộ tư liệu sản xuất, thực hiện phân phối bình quân, cào
bằng. Quan niệm về công bằng xã hội một cách cực đoan như vậy đã tạo thành lực cản đối với
tăng trưởng kinh tế, làm cho nền kinh tế của các nước theo mô hình này rơi vào khủng hoảng.
Thực tế này đã buộc các nước đó phải thay đổi cách nhìn trước đây của mình về mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội theo chiều hướng khác.
Ở nước ta, trong những năm đổi mới, đường lối của Đảng cũng như chính sách của Nhà nước đã
thể hiện quan điểm mới, sâu sắc và toàn diện trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội. Điều này được phản ánh một cách nhất quán trong các văn kiện lớn
của Đảng và trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong suốt thời kỳ đổi mới.
3

-Đảng ta nhấn mạnh rằng, phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp
khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa nông thôn với nông thôn, giữa thành thị với thành
thị, giữa các tầng lớp xã hội.
Tựu trung lại, có thể khái quát quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề này trên một số điểm cơ
bản sau:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng
xã hội phải tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế chứ không phải là nguyên nhân kìm hãm tăng
trưởng kinh tế .
Tăng trưởng kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để giải quyết vấn đề xã hội. Không thể
có công bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế kém phát triển, cũng không thể có một nền kinh
tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững trong một xã hội mà con người ốm yếu về thể chất,
trình độ dân trí thấp và một bộ phận đáng kể lực lượng lao động chưa được đào tạo, thất nghiệp,
nghèo đói. Ngay cả trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự thống
nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội cũng luôn là một đòi hỏi khách quan, tất yếu.
Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, lực lượng sản xuất thấp kém, không đồng đều, cơ
cấu dân số đông, việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội ở nước ta phải
tính đến mục tiêu phát triển kinh tế. Để công bằng xã hội có nội dung thực chất và tạo động lực
phát triển kinh tế, cần dứt khoát từ bỏ phương thức phân phối bình quân, cào bằng, bao cấp; khắc
phục tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước; xoá bỏ lối quản lý xin - cho Chẳng hạn, trong chiến
lược xóa đói giảm nghèo ở nước ta, một mặt, cần tăng cường sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ
chức xã hội trong các chương trình xóa đói giảm nghèo; mặt khác, cần tăng cường các hoạt động
giám sát, định hướng, tổ chức giúp người dân thoát nghèo một cách vững chắc theo kiểu "dạy
người dân cách tự câu lấy cá cho mình".
Thứ hai, để công bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ.
C.Mác đã chỉ rõ, công bằng là sự thể hiện yêu cầu bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và
hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Điều này có nghĩa là những người khác nhau nhưng cống
hiến ngang nhau thì hưởng thụ như nhau. Nói cách khác, xã hội đối xử ngang nhau với những
người có đóng góp như nhau. Mức độ hưởng thụ của cải xã hội được xác định dựa trên những

cống hiến của họ đối với xã hội. Công bằng xã hội cần được hiểu như vậy để tránh lặp lại lối
phân phối bình quân chủ nghĩa mà thực chất là cào bằng, không công bằng đã xuất hiện ở nước
ta thời kỳ trước đổi mới. Cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề công bằng xã hội như vậy nhằm
khuyến khích mọi người đóng góp nhiều hơn cho xã hội, tức là tạo nên động lực thúc đẩy sự phát
triển xã hội.
Với quan điểm chung đó, việc phân phối trong lĩnh vực kinh tế chủ yếu dựa vào kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế; đồng thời, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác. Mặt khác,
những đóng góp khác không phải trong hoạt động kinh tế, như những cống hiến trong lĩnh vực
văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, cũng cần và phải tính đến nhằm bảo đảm cho người lao động
được hưởng lợi ích tương xứng, Nhiều người đã đóng góp sức lực, trí tuệ và hy sinh xương máu
trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trong khi thi hành nhiệm vụ xã hội cũng phải được xã
hội bù đắp một cách thoả đáng. Giải quyết vấn đề này không chỉ dừng ở mức độ đạo lý, mà nó
phải mang tính pháp lý, được xã hội thừa nhận.
Ngoài ra, Đảng ta cũng chủ trương rằng, để có công bằng xã hội, cần thiết lập và bảo đảm sự
công bằng trong việc tiếp cận các nguồn lực xã hội, như nguồn vốn, tài nguyên, thông tin, kỹ
thuật, giáo dục, đào tạo, chăm sóc y tế cũng như các cơ hội tìm kiếm thị trường và việc làm
4
Thứ ba, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên phạm vi cả nước, ở mọi
lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã cụ thể hóa tinh thần này trên từng lĩnh vực. Về kinh tế,
Đảng ta chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân làm giàu theo luật pháp, tạo cơ
hội để các hộ nghèo thoát đói nghèo một cách bền vững, khắc phục tình trạng bao cấp, tư tưởng
ỷ lại; tiếp tục cải cách chính sách tiền lương. Về mặt y tế, tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân
được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe, xây dựng và hoàn thiện các chính sách trợ cấp, bảo
hiểm y tế cho các đối tượng chính sách và người nghèo trong khám chữa bệnh, chú trọng triển
khai các dịch vụ y tế công nghệ cao, khuyến khích phát triển đa dạng các dịch vụ y tế ngoài công
lập Về giải quyết vấn đề xã hội, thực hiện đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, hoàn chỉnh
hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công cộng thiết yếu, đổi mới cơ chế quản lý và phương
thức cung ứng các dịch vụ công cộng Trên từng lĩnh vực, các địa phương phải chủ động đề ra
và thực hiện những bước đi, mục tiêu và các giải pháp cụ thể cho phù hợp với tình hình thực tế

của từng vùng, miền.
Thứ tư, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội nhằm
phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con người.
Con người không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực để phát triển xã hội mới. Xây dựng xã hội
mới chính là để phát triển con người toàn diện; ngược lại, trong số các nguồn lực để xây dựng xã
hội mới, con người là vốn quý nhất. Trong thời đại ngày nay, muốn tăng trưởng kinh tế phải quan
tâm giải quyết vấn đề công bằng xã hội, tạo điều kiện cho con người có thể phát huy mọi năng
lực và hưởng thụ xứng đáng những thành quả của chính mình. Tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta
nhấn mạnh việc thực hiện chỉ tiêu GDP phải gắn với chỉ tiêu HDI trong suốt quá trình phát triển
và trong từng chính sách xã hội. Như vậy, có thể nói, tăng cường đầu tư cho con người là cơ sở
để thực hiện tăng trưởng kinh tế bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội một cách có hiệu quả,
thiết thực.
Thứ năm, phát huy vai trò của nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động xã hội là nhân tố
cơ bản đảm bảo kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Công bằng xã hội là vấn đề của quan hệ lợi ích, lấy tăng trưởng kinh tế làm tiền đề, nhưng không
phải là hệ quả trực tiếp của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế tác động đến việc phân phối
lợi ích thông qua những khâu trung gian; trong đó, trước hết phải kể đến cơ chế kinh tế và chính
sách xã hội của nhà nước.
Thị trường chỉ góp phần thực hiện công bằng xã hội theo cách thức riêng của nó, cụ thể là bằng
cách phân phối lợi nhuận theo quy luật của thị trường. Theo đó, người có đóng góp nhiều thì
hưởng lợi nhiều, giỏi thắng kém thua và nhờ vậy, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quan điểm nhất quán của Đảng ta là phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, việc phân phối thu nhập
được thực hiện không chỉ theo lao động, mà còn theo mức độ đóng góp các nguồn lực khác, như
vốn, tài sản, đất đai vào tăng trưởng kinh tế, trong đó phân phối thu nhập theo lao động là hình
thức phân phối chủ yếu, và như thế được coi là công bằng. Tuy vậy, đối với một thị trường chưa
hoàn hảo, còn có độc quyền, có cạnh tranh bất bình đẳng thì nguyên tắc phân phối của thị trường
cũng chưa phải đã là công bằng. Ngoài ra, hiện nay, ở nước ta, còn nhiều đối tượng có những
khiếm khuyết về sức khỏe, năng lực, trí tuệ, còn nhiều khu vực dân cư các vùng nông thôn, vùng
sâu, vùng xa kinh tế hàng hóa chưa phát triển… mà sự phân phối của thị trường không đến được.

Trong điều kiện như vậy, sự điều tiết của “bàn tay hữu hình” - Nhà nước là sự can thiệp cần thiết,
bảo đảm cho tất cả mọi người đều được hưởng thụ tương xứng với những cống hiến của họ cho
xã hội trên nhiều lĩnh vực mà thị trường không làm được. Vì vậy, tăng cường vai trò của nhà
5
nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là xu hướng tất yếu, là một
biện pháp đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó, Đảng ta cũng chỉ đạo tích cực đẩy mạnh xã hội hóa
trong giáo dục, y tế và các dịch vụ công cộng khác với phương châm không bao cấp tràn lan và
không vì mục tiêu lợi nhuận.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là mục tiêu tổng quát. Không nghi ngờ gì
nữa, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những tiêu chí cơ bản nhất cần phải đạt tới. Thực
tế cho thấy, tăng trưởng kinh tế có thể tạo cơ sở để thực hiện công bằng xã hội và ngược lại, nó
cũng có thể làm cho công bằng xã hội bị vi phạm nghiêm trọng hơn, vì vậy nó cũng ảnh hưởng
tới các vấn đề khác của xã hội. Cũng như vậy, việc thực hiện công bằng xã hội không chỉ thể
hiện tính nhân văn của xã hội, mà còn có thể thúc đẩy hay kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Quan
hệ giữa chúng không phải là đồng thuận và có tính tự phát. Hiệu quả của mối quan hệ này ở
nước ta hiện nay được phát huy đến đâu - điều đó không chỉ phụ thuộc vào tính tất yếu khách
quan của nền kinh tế, mà còn phụ thuộc vào quan điểm chỉ đạo của Đảng và mức độ hiện thực
hóa các quan điểm đó trong thực tiễn cuộc sống
Câu 2: Tại sao quan điểm của Đảng chủ trương “Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có
thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước”? để rút ngắn thời gian cần phải thực hiện những
yêu cầu gì?
Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây là
yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới.
*** Cần phải rút ngắn thời gian :
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh
xã hội công bằng dân chủ văn minh

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực thời kỳ đầu
công nghiệp hóa. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, vào các ngành công nghệ thấp, tiêu hao
vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước
trong khu vực.
- Chúng ta cần tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta
để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
*** Có thể rút ngắn thời gian :
-Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các
nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngăn thời gian.
-Nguồn lực của đất nước : tài nguyên đất, nước, khoáng sản và rừng và nhiều nguồn lực trong
dân dồi dào.
-Cơ cấu thành phần kinh tế gồm nhiều thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
- Nguồn lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam
- Nuớc ta có nền kinh tế - chính trị độc lập tự chủ, nhân dân cả nước đều ủng hộ ĐCS VN trong
suốt quá trình hình thành dân tộc.
- Hệ thống cảng biển và vận tải biển nằm ở khu vực trung tâm,các khoáng sản :dầu khí, hải sản,
biển, đảo phong phú và đa dạng.
6
*** Để rút ngắn thời gian cần phải thực hiện những yêu cầu gì?
- Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn giải quyết đồng bộ các vấn đề
nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
+ Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp : Nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu
và lao động cho công nghiệp và thành thị, là thị trường rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn
chiếm đa số dân cư ở thời điểm khi bắt đầu công nghiệp hóa. Vì vậy, quan tâm đến nông nghiệp, nông dân
và nông thôn là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, đẩy nhanh tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh
của nông sản hàng hóa

+ Về quy hoạch phát triển nông thôn: Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn
hóa, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan, bảo đảm an ninh, trật tự an
toàn xã hội.
+ Về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn: Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân,
trước hết ở các vùng sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông,
các khu đô thị mới.
-Hai là, phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Tính quy luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỷ trọng của nông nghiệp giảm còn công nghiệp, dịch
vụ thì tăng lên. Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
- Đối với công nghiệp và xây dựng:
+Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và
công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động;
+Tích cực thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện các dự án quan trọng để khai thác dầu khí,
lọc dầu và hóa dầu luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách
hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô.
+ Thu hút chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng đồng người Việt định cư ở nước ngoài.
- Đối với dịch vụ: mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống như vận tải, thương
mại, ngân hàng, bưu chính viễn thông, du lịch. Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở khu vực nông thôn.
-Ba là, phát triển kinh tế vùng: Cơ cấu kinh tế vùng là một trong những cơ cấu cơ bản của nền kinh tế
quốc dân Để phát triển mạnh mẽ kinh tế vùng trong những năm tới cần phải:
+Có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển nhanh hơn trên cơ sở phát huy
lợi thế so sánh, khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính.
+Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung, miền Nam thành những trung tâm công
nghiệp lớn có công nghệ cao để các vùng này đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển chung của cả
nước.
+ Có chính sách trợ giúp nhiều hơn về nguồn lực để phát triển các vùng khó khăn. Bổ sung chính sách
khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư,
kinh doanh tại các vùng khó khăn.
-Bốn là, phát triển kinh tế biển.

+Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm. Sớm đưa
nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng – an ninh và
hợp tác quốc tế.
+Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển và vận tải biển, khai thác, khai thác
và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du lịch biển, đảo.
-Năm là, dịch chuyển cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ.
+ Chú trọng phát triển công nghệ cao để tạo đột phá và công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết
việc làm.
+Kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai
7
trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri
thức.
+Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư
trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao.
-Sáu là, bảo vệ, sử dụng, hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.
+Tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước, khoáng sản và rừng.
+Ngăn chặn các hành vi hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường, khắc phục tình trạng xuống cấp môi trường
ở các lưu vực song, đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, nơi đông dân cư và có nhiều hoạt động kinh tế.
+Quan tâm đầu tư cho lĩnh vực môi trường, nhất là các hoạt động thu gom, tái chế và xử lý chất thải, phát
triển và ứng dụng công nghệ sạch hoặc công nghệ ít gây ô nhiêm môi trường. .
- Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa với bảo vệ môi trường, bảo đảm
phát triển bền vững.
Câu 4 : Những cơ hội và thách thức khi VN hội nhập kinh tế quốc tế? Chúng ta phải làm gì
để hội nhập kinh tế quốc tế thành công?
*** Khi hội nhập,nước ta đứng trước những cơ hội lớn như sau:
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế
nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị định thư
gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở
rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế
nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở

lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc
biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi
trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không
những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư
nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát
triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước ngoài có vai trò
quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước
ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu
hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ba là: Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc
hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự
kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh
nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp
8
lực lượng và năng lực quản lý điều hành của ta.
Bốn là: Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế ở trong
nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc gia nhập WTO, hội nhập
vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải
cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập
WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả
đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO mang lại, cần thấy hết
những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là trong điều kiện nước ta là một nước đang

phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội
ngũ doanh nhân còn nhỏ bé.
*** Khi hội nhập, nước ta đối đầu với những thách thức bao gồm:
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu
hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước
ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta
do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4%
trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn.
Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp.
Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và
chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển
có phát huy được lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước”
trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không.
Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay
không, có tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không v.v…
Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức
cạnh tranh quốc gia.
Hai là: Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều. Những nước có
nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng
không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực
của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên,
phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội
đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các
nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong
nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân
9
tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn
chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện

tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế
thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vươn lên
mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm rất cao trước quốc gia, trước dân tộc.
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ
an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống
thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Như vậy, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa
phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị
trường mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực
tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta.
Cơ hội và thách thức không phải “nhất thành bất biến” mà luôn vận động, chuyển hoá và thách
thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo
ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không
tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những
khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất nước, tinh thần tự
lực tự cường của toàn dân tộc là quyết định nhất.
Với thành tựu to lớn sau 20 năm đổi mới, quá trình chuyển biến tích cực trong cạnh tranh và hội
nhập kinh tế những năm vừa qua, cùng với kinh nghiệm và kết quả của nhiều nước gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới trước ta, cho chúng ta niềm tin vững chắc rằng: Chúng ta hoàn toàn có
thể tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Có thể có một số doanh nghiệp khó khăn, thậm chí lâm
vào cảnh phá sản nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ trụ vững và vươn lên, nhiều doanh nghiệp
mới sẽ tham gia thị trường và toàn bộ nền kinh tế sẽ phát triển theo mục tiêu và định hướng của
chúng ta.
*** Những giải pháp để hội nhập kinh tế thành công:
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý, nhằm hình thành nhanh và đồng bộ các yếu
tố của kinh tế thị trường, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các cam kết:
(i) Soạn thảo các văn bản hướng dẫn thực thi các luật mới ban hành, bảo đảm cụ thể, công khai,
minh bạch phù hợp với nội dung của luật;
(ii) Xoá bỏ mọi hình thức bao cấp, trong đó có bao cấp qua giá, thực hiện giá thị trường cho mọi
loại hàng hoá và dịch vụ. Đối với những mặt hàng hiện còn áp dụng cơ chế nhà nước định giá,

phải xác định lộ trình thực hiện nhanh giá thị trường để các doanh nghiệp tính toán lại phương án
sản xuất kinh doanh;
(iii) Đẩy mạnh cải cách trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo đảm cho các ngân hàng thương
mại thực sự là các đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các khoản vay và cho vay trên cơ
10
sở hiệu quả, không có sự phân biệt đối xử về hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Hoàn
thiện cơ chế quản lý thị trường đất đai và bất động sản, tạo bước đột phá trong hoạt động của thị
trường này. Cải cách chế độ kế toán và tài chính doanh nghiệp theo chuẩn mực quốc tế;
(iv) Xây dựng các biện pháp hỗ trợ đối với một số lĩnh vực, sản phẩm đi đôi với việc loại bỏ các
hình thức trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp gắn với tỷ lệ nội địa hoá phù hợp với các cam kết của ta
trong Tổ chức thương mại thế giới;
(v) Hoàn thiện cơ chế và tổ chức quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp để tạo ra
môi trường cạnh tranh lành mạnh. Xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn vệ sinh, an
toàn thực phẩm phù hợp với Hiệp định TBT và SPS để bảo vệ thị trường nội địa và người tiêu
dùng;
(vi) Kết hợp chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ, sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất,
hạn mức tín dụng, tỷ giá để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nâng cao chất lượng của công tác
thông tin, dự báo về thị trường, giá cả, quan hệ cung cầu để xác định các cân đối lớn.
(vii) Đẩy mạnh cải cách tiền lương, chế độ bảo hiểm; sớm nghiên cứu hình thành quỹ bảo hiểm
thất nghiệp, và các chính sách an sinh xã hội; (viii) Đổi mới cơ chế quản lý các cơ quan khoa học
- công nghệ theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự hạch toán. Gắn kết chặt chẽ các cơ quan này
với doanh nghiệp để thúc đẩy việc đổi mới công nghệ sản xuất ở doanh nghiệp, nhằm phát triển
thị trường khoa học, công nghệ. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các
thành tựu khoa học công nghệ vào đầu tư, kinh doanh đi đôi với việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
2. Thực hiện một cách mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính, bãi bỏ các thủ tục, giấy tờ không
thực sự cần thiết nhằm rút ngắn thời gian thành lập doanh nghiệp và tham gia thị trường, đưa
nhanh hàng hoá và dịch vụ vào kinh doanh. Việc quản lý xuất nhập khẩu các mặt hàng quản lý
chuyên ngành chỉ căn cứ vào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, điều kiện hành
nghề, không dùng giấy phép làm công cụ để hạn chế thương mại.
Công bố công khai quy trình tác nghiệp, thời gian giải quyết công việc, người chịu trách nhiệm ở

tất cả các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước và các đơn vị cung ứng dịch vụ công để mọi công dân,
mọi doanh nghiệp biết, thực hiện và giám sát việc thực hiện. Công khai, minh bạch mọi chính
sách, cơ chế quản lý là một trong những tiêu chí của xã hội "công bằng, dân chủ, văn minh" và là
yêu cầu cấp bách hiện nay.
Điều này không những là tiền đề của chống tham nhũng mà còn là điều kiện để tạo ra thị trường
cạnh tranh, giảm chi phí giao dịch cho doanh nghiệp và công dân, là điều kiện bảo đảm hiệu quả
của tăng trưởng. Phải làm việc này một cách đồng bộ và kiên quyết. Loại bỏ khỏi bộ máy nhà
nước những công chức gây phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân và doanh nghiệp, những người thiếu
trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ.
3. Sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước, theo yêu cầu quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Làm
việc này không phải là để tinh gọn tổ chức một cách giản đơn. Làm việc này là tạo ra tiền đề tổ
chức để bảo đảm sự đồng bộ, tầm nhìn liên ngành, khắc phục sự chồng chéo, kém hiệu quả trong
việc xây dựng và thực thi các thiết chế quản lý.
11
Trên cơ sở sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước và cải cách thủ tục hành chính để xây dựng
lại hệ thống phân cấp theo những tiêu chí khoa học, bảo đảm tính tương thích, sự đồng bộ và tính
mục tiêu trong các lĩnh vực đã phân cấp. Quan điểm nhất quán ở đây là: bảo đảm tính thống nhất
quản lý và mục tiêu phát triển, phân cấp mạnh cho địa phương và cơ sở. Vấn đề sẽ được giải
quyết ở cấp nào mà ở đó có đầy đủ thông tin và khả năng thực hiện công việc tốt nhất. Gắn phân
cấp với kiểm tra, giám sát.
4. Đổi mới để phát triển mạnh nguồn nhân lực:Chúng ta thường nói và người nước ngoài cũng
nói: nước ta có nguồn nhân lực dồi dào, lao động trẻ chiếm 70% lực lượng lao động. Người Việt
Nam cần cù, chịu khó học tập, nhận thức nhanh. Đây là một lợi thế cạnh tranh. Điều đó đúng
nhưng chưa phản ánh đầy đủ thực trạng nguồn nhân lực nước ta.
Hiện tại, chúng ta chỉ có lợi thế cạnh tranh thực tế trong những ngành nghề đòi hỏi sử dụng
nhiều lao động với kỹ năng trung bình và thấp. Những lĩnh vực có giá trị gia tăng lớn, đòi hỏi
trình độ cao, chúng ta đang rất thiếu và do đó làm hạn chế khả năng thu hút đầu tư vào những
lĩnh vực này như cơ khí chế tạo, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, tư vấn thiết kế, tạo mẫu
và trong các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao Hạn chế này là do những yếu kém, bất cập
trong hệ thống giáo dục của ta, cần phải nhanh chóng tìm ra các giải pháp để khắc phục.

Hướng chính ở đây là:
Chấp nhận cơ chế thị trường trong đào tạo đại học thuộc các ngành kỹ thuật - công nghệ và dạy
nghề để huy động các nguồn lực nhằm phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo gắn liền với
việc thực hiện đầy đủ cơ chế thị trường trong việc trả lương cho người lao động.
Từ quan điểm hệ thống và bảo đảm tính liên thông trong hệ thống giáo dục - đào tạo từ phổ
thông - đại học và dạy nghề, giải quyết trước việc cải cách giáo dục đại học và dạy nghề. Học tập
kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục đại học và dạy nghề tiên tiến để chọn lọc, sử dụng.
Trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất trong những nguyên tắc lớn và sự quản lý thống nhất của nhà
nước đối với giáo dục và đào tạo, phát huy tính tự chủ, bản sắc riêng và tính cạnh tranh trong đào
tạo đại học và dạy nghề. Nhà nước sẽ đầu tư nhiều hơn cho những ngành nghề cần thiết nhưng
tính cạnh tranh thấp.
Khẩn trương xây dựng chiến lược cải cách giáo dục từ nội dung chương trình, phương pháp
giảng dạy, chế độ thi cử ở tất cả các cấp đào tạo.
5. Tập trung sức phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng:
Sự yếu kém về cơ sở hạ tầng đã và sẽ hạn chế thu hút đầu tư làm tăng chi phí sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Cạnh tranh giữa các nước về cơ sở hạ tầng sẽ là sự cạnh tranh dài hạn,
nhất là trong điều kiện các hình thức ưu đãi trái với quy định của Tổ chức thương mại thế giới sẽ
bị loại bỏ. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng sự phát triển cơ sở hạ tầng. Lâu nay nhà nước đã rất
chú ý phát triển cơ sở hạ tầng bằng nhiều nguồn vốn khác nhau: vốn ngân sách, vốn ODA, vốn
của doanh nghiệp đầu tư theo phương thức BOT, BT,…, vốn của dân. Khuyết điểm ở đây là tình
trạng đầu tư từ nguồn vốn nhà nước phân tán, kéo dài chậm được khắc phục.
Phát triển cơ sở hạ tầng là yêu cầu bức xúc của các địa phương, các vùng kinh tế. Khi nhu cầu
12
lớn, nguồn lực có hạn, để thoả mãn được nhiều đối tượng dễ dẫn đến cách phân bổ phân tán, dàn
trải. Kết quả là thời gian thi công kéo dài, nợ đọng lớn, không ít công trình hiệu suất sử dụng
thấp, hiệu quả không cao xét trên yêu cầu phát triển tổng thể của nền kinh tế. Phải kiên quyết
khắc phục tình trạng này.
Nguyên tắc chỉ đạo ở đây là cái mà chúng ta lựa chọn và quyết định là cái tốt nhất có thể chứ
chưa phải là cái mà chúng ta mong muốn. Cái tốt nhất có thể là cái mà nếu được lựa chọn sẽ có
hiệu suất sử dụng cao nhất. Trong phát triển cơ sở hạ tầng (các tuyến đường, bến cảng) đó là

những vùng đã và sẽ có trong tương lai gần dung lượng lưu thông hàng hoá lớn, từ đó thúc đẩy
sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Từ yêu cầu này mà xử lý mâu thuẫn giữa nhu
cầu và khả năng về vốn. Điều chỉnh lại việc phân cấp đầu tư cơ sở hạ tầng theo hướng tập trung
cao hơn. Người có quyền ra quyết định đầu tư phải kiên quyết thực hiện bằng được yêu cầu này.
Huy động mọi nguồn lực kể cả các nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào việc xây dựng
cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng.
6. Về nông nghiệp, nông thôn và nông dân:
Nông nghiệp là lĩnh vực nhạy cảm và dễ bị tổn thương hơn cả khi thực hiện cam kết cắt giảm
thuế nông sản. Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, Đoàn đàm phán đã kiên trì và thận trọng
trong việc mở cửa thị trường nông sản. Mặc dầu vậy, nông nghiệp vẫn là lĩnh vực bị sức ép cạnh
tranh khá lớn, nhất là trong điều kiện nông nghiệp nước ta vẫn là nền sản xuất nhỏ, phân tán,
công nghệ lạc hậu, năng suất kém, chất lượng sản phẩm không cao, bình quân đất nông nghiệp
trên một lao động thấp.
Để giải quyết vấn đề này phải thực hiện theo 2 hướng:
Một là: Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó có cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp và nông thôn, từng bước chuyển lao động nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch
vụ; đưa các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, yêu cầu đào tạo không cao về nông thôn; phát
triển các làng nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; hình thành các thị trấn, thị tứ mới ở
nông thôn. Đây là hướng phát triển quan trọng nhất.
Hai là: Tăng ngân sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn cùng với việc dành toàn bộ các
nguồn vốn hỗ trợ trước đây cho khuyến khích xuất khẩu nông sản để đầu tư phát triển thuỷ lợi,
giao thông nông thôn. Nhà nước hỗ trợ việc xây dựng hệ thống kho tàng, các cơ sở bảo quản,
phơi sấy nhằm giảm hao hụt, bảo đảm chất lượng sản phẩm sau thu hoạch, tạo điều kiện điều tiết
lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường nhằm ổn định giá cả, phát triển chợ nông thôn. Giảm
mạnh sự đóng góp của nông dân.
Đầu tư mạnh vào việc phát triển, cải tạo các loại giống có năng suất cao, chất lượng tốt để cung
cấp cho nông dân có sự hỗ trợ giá từ ngân sách nhà nước. Phát triển và tổ chức lại hệ thống
khuyến nông trên cả 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện, xã và hợp tác xã.
Phát triển các doanh nghiệp, các hợp tác xã cổ phần sản xuất nông nghiệp và kinh doanh dịch vụ
ở nông thôn, thông qua đó mà thúc đẩy quá trình hình thành các vùng sản xuất hàng hoá lớn

trong nông nghiệp, bảo đảm tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư cho nông dân. Khuyến khích
13
nông dân trở thành cổ đông của các doanh nghiệp và các hợp tác xã cổ phần, là đồng sở hữu các
nhà máy chế biến nông sản, bảo đảm thu nhập của nông dân và cung cấp ổn định nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến.
Nghiên cứu để hình thành cơ chế gắn việc thu hút lao động trong nông nghiệp sang làm công
nghiệp hoặc dịch vụ, xuất khẩu lao động với việc chuyển giao, cho thuê lại ruộng đất để đẩy
nhanh quá trình tích tụ ruộng đất.
7. Phát triển các loại hình dịch vụ:
Lĩnh vực dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của các nền kinh tế. Các nước công
nghiệp phát triển trình độ cao, dịch vụ chiếm từ 60 - 70%. Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại
hoá và sự phân công lao động gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa đặt ra nhu cầu vừa tạo
khả năng phát triển dịch vụ. Ngược lại sự phát triển dịch vụ sẽ làm giảm chi phí sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp. Từ đó, phải hết sức coi trọng phát triển tất cả các ngành dịch vụ.
Tập trung phát triển mạnh các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao: dịch vụ tài chính, ngân hàng
với nhiều sản phẩm đa dạng, dịch vụ viễn thông, dịch vụ du lịch, các loại dịch vụ tư vấn để hỗ
trợ các tổ chức, cá nhân lập doanh nghiệp, lựa chọn phương án kinh doanh, các dịch vụ nghề
nghiệp như kế toán, kiểm toán để đánh giá chính xác hiệu quả sản xuất, kinh doanh, bảo đảm
công khai, minh bạch về tình trạng tài chính của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tham gia thị
trường chứng khoán. Nhanh chóng xây dựng hệ thống mã số các loại dịch vụ theo phân loại của
Tổ chức thương mại thế giới. Trên cơ sở đó, có định hướng đúng đắn chiến lược phát triển dịch
vụ.
8. Phát triển những lĩnh vực, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có khả năng mở rộng thị trường.
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, thế giới đã diễn ra hai mô hình công nghiệp hoá. Công
nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đi liền với chế độ bảo hộ mậu dịch. Mô hình này khá phổ biến và
đã thành công trước những năm 80. Khi chế độ bảo hộ mậu dịch giảm dần, sự phân công lao
động quốc tế sâu rộng hơn, các nước chuyển sang mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu
trên cơ sở lợi thế so sánh. Từ nửa sau thập kỷ 90 của thế kỷ trước, toàn cầu hoá kinh tế trở thành
xu thế. Hàng rào bảo hộ bị cắt giảm thông qua việc ký kết các hiệp định mậu dịch tự do song
phương và khu vực và việc hình thành Tổ chức thương mại thế giới, ranh giới kinh tế giữa các

quốc gia bị giảm thiểu; sự phát triển của vận tải đa phương thức và dịch vụ logistic đã làm chi
phí lưu chuyển hàng hoá giữa các quốc gia giảm mạnh, thị trường trong nước và thị trường nước
ngoài gần như thông nhau.
Cái gọi là công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu và công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu không
còn nguyên nghĩa như khái niệm ban đầu của nó. Một sản phẩm cạnh tranh được trên thị trường
trong nước cũng có khả năng cạnh tranh trên thị trường nước ngoài và ngược lại.
Vì vậy, việc lựa chọn các ngành và sản phẩm để phát triển phải căn cứ vào các yếu tố sau đây:
(1) lợi thế so sánh dài hạn; (2) quy mô kinh tế đặt trong quy hoạch liên vùng (để bảo đảm giảm
chi phí cố định); (3) dung lượng thị trường (để bảo đảm có được thị phần và tăng thị phần mà
không bị các biện pháp tự vệ, điều tra chống bán phá giá); (4) mức giảm thuế và lộ trình giảm
14
thuế theo cam kết (để đo sức ép cạnh tranh của hàng nhập khẩu).
Đi đôi với việc phát triển một số ngành, sản phẩm theo các tiêu chí nêu trên cần hết sức coi trọng
phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp nền tảng cho công nghiệp hoá.
9. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích mọi người đầu tư vốn vào
sản xuất kinh doanh, phát triển các loại hình doanh nghiệp, có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
vừa và nhỏ:
Việc sắp xếp lại, đổi mới và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua đã đem
lại những kết quả tích cực. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá đều có doanh
thu, lợi nhuận, nộp ngân sách cao hơn trước khi cổ phần hoá; việc làm và đời sống người lao
động trong doanh nghiệp đã cổ phần hoá được bảo đảm, có phần được cải thiện; quyền làm chủ
thực sự trong quản lý doanh nghiệp từng bước được xác lập. Việc bán giá trị của doanh nghiệp
thông qua đấu thầu trên thị trường chứng khoán đã khắc phục được tình trạng thất thoát vốn, tài
sản của nhà nước.
Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp mà nhà nước có cổ phẩn hoặc cổ phần chi phối còn nhiều. Vốn
của nhà nước trong doanh nghiệp còn lớn, tín dụng dành cho doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ
cao. Phải khẩn trương hoàn thành kế hoạch sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo hướng
hình thành loại hình công ty nhà nước đa sở hữu, chủ yếu là các công ty cổ phần, kể cả các tổng
công ty, các tập đoàn kinh tế.
Một nước ở trình độ phát triển thấp như nước ta, lại đang trong giai đoạn chuyển đổi, tuyệt đại

bộ phận là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 95%), loại hình doanh nghiệp này thực sự đang
là động lực của sự phát triển. Vì vậy, cần có chính sách hỗ trợ có hiệu quả hơn nữa các doanh
nghiệp này.
So với dân số và nhu cầu tăng trưởng kinh tế, số lượng doanh nghiệp nước ta hiện rất thấp. Đây
là hạn chế lớn trong việc phát triển kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, tạo ra thị trường cạnh
tranh và huy động nguồn lực của xã hội. Vì vậy, khuyến khích người dân đầu tư vào sản xuất
kinh doanh, phát triển các loại hình doanh nghiệp. Định hướng cơ bản để thực hiện việc này là
tạo điều kiện để doanh nghiệp có môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi, giảm chi phí tham
gia thị trường, miễn giảm thuế trong thời gian đầu lập nghiệp, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, đào
tạo quản trị doanh nghiệp.
10. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp VN:
Như trên đã nói, chủ thể của tiến trình hội nhập và cạnh tranh là nhà nước và doanh nghiệp.
Trong đó doanh nghiệp trực tiếp cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường trong và
ngoài nước. Có thể thấy rõ 4 điểm yếu của doanh nghiệp nước ta: số lượng doanh nghiệp ít; quy
mô nhỏ, thiếu vốn; công nghệ sản xuất kinh doanh nhìn chung lạc hậu; khả năng quản trị doanh
nghiệp còn yếu kém. Những hạn chế này có nguyên nhân khách quan của một nền kinh tế đang
phát triển ở trình độ thấp, đang trong quá trình chuyển đổi. Điều quan trọng là các doanh nghiệp
phải nhận thức được các hạn chế yếu kém đó, có kế hoạch để khắc phục các yếu kém đó.
Muốn vậy, các doanh nghiệp phải xác định được chiến lược mặt hàng và chiến lược thị trường
15
đúng đắn. Trên cơ sở lựa chọn đúng chiến lược thị trường, chiến lược mặt hàng mà đổi mới công
nghệ sản xuất, công nghệ quản lý; áp dụng các tiêu chuẩn ISO, hoàn thiện phương thức kinh
doanh; tạo ra bản sắc riêng có, những nét độc đáo riêng có của doanh nghiệp mình thông qua đó
mà thu hút khách hàng, phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu. Phải tăng cường liên kết hợp
tác theo chiều dọc và chiều ngang; xác lập quan hệ bạn hàng và nhanh chóng hình thành hệ
thống phân phối. Cần nhận thức rằng cạnh tranh và hợp tác luôn song hành trong hoạt động của
doanh nghiệp trong cơ chế thị trưởng.
Các tập đoàn tư bản tuy cạnh tranh với nhau gay gắt nhưng cũng sẵn sàng hợp tác vì lợi ích của
chính họ. Doanh nghiệp của ta quy mô nhỏ, vốn ít càng cần phải tăng cường liên kết và hợp tác.
Điều quan trọng là năng lực và bản lĩnh của người quản trị doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh

nghiệp phải chọn cho được những người quản trị doanh nghiệp có bản lĩnh và năng lực thực sự.
Kinh doanh là nghề chấp nhận mạo hiểm. Chấp nhận mạo hiểm hoàn toàn khác với làm liều.
Chấp nhận mạo hiểm trên cơ sở thu thập và xử lý đầy đủ thông tin, và dự kiến trước những diễn
biến của thị trường. Phải tính đến rủi ro có thể xảy ra và nếu xảy ra rủi ro thì thiệt hại sẽ được
giới hạn và có khả năng khắc phục. Làm được như vậy hiệu quả kinh doanh sẽ được bảo đảm, và
trên cơ sở hiệu quả kinh doanh mà tăng khả năng tích tụ vốn và huy động vốn trên thị trường
chứng khoán. Từ đó doanh nghiệp sẽ lớn lên, mạnh hơn, sức cạnh tranh sẽ được tăng cường,
từng bước hình thành nhiều công ty, tập đoàn kinh tế lớn.
Kiện toàn tổ chức và cơ chế hoạt động của các hiệp hội ngành hàng, bảo đảm hiệp hội thực sự là
cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước, hỗ trợ có hiệu quả cho doanh nghiệp trong
việc phát triển thị trường, xúc tiến thương mại, đào tạo nguồn nhân lực. Nâng cao trách nhiệm và
đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan xúc tiến thương mại, các cơ quan đại diện Việt
Nam ở nước ngoài trong việc hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường, thiết lập quan hệ bạn
hàng, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển du lịch và thu hút đầu tư.
Không thể thực hiện những công việc rộng lớn trên đây trong một thời gian ngắn. Nhưng phải
kiên quyết và kiên trì thực hiện trên cơ sở xây dựng các chương trình hành động đồng bộ, có
phân công trách nhiệm rõ ràng, lộ trình thực hiện cụ thể, trước hết là trong các cơ quan nhà nước,
cộng đồng doanh nghiệp.
11. Tiền đề quan trọng và có ý nghĩa quyết định để thực hiện thắng lợi các chủ trương và giải
pháp nêu trên là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, giữ vững chủ
quyền quốc gia và định hướng của sự phát triển. Nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp xã hội về
bản chất và nội dung của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, những cơ hội và thách thức khi VN
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Tạo ra sự thống nhất trong nhận thức, thống nhất đánh
giá, thống nhất hành động. Trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân,
truyền thống yêu nước và cách mạng, ý chí tự lực tự cường của mọi người Việt Nam nhằm tận
dụng cơ hội, vượt qua thách thức đưa nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững, thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Câu 5: Phân tích những chủ trương tạo tiền đề để Đảng đề ra chủ trương đổi mới cơ
16
chế quản lý kinh tế trong Đạo hội VI (12/1986)

Trong tiến trình đổi mới đất nước, Đại hội VI là bước đột phá đầu tiên về đổi mới tư
duy của Đảng về phát triển kinh tế. Đó là việc xác lập, xây dựng cơ cấu kinh tế phù
hợp với sự vận động của quy luật khách quan và, trình độ của nền kinh tế. Đại hội có
ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, tạo ra sự ổn định về chính trị,
xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng.
- Ngay từ Đại hội IV (1976), Đảng ta đã xác định: Phải ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; kết hợp
xây dựng công nghiệp với nông nghiệp trên phạm vi cả nước thành một cơ cấu kinh tế
công - nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế Trung ương, vừa phát triển kinh tế địa
phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, kết hợp phát triển lực lượng sản
xuất với việc xác lập và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới.
- Tiếp đó, đến Đại hội V (1982), Đảng ta tiếp tục xác định: phải xây dựng cơ cấu kinh
tế công - nông nghiệp hiện đại, chú trọng xây dựng hệ thống công nghiệp nặng tương
đối phát triển làm nòng cốt củng cố nền kinh tế quốc dân.

- Trong những năm 1976-1986, trên cơ sở cơ cấu kinh tế đã được xác định, trong chỉ
đạo thực hiện, đã thiên về tập trung phát triển công nghiệp nặng qui mô lớn, mà không
chú ý phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, không tính tới những điều kiện và
khả năng thực tế đất nước; “Chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội và bảo thủ,
thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo XHCN và cơ chế quản
lý kinh tế”
1
. Do vậy, khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra những năm cuối thập niên 70
đầu thập niên 80 của thế kỷ XX ở nước ta có nguyên nhân từ bố trí cơ cấu kinh tế và
cũng có nguyên nhân bắt nguồn từ những nhận thức chưa đầy đủ về thời kỳ quá độ lên
CNXH là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, nên
trong chỉ đạo thực hiện đã xuất hiện tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những
bước đi cần thiết.
- Nhân dân ta đã giành được nhiều thành tựu trên cả 2 mặt trận xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Song chúng ta chưa tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó khăn và

khuyết điểm mới. Tình hình kt-xh nước ta có nhiều diễn biến phức tạp, sx trì trệ, lạm
phát tốc độ cao, nhiều mặt kt mất cân đối nghiêm trọng (làm không đủ ăn, xuất không
đủ nhập, thu không đủ chi ). Các tiêu cực xh nẩy sinh và phát triển mạnh. Đời sống
nhân dân lao động hết sức khó khăn.
+ Trong khi đó, cuộc cách mạng khoa học- công nghệ lần thứ 3 trên TG phát triển
mạnh mẽ, làm thay đổi bộ mặt và các mối quan hệ trong từng nước và trên toàn TG.
+ Trong các nước XHCN, kể cả LX và TQ, do việc xây dựng CNXH theo mô hình và
phương pháp kiểu cũ có những mặt không còn phù hợp với điều kiện ls mới, đã bộc lộ
không ít khuyết tật. Nhiều nước XHCN đã lâm vào khủng hoảng kt-xh, phải đi vào cải
17
tổ, cải cách với các hình thức và mức độkhácnhau.
+ Một mặt khác, nhiều nước tư bản, ĐQ trên TG, sau khi giải quyết được tình trạng
khủng hoảng sâu sắc của những thập kỷ trước đây, đã nhanh chóng tiếp thu được
những thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ 3, vươn lên
phát triển nhanh chóng về kt, quốc phòng, đã liên kết lại để tiến hành "diễn biến hòa
bình" nhằm phản kích và xóa bỏ hệ thống XHCN thếgiới.
+ Đổi mới đã trở thành yêu cầu cấp thiết, có tính chất sống còn đối với XHCN thế giới
nói chung, đốivớicáchmạngvnnóiriêng.

Vì vậy,đại hội VI (tháng 12 - 1986) Đảng ta đã tìm tòi, thể nghiệm và chuẩn bị những điều
kiện, tiền đề cần thiết để đi tới xác lập một cơ cấu kinh tế phù hợp.
Đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng (12-1986) khởi xướng đã mở đầu cho thời kỳ
phát triển mới trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Trong quá trình đổi mới, trước
hết và chủ yếu là đổi mới kinh tế (gắn với từng bước đổi mới chính trị), Đảng ta rất quan
tâm tới vấn đề xác lập một cơ cấu kinh tế phù hợp với đặc điểm, trình độ phát triển của
nền kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Mục tiêu đổi mới cơ cấu kinh
tế cuối cùng cũng là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, tiến tới hoàn thiện
quan hệ sản xuất XHCN, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, bảo đảm vững chắc nền an ninh quốc phòng, sử dụng và phát huy hiệu
quả sức mạnh tổng hợp của đất nước vào mục tiêu phát triển.


Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố, bộ phận hợp thành của
nền kinh tế, trong đó các yếu tố, các bộ phận vừa tác động qua lại lẫn nhau, vừa làm điều
kiện cho nhau tồn tại trong một chỉnh thể. Cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh
tại, mà nó biến đổi cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Một
cơ cấu kinh tế phù hợp là cơ cấu được hình thành dựa trên cơ sở những tiền đề hiện thực,
tuân thủ các qui luật kinh tế khách quan, chứ không phải là sự áp đặt của ý muốn chủ
quan. Tuy vậy, trong mỗi giai đoạn, sự hình thành và biến đổi của cơ cấu kinh tế lại thông
qua sự tác động của nhân tố chủ quan, của chủ thể lãnh đạo, quản lý nền kinh tế quốc dân.

Đại hội VI là bước phát triển về chất, là quá trình đổi mới tư duy của Đảng về xác lập
đường lối phát triển kinh tế, là sự tổng kết thực tiễn.

Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá một cách khách quan, Đại hội VI chỉ rõ phải
nhận thức cho đúng về CNXH, về bố trí cơ cấu kinh tế, phải căn cứ vào điều kiện lịch sử
mới của đất nước và xu thế phát triển để đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức về cơ cấu kinh
tế. Và Đại hội cũng đã xác định rõ nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm
18
còn lại trong chặng đường đầu tiên là phải tập trung “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế -
xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”
2
. Từ nhiệm vụ bao trùm đó, Đảng ta nhấn
mạnh phải: “Dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các
ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất có qui mô và trình độ kỹ
thuật khác nhau phải được bố trí cân đối, liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện thực tế,
bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định”
3
. Như vậy, so với trước năm 1986, trong bố trí
cơ cấu kinh tế, vấn đề mới được Đại hội VI đặc biệt chú ý là tính “phù hợp điều kiện thực

tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định”. Điều này khác hẳn với tư tưởng chủ
quan, nóng vội, thoát ly thực tế khách quan trong thời kỳ trước năm 1986 khi bố trí cơ cấu
kinh tế thiên về công nghiệp nặng, chú trọng công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất qui mô
lớn mà chưa chú ý đúng mức đến phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và phát
triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, vì vậy đầu tư nhiều nhưng hiệu quả
thấp

Từ cách đặt vấn đề như vậy, Đại hội VI đã nêu một số quan điểm về xác lập cơ cấu kinh tế
trong thời kỳ đổi mới:

Thứ nhất, phải nhận thức đầy đủ, toàn diện về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi
lên CNXH, “thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ,
bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn độ dài của
thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội ”
4
. Đối với nước ta, nhiệm vụ
xây dựng những tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội cho thời kỳ quá độ đòi hỏi phải có thời
gian dài hơn, vì xuất phát điểm kinh tế - xã hội của nước ta rất thấp, lại bị tổn thất nặng nề
sau mấy chục năm chiến tranh và vẫn tiếp tục phải đối phó với những âm mưu xâm lược,
phá hoại của kẻ thù. Việc khẳng định thời kỳ quá độ ở nước ta là lâu dài và rất khó khăn
giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn trong xác định bố trí cơ cấu kinh tế của chặng đường
đầu tiên trong thời kỳ quá độ.

Thứ hai, phải bố trí lại cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư trên cơ
sở bảo đảm sự phù hợp với đặc thù tự nhiên, kinh tế - xã hội của Việt Nam trong chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ: phải phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu công
nghiệp và công nghiệp nhẹ tới một mức nhất định mới có đủ điều kiện phát triển công
nghiệp nặng. Mức nhất định ở đây là giải quyết về cơ bản các nhu cầu của đời sống xã hội
và tạo ra được nguồn tích lũy cần thiết để xây dựng công nghiệp nặng.


Căn cứ vào những quan điểm nêu trên, Đại hội VI đã đề ra mục tiêu phải thực hiện trong 5
năm (1986-1990): “Về lương thực, thực phẩm: Bảo đảm lương thực đủ ăn cho toàn xã hội
và có dự trữ. Đáp ứng một cách ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng
lương thực, thực phẩm phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động; Về hàng tiêu dùng: sản
xuất đáp ứng được nhu cầu bình thường của nhân dân thành thị và nông thôn về những sản
phẩm công nghiệp thiết yếu; Về hàng xuất khẩu: tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ
lực, đạt kim ngạch xuất khẩu đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc,
19
phụ tùng và những hàng hóa cần thiết”
5
.

Để thực hiện thắng lợi 3 chương trình kinh tế lớn, phải tạo ra cơ cấu hợp lý giữa công
nghiệp và nông nghiệp, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu giữa 2 ngành kinh tế này nhằm đảm
bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối với nhịp độ tăng trưởng ổn định. Nhưng ở mỗi giai
đoạn, trong từng chặng đường, vị trí của nông nghiệp, công nghiệp có khác nhau. Trong
chặng đường hiện nay, xuất phát từ “yêu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm, về
nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng, về hàng xuất khẩu quyết định vị trí hàng đầu của
nông nghiệp”
6
.

Đối với công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, Đại hội cũng chỉ rõ: “đáp ứng cho được
nhu cầu của nhân dân về những loại hàng hóa thông thường, bảo đảm yêu cầu chế biến
nông, lâm, thủy sản, tăng nhanh việc làm hàng gia công xuất khẩu và các mặt hàng xuất
khẩu khác, đồng thời mở rộng mặt hàng đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng”
7
.

Với công nghiệp nặng và xây dựng kết cấu hạ tầng, quan điểm của Đại hội VI rất rõ ràng:

“phải nhằm phục vụ các mục tiêu kinh tế, quốc phòng trong chặng đường đầu tiên, và theo
khả năng thực tế sản phẩm nào mà công nghiệp nặng nhất thiết phải tạo ra trong nước để
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ thì cố gắng làm với quy mô và kỹ thuật thích
hợp không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế,
ngay cả để phục vụ cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”
8
.

Như vậy, nếu so sánh với thời kỳ 1976-1986, qua các kỳ Đại hội IV, V, quan điểm của
Đảng tại Đại hội VI về bố trí cơ cấu kinh tế đã có sự đổi mới để phù hợp hơn với thực tiễn
khách quan. Đã thực sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đặt đúng tầm và xác định
đúng vị trí của nó và tập trung sức để thực hiện 3 chương trình kinh tế, coi đó như một
hướng đi để dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế.

Về cơ cấu đầu tư, Đại hội chỉ rõ: “Theo phương hướng bố trí lại cơ cấu kinh tế, phải điều
chỉnh lớn cơ cấu đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước nhằm tập trung cho việc thực hiện
ba chương trình mục tiêu nói trên và bảo đảm phát huy hiệu quả”
9
. Tức là, phương hướng
đầu tư cho những năm tới tập trung chủ yếu cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, còn
công nghiệp nặng chỉ đầu tư cho những công trình nhanh chóng mang lại hiệu quả.

Thực tiễn đã chứng minh quan điểm bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư của Đại hội
VI là đúng đắn, phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội nước ta và có vai trò quyết định
trong việc đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển vào những
năm sau đó.

Thứ ba, “Phải coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá
độ”
10

đi lên CNXH ở nước ta, và “Muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đi đôi với
việc bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư theo ngành, theo vùng, phải xác định đúng cơ
cấu thành phần kinh tế”
11
nhằm khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế phi
20
XHCN vào xây dựng, phát triển kinh tế nước nhà, trước mắt là vốn đầu tư và giải quyết
việc làm. Đại hội VI xác định, hiện nay nước ta còn tồn tại các thành phần kinh tế: kinh tế
XHCN gồm quốc doanh và tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân
cá thể, người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư
bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số
ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.

Trên cơ sở xác định các thành phần kinh tế, việc cải tạo XHCN cũng xuất phát từ sự nhận
thức đầy đủ về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ: “Cần có chính sách sử dụng và
cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế” bởi vì nó “cho phép sử dụng nhiều hình thức
kinh tế qui mô và trình độ kỹ thuật thích hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và lưu
thông nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế liên kết với nhau, trong đó
kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo”
12
. Mọi hình thức cải tạo quan hệ sản xuất chỉ được
coi là hợp qui luật khi nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và đưa tới năng suất lao
động cao hơn, tạo điều kiện mở rộng tái sản xuất và nâng cao đời sống cho nhân dân.

Như vậy, một mặt Đảng ta thừa nhận còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, mặt khác đặt
vấn đề cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân, nhưng không phải
trong một thời gian ngắn vài ba năm, thậm chí một vài kế hoạch 5 năm, mà coi đó là
nhiệm vụ tiến hành trong suốt thời kỳ quá độ. Đại hội VI phân tích rõ: “Mười năm qua, hai
kỳ đại hội Đảng đều ghi vào nhiệm vụ căn bản hoàn thành cải tạo XHCN trong nhiệm kỳ
đại hội đó, song đều chưa thực hiện được. Cuộc sống cho ta một bài học thấm thía là

không thể nóng vội làm trái qui luật. Nay phải sửa lại cho đúng như sau: “đẩy mạnh cải
tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH, với
những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất”
13
. Vấn đề cải tạo và sử dụng các thành phần kinh tế được
thực hiện theo phương châm: sử dụng để cải tạo, cải tạo để sử dụng tốt hơn. Đây là 2 mặt
của một vấn đề trong thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng XHCN. Việc thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế và
phương châm kết hợp cải tạo với sử dụng đã mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển,
dần ổn định tình hình kinh tế - xã hội như mục tiêu đã định.

Tuy nhiên, để tiến hành cải tạo XHCN một cách vững chắc và khai thác có hiệu quả
những tiềm năng của các thành phần kinh tế phi XHCN, Đại hội VI nhấn mạnh: “làm cho
kinh tế quốc doanh thật sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế
khác”
14
. Đây là điều kiện tiên quyết trong sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của
thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.
Cùng với quan điểm đổi mới bố trí cơ cấu kinh tế, Đại hội VI cũng nhấn mạnh phải kiên
quyết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (bao gồm hệ thống các đòn bẩy kinh tế, các hình thức
và biện pháp quản lý kinh tế cụ thể), nhằm giải quyết hiệu quả những mục tiêu, nhiệm vụ
ổn định tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Việc đồng thời đổi mới cơ chế quản lý đã
tạo điều kiện cho bố trí cơ cấu kinh tế mới phù hợp với tình hình đất nước thời kỳ đầu đổi
mới phát huy được tác dụng. Sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VI “nền kinh tế đang
21
có những chuyển biến có ý nghĩa cả về cơ cấu và cơ chế quản lý. Đã bước đầu hình thành
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Cơ cấu đầu tư, cơ cấu sản xuất đã có điều chỉnh quan trọng theo hướng tập
trung cho ba chương trình kinh tế, đáp ứng có hiệu quả hơn những nhu cầu của thị trường

trong nước và bước đầu mở rộng quan hệ với thị trường thế giới”
15
.

Như vậy, trong đường lối đổi mới kinh tế được Đảng đề xướng tại Đại hội VI, vấn đề đổi
mới bố trí cơ cấu kinh tế (cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế) được đặt trong
tổng thể đường lối đổi mới toàn diện và đồng bộ về kinh tế - xã hội, với những hình thức,
biện pháp, bước đi tuần tự phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội đất nước trong chặng
đường đầu thời kỳ quá độ. Đây là cơ sở thực tiễn, lý luận quan trọng cho Đại hội VII đề ra
chủ trương hoàn thiện cơ cấu kinh tế và Đại hội VIII, IX đề ra chủ trương đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.

Đến nay, chúng ta đã có cơ cấu kinh tế tương đối hợp lý và đang chuyển dịch theo hướng
CNH-HĐH, với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong xã hội; giá trị sản xuất của
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn
trong GDP; công nghiệp đã tăng từ 21,6% (1988) lên 41% (2005); dịch vụ từ 33,1% lên
38,5%; nông nghiệp đã giảm từ 46,3% xuống còn 20,5%; các vùng kinh tế và vùng kinh tế
trọng điểm đã hình thành, phát triển trên cả nước. Những thành tựu mà đất nước đạt được
trong những năm đầu và cả chặng đường gần 20 năm đổi mới, phát triển có nguyên nhân
của sự tìm tòi, xác lập một cơ cấu kinh tế phù hợp, trong đó Đại hội VI đóng vai trò mở
đầu, đột phá
hoàn cảnh ls, nội dung cơ bản và ý nghĩa của đại hội 6(12/1986)
1- Hoàn cảnh ls
+ Đại hội họp công khai tại hn từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986, 1129 đại biểu, thay
mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên, có 35 đoàn đại biểu quốc tế đến dự.
+ Đại hội đảng lần thứ 6 họp trong bối cảnh sau 10 năm tiến hành cải tạo và xây dựng CNXH
trên cả nước, nhân dân ta đã giành được nhiều thành tựu trên cả 2 mặt trận xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Song chúng ta chưa tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó khăn và khuyết
điểm mới. Tình hình kt-xh nước ta có nhiều diễn biến phức tạp, sx trì trệ, lạm phát tốc độ cao,
nhiều mặt kt mất cân đối nghiêm trọng (làm không đủ ăn, xuất không đủ nhập, thu không đủ

chi ). Các tiêu cực xh nẩy sinh và phát triển mạnh. Đời sống nhân dân lao động hết sức khó
khăn.
+ Trong khi đó, cuộc cách mạng khoa học- công nghệ lần thứ 3 trên TG phát triển mạnh mẽ, làm
thay đổi bộ mặt và các mối quan hệ trong từng nước và trên toàn TG.
+ Trong các nước XHCN, kể cả LX và TQ, do việc xây dựng CNXH theo mô hình và phương
pháp kiểu cũ có những mặt không còn phù hợp với điều kiện ls mới, đã bộc lộ không ít khuyết
22
tật. Nhiều nước XHCN đã lâm vào khủng hoảng kt-xh, phải đi vào cải tổ, cải cách với các hình
thức và mức độ khác nhau.
+ Một mặt khác, nhiều nước tư bản, ĐQ trên TG, sau khi giải quyết được tình trạng khủng hoảng
sâu sắc của những thập kỷ trước đây, đã nhanh chóng tiếp thu được những thành tựu mới của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ 3, vươn lên phát triển nhanh chóng về kt, quốc
phòng, đã liên kết lại để tiến hành "diễn biến hòa bình" nhằm phản kích và xóa bỏ hệ thống
XHCN thế giới.
+ Đổi mới đã trở thành yêu cầu cấp thiết, có tính chất sống còn đối với XHCN thế giới nói
chung, đối với cách mạng vn nói riêng.
2- Nội dung cơ bản:
Đại hội toàn quốc lần thứ 6 của đảng đã họp trong bối cảnh ls đó. Nội dung cơ bản của đại hội là:
Đánh giá đúng thực trạng tình hình hiện nay của CMVN trên tất cả các mặt thành tựu, tồn tại yếu
kém, sai lầm, khuyết điểm và các nguyên nhân sâu xa của nó. Từ đó, rút ra các bài học kinh
nghiệm và hoạch định đường lối đổi mới công tác lãnh đạo của đảng theo tinh thần cách mạng và
khoa học.
+ Đại hội đã tích cực chuẩn bị từ năm 1984 qua nhiều cấp, nhiều vòng. Dự thảo báo cáo chính trị
của Ban chấp hành TW đảng sẽ đọc tại đại hội không những được thảo luận trong các cơ sở
đảng, mà còn được thảo luận rộng rãi trong giới trí thức, trong các viện khoa học và được tổ
chức thảo luận rộng rãi trong các tổ chức quần chúng nhân dân.
Nội dung đại hội có những vấn đề nổi bật sau đây:
* Về đánh giá tình hình:
+ Trên tinh thần trách nhiệm cao và thái độ "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ
sự thật". Đại hội đã nhận định: "Năm năm qua là 1 đoạn đường đầy thử thách đối với đảng và

nhân dân ta. CMVN diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản,
nhưng cũng có nhiều khó khăn phức tạp. Nhân ta đã đã anh dũng phấn đấu khắc phục khó khăn,
vượt qua trở ngại, đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước,
bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Trong cả nước đã xuất hiện nhiều cơ sở sx kinh doanh
khá, nhiều đơn vị chiến đấu giỏi; Song tình hình kt xh và đời sống của nhân dân ta đang gặp
nhiều khó khăn gay gắt. Sản xuất tăng chậm, lưu thông phân phối có nhiều rối ren, nền kt có
nhiều mặt mất cân đối, hiện tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi và có nơi nghiêm trọng "
+ Về nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém. Đại hội chỉ rõ: không đánh giá thấp các nguyên
nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan của các yếu kém nói trên là do những sai lầm, khuyết
điểm nghiêm trọng và kéo dìa của sự lãnh đạo, quản lý của đảng và nhà nước. Các khuyết điểm
sai lầm ấy thể hiện cả trong chủ trương, chính sách lớn và trong tổ chức chỉ đạo thực hiện.
Khuynh hướng tư tưởng dẫn đến sai lầm ấy là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành
động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan, không tôn trọng quy luật khách quan,
không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của đảng. Đó là những biểu hiện của tư
23
tưởng tiểu tư sản, vừa "tả" khuynh, vừa hữu khuynh.
Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ củ
đảng. Đó là nguyên nhân của mọi nguyên nhân.
Đại hội xác định trách nhiệm đối với những sai lầm khuyết điểm đó trước hết thuộc về BCH TW
đảng và hội đồng bộ trưởng.
* Đại hội còn nêu lên 4 bài học kinh nghiệm lớn:
+ Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây
dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
+ Hai là, đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan.
+ Ba là, phải kết hợp sức mạnh của dt với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.
+ Bốn là, phải chăm lo xây dựng đảng trong sạch vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu phát triển
của giai đoạn ls mới.
Bốn bài học kinh nghiệm trên có ý nghĩa rất lớn, nó không những là sự tổng kết kinh nghiệm quá
trình xây dựng XHCN của nhân dân ta qua mấy chục năm qua mà còn là những định hướng rất

cơ bản, mang tính quy luật cho đất nước ta xây dựng XHCN trong các giai đoạn tiếp sau.
* Đại hội đã thông qua đường lối đổi mới:
Đại hội thảo luận và nhất trí thông qua đường lối đổi mới công tác lãnh đạo của đảng trong việc
xây dựng CNXH ở nước ta:
+ Đại hội chủ trương đổi mới một cách toàn diện (cả về kt, chính trị, văn hóa, xh, tổ chức ),
trong đó đổi mới tư duy là cơ bản, đổi mới kt là trọng tâm, đổi mới với các hình thức và bước đi
thích hợp. Đổi mới trên cơ sở đảm bảo định hướng XHCN.
+ Đại hội xác định: vấn đề quan trọng trước tiên là phải xác định lại mục tiêu cho sát hợp với
quy luật đi lên CNXH từ nên sx nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
+ Đại hội chỉ rõ: thời kỳ quá độ ở nước ta phải qua nhiều chặng đường. Trong đó, chặng đường
đầu tiên là một bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn. Nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu
tiên là xây dựng những tiền đề chính trị, kt, xh cần thiết để triển khai công nghiệp hóa XHCN
trên quy mô lớn
- Về nhiệm vụ xây dựng CNXH, đại hội đã khẳng định:
"N/vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn
định mọi mặt tình hình kt-xh,tiếp tục x/dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH
XHCN trong chặng đường tiếp theo"
- Từ mục tiêu bao trùm đó, đại hội đã đề ra 5 mục tiêu cụ thể:
24
+ Sx đủ tiêu dùng và có tích lũy;
+ Tạo ra một cơ cấu kt hợp lý nhằm phát triển sx;
+ Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sx mới;
+ Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xh
+ Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
- Để thực hiện mục tiêu nói trên, đại hội đã đề ra 1 hệ thống giải pháp: về bố trí cơ cấu sx, cơ cấu
đầu tư, về xây dựng và củng cố quan hệ sx mới, sử dụng cải tạo đúng đắn các thành phần kt; về
đổi mới cơ chế quản lý; về phát huy động lực của khoa học-kỹ thuật; về mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại
Về phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kt, đại hội chủ trương trước hết phải xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới phù hợp với quy luật khách quan và trình

độ phát triển của nền kt.
Trong hệ thống các giải pháp, đại hội nhấn mạnh phải tập trung sức người, sức của vào việc thực
hiện 3 chương trình mục tiêu:
1- C/trình lương thực, thực phẩm
2-Chương trình hàng tiêu dùng
3-Chương trình hàng xuất khẩu
Ba chương trình mục tiêu đó, chính là sự cụ thể hóa nội dung cơ bản của công nghiệp hóa XHCN
trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta.
Tư tưởng chỉ đạo cốt lõi của đại hội VI là giải phóng mọi năng lực sx hiện có, khai thác mọi tiềm
năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế để phát triển lực lượng sx đi
đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sx XHCN.
Trong khi đặt nhiệm vụ xây dựng CNXH lên hàng đầu, đại hội còn khẳng định: toàn đảng, toàn
dân và toàn quân ta phải đề cao cảnh giác, tăng cường quốc phòng và an ninh, đánh thắng c/tranh
phá hoại nhiều mặt của kẻ địch, chủ động bảo vệ tổ quốc trong mọi tình huống.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng đã bầu đồng chí Nguyên văn linh làm tổng bí thư.
Các đồng chí trường chinh, phạm văn đồng, lê đức thọ được giao trách nhiệm làm cố vấn cho
ban chấp hành TW đảng.
3- ý nghĩa ls của đại hội 6
- Đại hội 6 là đại hội khởi xướng, mở đầu cho công cuộc đổi mới, tạo ra bước ngoặt quan trọng
trên con đường quá độ đi lên CNXH ở VN
25
- Đại hội 6 của đảng đã đánh dấu 1 bước trưởng thành vượt bậc của ĐCSVN. Đại hội đã giải
quyết được nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn của việc xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đường lối đổi mới của đảng đã đáp ứng được yêu cầu
nguyên vọng của toàn đảng, toàn dân ta, đồng thời phù hợp với xu thế phát triển của thời đại ls
mới
- Đường lối đổi mới của đảng thể hiện quyết tâm tiếp tục giương cao ngọn cờ chủ nghĩa M-L và
tthcm trong CMVN, đảm bảo mục tiêu cuối cùng là độc lập dt gắn liền với CNXH, thể hiện tinh
thần độc lập, tự chủ, năng động sáng tạo và bản lĩnh chính trị của đảng.
- Đường lối đổi mới của đại hội 6 đã thực sự đi vào cuộc sống, trở thành động lực thúc đẩy nền

kt nước ta phát triển, làm thay đổi bộ mặt của xh, mở đầu cho một giai đoạn phát triển mạnh mẽ
mới của ls CMVN.
- Sau đại hội 6, đảng và nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm cụ thể hóa đường lối
đổi mới, đưa đường lối đổi mới đi vào cuộc sống của toàn xh.
Câu 6: Nghị quyết 09-NQ/TW (9/2/2007) HNTW4 (Khoa X)- nêu mục tiêu tổng quát “
phấn đấu đư nước ta trở thành quốc gia mạnh về biể, làm giàu từ biển”
*** Thế nào là “ mạnh về biển, làm giàu từ biển”
Hệ sinh thái biển đa dạng là nguồn lợi quan trọng nhất của con người, gồm hàng trăm ngàn
loại động vật, thực vật và vi sinh vật. Biển và đại dương là kho chứa "vô tận" thủy hải sản, hóa
chất, muối, dầu khí, quặng Năng lượng sạch từ biển và đại dương khai thác từ gió, nước biển,
các dòng hải lưu và thuỷ triều… hiện đang được khai thác phục vụ vận tải, năng lượng và vô số
lơi ích khác của con người. Mặt biển và thềm lục địa là đường giao thông thuỷ, là nơi chứa đựng
tiềm năng cho phát triển du lịch, tham quan, nghỉ ngơi, giải trí… Bên cạnh đó, biển còn có tác
dụng điều hoà khí hậu. Bởi vậy, người ta luôn nỗ lực tìm mọi cách khác nhau để duy trì hoặc tìm
đường ra với biển.
Thếmạnhcủabiển
Hệ thống cảng biển nước ta có khả năng đón tàu vạn tấn và tiếp nhận tàu chở hàng
container; cảng chuyên dùng để bốc rót than lớn nhất, tàu vạn tấn có thể cập cảng lấy hàng, đáp
ứng nhu cầu sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của ngành than.
Cùng với cảng là sự phát triển nhanh dịch vụ kho bãi, vận chuyển đường bộ, đường biển,
các nhà máy, xí nghiệp phân phối xăng dầu, gas, sản xuất và phân phối sắt thép, xi măng, đóng

×