ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TỐNG THỊ HƢƠNG
BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TỐNG THỊ HƢƠNG
BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số : 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Khánh
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Tống Thị Hƣơng
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT i
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU THEO PHÁP
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 6
1.1. Mục đích bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam 11
1.2. Chủ thể bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam 12
1.3. Chủ thể đối kháng trong bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam 16
1.4. Thời điểm thực hiện và các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật
dân sự Việt Nam 23
1.5. Nguyên tắc thực hiện bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự
Việt Nam 25
Chương 2: CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU THEO PHÁP
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 29
2.1. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam 30
2.1.1.Biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu 30
2.1.2. Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu thông qua khởi kiện tại Tòa án 37
2.1.3.Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu thông qua cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền không phải là Tòa án 60
2.2. Bảo vệ quyền sở hữu đối với một số loại tài sản theo quy định của pháp
luật dân sự 61
2.2.1. Bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản là quyền tác giả 61
2.2.2. Bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản là nhà ở 66
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ 69
BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 69
3.1.Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật dân sự 69
3.1.1.Hoàn thiện khái niệm tài sản trong Bộ Luật dân sự nhằm mở rộng đối
tượng tài sản được bảo vệ quyền sở hữu 69
3.1.2. Ghi nhận khái niệm vật quyền và bảo vệ vật quyền bên cạnh khái niệm
quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu 71
3.1.3. Hoàn thiện quy định pháp luật về đăng ký quyền sở hữu tài sản và ghi
nhận quyền đăng ký quyền sở hữu tài sản tự nguyện của chủ sở hữu đối với
tài sản là động sản không bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu 74
3.1.4. Ý kiến đối với một số quy định liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu
trong Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi, bổ sung được Bộ Tư pháp lấy ý kiến từ
tháng 6/2014 79
3.2. Giải pháp nâng cao khả năng bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế 86
KẾT LUẬN 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
PHỤ LỤC 93
i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật Dân sự
BLTTDS : Bộ luật Tố tụng Dân sự
LSHTT : Luật Sở hữu Trí tuệ
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Bảo vệ quyền sở hữu luôn là vấn đề nhận được sự quan tâm của nhiều chủ
thể trong xã hội bởi nó gắn liền với thực thi quyền sở hữu của các tổ chức, cá
nhân trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu là cơ sở thúc đẩy quá trình tạo ra của cải,
vật chất cho xã hội và bảo vệ của cải, vật chất đó cũng như người tạo ra
chúngtrước mọi hành vi gây hại. Bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự là
vấn đề diễn ra hàng ngày, thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng,tác động trực
tiếp đến quyền và lợi ích của các bên trong đời sống. Vì vậy, việc nghiên cứu
vấn đề bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam sẽ đóng góp thêm
các vấn đề lý luận quanh đề tài này cũng như đánh giá được những khác biệt của
các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự làm cơ sở cho các chủ
thểlựa chọn phương thức bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Bảo vệ quyền sở hữu vừa là hành vi thực tế, vừa là sản phẩm của quá
trình lập pháp nhằm thiết lập cơ chế đảm bảo sự thừa nhận và thực thi quyền
sở hữu trong đời sống xã hội. Do đó, bảo vệ quyền sở hữu theo quy định của
pháp luật dân sự là phương thức bảo vệ quyền sở hữu nhận nhiều quan tâm,
nghiên cứu từ phía các nhà làm luật, người giảng dạy cho đến các nghiên cứu
sinh, học viên cao học, sinh viên chuyên ngành Luật.
Năm 2007, Bộ môn Luật dân sự thuộc Khoa Luật dân sự - Trường Đại
học Luật Hà Nội đã tổ chức một hội thảo khoa học chuyên đề về “Các biện
pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật dân sự Việt Nam” với nhiều ý kiến,
quan điểm tiếp cận khác nhau của các giảng viên trong trường về vấn đề bảo
vệ quyền sở hữu như: vấn đề kiện đòi lại tài sản là động sản không phải đăng
2
ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình; vấn đề thực tiễn trong việc
kiện đòi nhà, đất do người khác chiếm hữu không có căn cứ pháp luật tại Tòa
án nhân dân; vấn đề bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi chủ sở
hữu kiện đòi lại tài sản;vấn đề tự bảo vệ quyền sở hữu; vấn đề thực trạng về
biện pháp dân sự bảo vệ quyền sở hữu; một số vấn đề về thủ tục tố tụng dân
sự trong bảo vệ quyền sở hữu tài sản tại Tòa án nhân dân…
Bên cạnh đó, nhiều tác giả cũng đã công bố các công trình, bài viết liên
quan đến đề tài bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự như “Phương thức
bảo vệ quyền sở hữu cá nhân trong luật dân sự Việt Nam”; “Bảo đảm và bảo
vệ quyền sở hữu tài sản của công dân ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Hà
Thị Mai Hiên; “Bảo vệ quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2005” của tác
giả Tưởng Duy Lượng hay “Bảo vệ quyền sở hữu bằng phương thức kiện đòi
tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam và pháp luật dân sự của một số
nước” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn… cùng với nhiều tiểu luận, khóa luận
có nội dung xoay quanh vấn đề bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự.
Mỗi công trình nghiên cứu, bài viết tiếp cận vấn đề bảo vệ quyền sở
hữu theo các góc độ khác nhau. Trong đó, phần lớn các công trình tiếp cận
theo hướng gắn liền với bảo vệ quyền sở hữu với các quy định về quyền sở
hữu theo quy định của pháp luật dân sự cũng như phân tích, đánh giá từng
biện pháp bảo vệ quyền sở hữu cụ thể và đưa ra các đánh giá cũng như giải
pháp hoàn thiện mà chưa có một đề tài mang tính tổng quan, khái quát.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của luận văn là nêu được các đặc điểm của bảo vệ
quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam, làm rõ quy định pháp luật dân
sự về các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, đồng thời đề xuất hướng nâng cao
khả năng bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự.
3
3.2. Mục tiêu cụ thể:
Để đạt được mục đích cuối cùng của luận văn, cần phải hoàn thành các
mục tiêu cụ thể sau:
- Khái quát được đặc điểm của bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân
sự Việt Nam trong tương quan với bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật hình
sự, pháp luật hành chính;
- Phân tích các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự
Việt Nam, đánh giá được các ưu, nhược điểm;
- Đề ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu theo pháp
luật dân sự Việt Nam trên phương diện hoàn thiện pháp luật cũng như giải
pháp thực tế.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
4.1. Tính mới của đề tài
Vấn đề bảo vệ quyền sở hữu luôn nhận được sự quan tâm của nhiều tổ
chức, cá nhân trong xã hội. Vì vậy, có nhiều hội thảo, công trình khoa học
cũng như các bài viết tập trung nghiên cứu, phân tích vấn đề này. Tuy nhiên
các công trình nghiên cứu đó hầu hết chỉ phân tích đánh giá một hoặc một vài
biện pháp bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự, hoặc đánh giá vấn đề
bảo vệ quyền sở hữu trong tương quan với quyền sở hữu, hoặc tiếp cận dưới
góc độ bảo vệ quyền sở hữu của một đối tượng chủ thể mà không có một
công trình nào khái quát hóa được nội dung bảo vệ quyền sở hữu. Đề tài “Bảo
vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam” tiếp cận vấn đề bảo vệ
quyền sở hữu theo cách khái quát trên phương diện là quyền sở hữu của các
chủ thể nói chung trong xã hội, chỉ ra bản chất và sự khác biệt của bảo vệ
quyền sở hữu theo pháp luật dân sự so với các ngành luật khác và có thể ứng
dụng vào thực tiễn như là một hướng dẫn cho các chủ thể quyền thực hiện bảo
vệ quyền sở hữu theo quy định của pháp luật dân sự. Đề tài có tính mới, và
tính khái quát cao hơn các đề tài đã được thực hiện.
4
4.2. Những đóng góp của đề tài
Đề tài giúp người nghiên cứu và những người đọc có được sự hiểu biết
bao quát bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự cùng với những quy định
của pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh đó, đề tài còn đánh giá được sự khác
biệt giữa bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự với các ngành luật khác
khác và phân tích đánh giá từng biện pháp bảo vệ quyền sở hữu. Từ kết quả
nghiên cứu vận dụng đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao khả năng bảo vệ quyền
sở hữu theo pháp luật dân sự trên cả hai phương diện: hoàn thiện các quy định
pháp luật và nâng cao khả năng bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam được hiểu là bảo vệ
quyền sở hữu của tất cả các chủ thể trong xã hội, không phân biệt đó là tổ chức
hay cá nhân và các biện pháp bảo vệ sở hữu mà các chủ thể thực hiện là các biện
pháp được pháp luật dân sự Việt Nam thừa nhận và quy định trong Bộ luật dân
sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và một số văn bản pháp luật liên quan. Luận văn tập
trung phân tích, đánh giá các vấn đề mang tính lý luận, không đánh giá nhiều về
thực trạng thực hiện bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế.
6. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các nội dung sau: Khái quát về bảo vệ quyền sở
hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam; Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu theo
pháp luật dân sự Việt Nam; Một số giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền
sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam.
Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật,
5
phương pháp so sánh pháp luật và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật.
Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích, làm rõ các đặc
điểm bảo vệ quyền sở hữu, làm rõ quy định của pháp luật dân sự về các
phương thức bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân
tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn sử dụng
phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về
vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể
hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh bảo vệ quyền sở hữu
theo pháp luật dân sự với bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật hành chính,
pháp luật hình sự để đáng giá được các ưu điểm, sự lựa chọn tối ưu đối với
các chủ thể quyền sở hữu khi thực hiện bảo vệ quyền sở hữu theo quy định
của pháp luật dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần danh mục chữ viết tắt, danh mục sơ đồ, mở đầu, kết luận
và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam.
Chương 2: Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu theo
pháp luật dân sự Việt Nam.
6
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN SỞ HỮU THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Đề cập đến quyền sở hữu dưới góc độ là quyền con người được pháp
luật thừa nhận và đảm bảo thực thi không thể không đề cập đến nội dung bảo
vệ quyền sở hữu. Nếu như quyền sở hữu ghi nhận con người có quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thì bảo vệ quyền sở hữu là cách thức nhà
nước trao cho cá nhân, tổ chức tự mình hoặc thông qua người khác đảm bảo
quyền sở hữu thực sự tồn tại và được thực thi trong thực tế. Bảo vệ quyền sở
hữu là sự ghi nhận của nhà nước các biện pháp, cách thức mà chủ thể quyền
sở hữu sử dụng để chống lại các hành vi có nguy cơ hoặc đã xâm phạm đến
các quyền năng của mình. Bằng pháp luật, nhà nước ghi nhận và bảo đảm cho
quyền sở hữu được tôn trọng và thực hiện thông qua các biện pháp bảo vệ
hành chính, hình sự và dân sự. Căn cứ mức độ can thiệp của quyền lực nhà
nước, tính chất mức độ hành vi xâm phạm quyền sở hữu, pháp luật ghi nhận
các biện pháp phù hợp để quyền sở hữu được bảo vệ bao gồm: biện pháp hành
chính, biện pháp dân sự và biện pháp hình sự. Mỗi biện pháp được điều chỉnh
bởi một ngành luật riêng, mang đến những biện pháp và hiệu quả bảo vệ
quyền sở hữu khác nhau.
Với tư cách là biện pháp bảo vệ sở hữu mang tính quyền lực nhà nước
cao nhất, pháp luật hình sự quy định một số hành vi xâm phạm quyền sở hữu
được xác định là tội phạm và đặt ra các chế tài áp dụng đối với các chủ thể
thực hiện các hành vi phạm tội này. Chương XIV Bộ luật hình sự về các loại
tội xâm phạm sở hữu bao gồm 12 Điều, từ Điều 133. Tội cướp tài sản đến
Điều 145. Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, với hình phạt áp
dụng từ cải tạo không giữ đến ba năm, phạt tù từ sáu tháng đến chung thân và
cao nhất là tử hình. Ngoài ra, người bị tuyên là phạm tội còn có thể bị phạt
7
tiền cao nhất đến 100 triệu đồng, tịch thu tài sản hoặc bị cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định Các tội xâm phạm sở
hữu là các hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, gây thiệt hại hoặc đe doạ gây
thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện đầy đủ bản chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Quan hệ sở hữu là đối tượng được
bảo vệ theo quy định của pháp luật hình sự rộng hơn khái niệm quyền sở hữu ghi
nhận trong luật dân sự. Theo đó, chủ sở hữu trong một số trường hợp vẫn có thể
bị xác định là người gây ra thiệt hại cho quan hệ sở hữu trong khi chủ sở hữu
luôn luôn là người bị thiệt hại khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản. Bảo vệ
quyền sở hữu bằng biện pháp hình sự được thực hiện thông qua hệ thống cơ
quan tố tụng như cơ quan cảnh sát điều tra, cơ quan Viện kiểm sát, cơ quan Tòa
án, cơ quan Thi hành án với các quy định đầy đủ về thẩm quyền từ phát hiện,
điều tra, khởi tố đến xét xử và thi hành án. Trong đó, người bị xâm phạm bởi
hành vi trái pháp luật cũng như người thực hiện hành vi xâm phạm tham gia với
tư cách là bị can, bị cáo, người bị hại, cung cấp các tài liệu, bằng chứng trong vụ
án mà không giữ vai trò quyết định đối với phán quyết của Tòa. Và không phải
mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu đều xác định là tội phạm và bị trừng trị
theo quy định của pháp luật hình sự. Chỉ những hành vi được cơ quan tiến hành
tố tụng xác định là có dấu hiệu tội phạm mới bị điều tra, truy tố và xét xử. Và chỉ
khi có bản án của Tòa án thì hành vi xâm phạm quyền sở hữu mới bị tuyên là
hành vi phạm tội căn cứ trên tính chất nguy hiểm của hành vi, giá trị tài sản bị
xâm phạm, mức độ thiệt hại xảy ra, lỗi của người thực hiện hành vi, các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ…, người thực hiện hành vi phạm tội mới bị xác định là tội
phạm và bị áp dụng hình phạt theo quy định của Luật hình sự. Với tính trừng trị
nghiêm khắc, không có sự thỏa thuận về hậu quả mà người thực hiện hành vi
xâm phạm quyền sở hữu được xác định là tội phạm phải gánh chịu, biện pháp
bảo vệ quyền sở hữu theo quy định của pháp luật hình sự sẽ dẫn tới hạn chế một
8
số quyền công dân của người phạm tội như quyền tự do thân thể, quyền lựa chọn
công việc, quyền bỏ phiếu…, thậm chí là tước đi mạng sống của họ. Bên cạnh
đó, bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp hình sự còn mang tính răn đe lớn đối
với các chủ thể có ý định thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu của người
khác nhằm ngăn chặn các hành vi này gia tăng trên thực tế, góp phần ổn định trật
tự đời sống xã hội. Người bị xử lý hình sự khi có hành vi xâm phạm quyền sở
hữu sẽ có án tích (trừ khi án tích được xóa theo quy định của pháp luật) do đó
khi chủ thể khác khi thực hiện giao dịch với các đối tượng này, thông thường họ
sẽ có sự đề phòng nhất định để đảm bảo quyền sở hữu đối với tài sản của mình.
Bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp hình sự mang tính trừng phạt và răn đe và
có cách thức đảm bảo thực hiện cao nhất trong các biện pháp bảo vệ quyền sở
hữu được pháp luật ghi nhận. Tuy nhiên, không phải hành vi xâm phạm quyền
sở hữu nào cũng có thể bị áp dụng biện pháp xử lý hình sự, và mục đích cao nhất
của biện pháp hình sự là trừng trị người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu
nhằm bảo vệ trật tự, ổn định quan hệ xã hội mà không phải là bảo đảm cao nhất
nhằm mang lại giá trị bồi hoàn đối với thiệt hại mà người bị thiệt hại do hành vi
xâm phạm quyền sở hữu gây ra. Bên cạnh đó, bảo vệ quyền sở hữu bằng biện
pháp hình sự được thực hiện thông qua hệ thống cơ quan nhà nước với các trình
tự, thủ tục, thời hạn phải tuân thủ do đó không đáp ứng được tính kịp thời, hạn
chế tối đa thiệt hại đối với người có quyền.
Một biện pháp bảo vệ quyền sở hữu mang tính quyền lực nhà nước
được ghi nhận là bảo vệ quyền sở hữu thông qua các biện pháp hành chính áp
dụng trong từng lĩnh vực cụ thể. Biện pháp hành chính được áp dụng để xử lý
các hành vi xâm phạm quyền sở hữu bao gồm chủ thể thực hiện, các thủ tục
hành chính, hình thức hay biện pháp xử lý hành chính mà có thể áp dụng đối
với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhằm đảm bảo trật tự quản lý hành
chính nhà nước. Hiểu theo nghĩa hẹp, các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu
9
bằng biện pháp hành chính được thể hiện qua các hình thức xử phạt hành
chính và biện pháp khắc phục hậu quả mà chủ thể có hành vi xâm phạm
quyền sở hữu phải thực hiện. Thông qua Quyết định xử phạt hành chính của
chủ thể có thẩm quyền như: Chủ tịch Ủy ban nhân dân, cơ quan công an,
thanh tra, cơ quan thuế, cơ quan hải quan , người có hành vi xâm phạm sở
hữu trong lĩnh vực hành chính sẽ có khả năng bị áp dụng các hình phạt chính
bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn, tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính hay bị trục xuất. Ngoài ra, người bị xử phạt
còn có thể bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc khôi phục
lại tình trạng ban đầu, buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng
không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép, buộc tiêu hủy
hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và
môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại, buộc loại bỏ yếu tố vi phạm
trên hàng hoá, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm, buộc thu
hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng, buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền
bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán,
tiêu hủy trái quy định của pháp luật và các biện pháp khắc phục hậu quả khác
do Chính phủ quy định. Như vậy, cũng tương tự như phương thức bảo vệ
quyền sở hữu bằng biện pháp hình sự, mục tiêu hướng đến của bảo vệ quyền
sở hữu bằng biện pháp hành chính là trật tự quản lý nhà nước mà pháp luật đã
ghi nhận. Các biện pháp xử lý vi phạm hành chính được áp dụng trên người
có hành vi xâm phạm nhưng chưa thực sự đảm bảo được quyền lợi của người
bị xâm hại. Các quy định về trình tự, thủ tục hành chính còn rườm rà chưa kể
nạn quan liêu, sách nhiễu trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính khiến
việc bảo vệ quyền sở hữu của người có quyền không được thực hiện nhanh
chóng và có hiệu quả.
10
Khác với phương thức bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp hình sự và
biện pháp hành chính, xuất phát từ đặc thù của pháp luật dân sự được xây
dựng trên các nguyên tắc cơ bản về tự do, bình đẳng trong quan hệ dân sự, lấy
các chủ thể tham gia quan hệ dân sự làm trung tâm, việc bảo vệ quyền sở hữu
bằng biện pháp dân sự có nhiều khác biệt mang đến cho chủ thể quyền khả
năng thực hiện chủ động, nhanh chóng và có hiệu quả các quyền sở hữu,
chiếm hữu hợp pháp của mình. Bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự là
việc chủ thể quyền thực hiện bảo vệ quyền sở hữu của mình trên cơ sở các
quy định. nguyên tắc chung cũng như các biện pháp, cách thức mà pháp luật
dân sự ghi nhận. Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền chỉ tham gia vào quá
trình thực hiện bảo vệ quyền sở hữu thông qua biện pháp dân sự khi có yêu
cầu từ phía người có quyền và đóng vai trò trung gian không phải là chủ thể
thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, căn cứ trên các căn cứ, tài liệu
mà các bên chứng minh để đưa ra quyết định giải quyết vụ việc trên cơ sở tôn
trọng quyền thỏa thuận, tự định đoạt của các bên trong quan hệ bảo vệ quyền
sở hữu. Chủ thể quyền sở hữu, chiếm hữu hợp pháp chủ động trong toàn bộ
quá trình thực hiện biện pháp bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự với
các phương thức bảo vệ đa dạng, chỉ bị hạn chế bởi lợi ích của nhà nước, lợi
ích công cộng và lợi ích của tổ chức, cá nhân khác. Kể cả trong trường hợp
người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu đã bị xử lý theo quy định của luật
hình sự, luật hành chính thì chủ thể quyền vẫn có thể thực hiện biện pháp bảo
vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự đối với người đó nhằm đảm bảo lợi
ích của mình. Bảo vệ quyền sở hữu theo quy định của pháp luật dân sự mang
lại cho chủ thể quyền khả năng bảo vệ quyền sở hữu một cách nhanh chóng,
hiệu quả và giảm thiểu rủi ro, thiệt hại xảy ra đồng thời giúp các giao dịch dân
sự được thực hiện liên tục nhằm gia tăng lợi ích và tài sản cho cá nhân và xã
hội. Bảo vệ quyền sở hữu theo quy định của pháp luật dân sự được thể hiện cụ
thể qua các đặc điểm sau:
11
1.1. Mục đích bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam
Quyền sở hữu với tư cách là một quyền dân sự của cá nhân, tổ chức được
pháp luật công nhận và bảo vệ, không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp
luật quyền sở hữu đối với tài sản của mình. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng
dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, pháp nhân hoặc của chủ thể khác theo
quy định tại Điều 169 Bộ luật Dân sự. Khác với việc thực hiện bảo vệ quyền sở
hữu theo quy định của pháp luật hình sự và pháp luật hành chính bên cạnh việc
bảo vệ quyền sở hữu còn nhằm hướng tới mục đích cao hơn là trật tự xã hội, trật
tự quản lý hành chính do nhà nước thông qua pháp luật thiết lập. Mục đích cao
nhất của việc quy định các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự
chính là đảm bảo quyền dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đảm bảo quá trình
thực hiện quyền sở hữu, chiếm hữu hợp pháp diễn ra một cách bình thường và
mang lại lợi ích cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp trong quá trình chiếm
hữu, khai thác, sử dụng tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài
sản. Mục đích của bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự là nhằm ngăn chặn
các hành vi có nguy cơ gây thiệt hại, cản trở quá trình nắm giữ, quản lý, khai
thác, sử dụng, định đoạt tài sản của người có quyền cũng như khôi phục lại tình
trạng ban đầu của tài sản hoặc đền bù cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp
pháp một lợi ích tương đương mà họ bị mất đi khi xuất hiện hành vi xâm phạm.
Kết quả của việc thực hiện biện pháp bảo vệ quyền sở hữu theo quy định của
pháp luật dân sự không nhằm trừng trị chủ thể thực hiện hành vi cản trở, hành vi
xâm phạm đến quá trình thực hiện quyền của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp
pháp hay tước đi một số quyền của họ mà chỉ buộc họ phải thực hiện một hành
động hay bồi thường một lợi ích nhằm khôi phục quyền lợi cho người có quyền.
Mục đích của bảo vệ quyền sở hữu theo quy định của pháp luật dân sự sẽ tác
động rất lớn đến việc thiết kế các biện pháp bảo vệ cũng như xác định trách
nhiệm, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo vệ quyền sở hữu.
12
1.2. Chủ thể bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam
Chủ thể đầu tiên được thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu đầy đủ
và triệt để nhất chính là chủ sở hữu tài sản. Chủ sở hữu là người có đầy đủ 3
quyền năng sở hữu được quy định tại Điều 164 BLDS bao gồm quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Tư cách chủ sở hữu của một cá nhân, tổ
chức được xác lập dựa trên căn cứ xác lập quyền sở hữu được quy định tại Điều
170 BLDS bao gồm xác lập quyền sở hữu: do lao động, do hoạt động sản xuất,
kinh doanh hợp pháp; được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; thu hoa lợi, lợi tức; tạo thành vật mới
do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến; được thừa kế tài sản; chiếm hữu trong các điều
kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn
giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên; chiếm
hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai…phù
hợp với thời hiệu quy định và các trường hợp khác do pháp luật quy định. Chủ sở
hữu là người có thể lựa chọn tất cả các phương thức bảo vệ quyền sở hữu theo
biện pháp dân sự, đồng thời thực hiện quyền đối kháng của mình đối với bất kỳ ai
có nguy cơ và thực tế đang có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình không
kể tài sản đó là động sản hay bất động sản, tài sản có phải đăng ký quyền sở hữu
hay không phải đăng ký quyền sở hữu. Giới hạn lớn nhất mà chủ sở hữu gặp phải
khi thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu chính là các biện pháp được thực
hiện không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích
hợp pháp của người khác. Ngoài ra, trong một số trường hợp nhất định, để đảm
bảo trật tự và sự lưu thông cho các giao dịch dân sự trong đời sống, chủ sở hữu có
thể bị hạn chế trong việc lựa chọn phương thức bảo vệ quyền sở hữu nhưng quy
định này không làm mất đi quyền lợi của chủ sở hữu.
Chủ thể thứ hai thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu theo quy
định của pháp luật dân sự chính là người chiếm hữu hợp pháp. Người chiếm
13
hữu hợp pháp được ghi nhận duy nhất tại Điều 255 BLDS tuy nhiên không có
khái niệm định nghĩa “người chiếm hữu hợp pháp”. Bộ luật dân sự hiện hành
chỉ quy định các trường hợp được coi là “chiếm hữu có căn cứ pháp luật” tại
Khoản 1 Điều 183 và “chiếm hữu không có căn cứ pháp luật” sẽ được hiểu
theo phương pháp loại suy. Theo đó, chiếm hữu có căn cứ pháp luật là chiếm
hữu trong các trường hợp: chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; người được chủ sở
hữu ủy quyền quản lý tài sản; người được chuyển giao quyền chiếm hữu
thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; người phát
hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài
sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều
kiện do pháp luật quy định; người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi
dưới nước bị thất lạc phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định và các
trường hợp khác do pháp luật quy định Người chiếm hữu hợp pháp hiểu
theo nghĩa của từ “hợp pháp” là người chiếm hữu phù hợp với các quy định
của pháp luật. Như vậy, người chiếm hữu có căn cứ pháp luật chính là người
chiếm hữu hợp pháp. Tuy nhiên việc quy định người chiếm hữu hợp pháp đầu
tiên là chủ sở hữu là điều không cần thiết, vì chủ sở hữu mặc nhiên được coi
là người có quyền chiếm hữu đối với tài sản, đó cũng là cơ sở để họ thực hiện
quyền sử dụng tài sản của mình. Nếu hiểu người chiếm hữu hợp pháp là
người chiếm hữu tài sản phù hợp với các quy định của pháp luật thì người
chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình cũng được coi là người
chiếm hữu hợp pháp. Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc
chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật bao gồm người chiếm hữu
đối với tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu và không có
chứng cứ chứng minh rằng họ biết được người chuyển giao tài sản là người
không có quyền định đoạt đối với tài sản; hoặc người chiếm hữu đối với tài
14
sản là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký sở hữu nhưng có tài liệu,
chứng cứ chứng minh được rằng họ không thể biết người chuyển giao tài sản
cho mình không phải là người có quyền định đoạt đối với tài sản như giấy tờ
chứng minh quyền sở hữu bị giả tạo tới mức tinh vi mà họ không thể phát
hiện hoặc họ đã xác lập giao dịch với người mà theo quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu, người có quyền định đoạt với tài sản
nhưng thực tế lại không phải. Bên cạnh đó, người hiện đang quản lý di sản
chung là do sản thừa kế chưa chia, người quản lý các di sản dùng vào việc thờ
cúng cũng được coi là người chiếm hữu hợp pháp.
Chủ thể thứ ba, một chủ thể đặc biệt được thực hiện các biện pháp bảo
vệ quyền sở hữu theo quy định của pháp luật dân sự là người chiếm hữu tài
sản trên cơ sở quyền sử dụng đất, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề.
Hiến pháp 1992 ghi nhận hình thức sở hữu toàn dân đối với đất đai, trong đó
nhà nước là đại diện chủ sở hữu thực hiện giao tài sản cho tổ chức, cá nhân
chiếm hữu, khai thác, sử dụng và định đoạt quyền sử dụng của mình. Toàn
dân hay đại diện là nhà nước không thể tự mình thực hiện các quyền sở hữu
đối với đất đai vì thế nhà nước giao lại quyền chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt quyền sử dụng lại cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện một phần
quyền sở hữu thông qua việc chiếm hữu, sử dụng, khai thác, hưởng lợi, cũng
như định đoạt quyền sử dụng như chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho, thừa
kế… Đương nhiên, đối với các quyền đã được nhà nước giao, chủ sử dụng đất
phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với đại diện nhà nước. Đối với chủ
sở hữu nhà và người sử dụng đất liền kề tuy không phải là chủ sở hữu của bất
động sản liền kề nhưng họ lại có quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề
trên cơ sở thỏa thuận hoặc quy định pháp luật trong trường hợp nhà, đất của
họ bị vây bọc bởi bất động sản khác mà không có phía nào tiếp giáp với công
trình hạ tầng cơ sở kỹ thuật. Việc bảo vệ quyền sử dụng bất động sản liền kề
15
phát sinh từ thực tiễn bị hạn chế bởi bất động sản vây bọc nên chủ sở hữu nhà,
người sử dụng bất động sản liền kề phải nhờ đến bất động sản thuộc sở hữu,
sử dụng của người khác để có một lối đi, một đường cấp thoát nước, cấp khí
ga hoặc các nhu cầu cần thiết khác Quyền sử dụng của hai chủ thể này sinh
ra trên cơ sở sự chia sẻ phần quyền chiếm hữu, sử dụng từ chủ sở hữu theo
thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Tuy không phải là người có
quyền sử dụng đối với đất đai hay bất động sản liền kề nhưng người sử dụng
đất và người sử dụng bất động sản liền kề vẫn có quyền thực hiện đầy đủ các
biện pháp bảo vệ mà pháp luật ghi nhận cho chủ sở hữu.
Pháp luật dân sự Việt Nam không tách biệt quyền sở hữu và quyền
chiếm hữu như pháp luật nhiều quốc gia khác mà ghi nhận chiếm hữu là một
trong những nội dung của quyền sở hữu, là hình thức biểu hiện bên ngoài của
sở hữu thể hiện ở việc thực tế đang nắm giữ, quản lý đối với tài sản. Do đó,
trong trường hợp chủ thể thứ 2 và thứ 3 đã ghi nhận ở trên, mặc dù khái niệm
người chiếm hữu có căn cứ pháp luật và người chiếm hữu trên cơ sở quyền sử
dụng đất và quyền sử dụng bất động sản liền kề được ghi nhận nhưng không
được hiểu những chủ thể này nắm quyền chiếm hữu một cách tuyệt đối,
quyền của họ được pháp luật quy định và bị hạn chế bởi thỏa thuận đối với
chủ sở hữu.
Trong nhiều trường hợp, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, người
có quyền sử dụng đất, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề là người
chưa có đầy đủ năng lực hành vi, người hạn chế năng lực hành vi, người mất
năng lực hành vi hoặc vì lý do nào đó không thể tự mình thực hiện các biện
pháp tự bảo vệ quyền sở hữu thì người đại diện hợp pháp theo quy định của
pháp luật hoặc theo thỏa thuận như: người giám hộ, người được ủy quyền hợp
pháp sẽ thay mặt họ thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu theo quy định của
pháp luật dân sự. Nếu chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, người có
16
quyền sử dụng đất là cơ quan, tổ chức thì người đại diện hợp pháp hoặc người
được người đại diện hợp pháp ủy quyền sẽ đứng ra đại diện thực hiện các biện
pháp tự bảo vệ quyền sở hữu theo luật định.
Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tham gia quá trình bảo vệ
quyền sở hữu theo pháp luật dân sự với tư cách là chủ thể trung gian, hỗ trợ
chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp bảo vệ quyền sở hữu của mình khi có
yêu cầu bằng cách thừa nhận giá trị pháp lý của các tài liệu, chứng cứ chứng
minh mà họ cung cấp, thực hiện các biện pháp khẩn cấp nhằm tránh thiệt hại
khi các chủ thể quyền yêu cầu, công nhận và đảm bảo cho thỏa thuận giữa các
chủ thể được thực hiện trong thực tế. Vai trò của chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp, người có quyền sử dụng đất, quyền sử dụng bất động sản liền
kề luôn thể hiện vị trí trung tâm và quyết định đến hiệu quả của các biện pháp
bảo vệ được thực hiện.
1.3. Chủ thể đối kháng trong bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam
Tất cả những người có nguy cơ hoặc đã thực hiện hành vi trái pháp luật
tác động tới lợi ích của chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp, người
chiếm hữu trên cơ sở quyền sử dụng đất và quyền sử dụng bất động sản liền
kề theo quy định đều có thể là chủ thể đối kháng trong quan hệ bảo vệ quyền
sở hữu. Đó là người mà chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng
đối với tài sản nhưng không thực hiện đầy đủ các cam kết mà hai bên đã thỏa
thuận, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình hoặc không
ngay tình, thậm chí là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có các quyết
định, bản án trái pháp luật xâm hại đến quyền và lợi ích của chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp, người có quyền sử dụng đất và quyền sử dụng bất
động sản liền kề.
Trước tiên, chủ thể đối kháng trong quan hệ bảo vệ quyền sở hữu có thể
là người được chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, người có quyền sử
17
dụng đất, quyền sử dụng bất động sản liền kề chuyển giao quyền chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt theo thỏa thuận thông qua một giao dịch hợp pháp như hợp
đồng ủy quyền, hợp đồng cho vay, thế chấp, hợp đồng thuê tài sản… Tuy
nhiên, trong thời gian thực hiện thỏa thuận, chủ thể này thực hiện hoặc không
thực hiện hành vi dẫn tới vi phạm các điều khoản đã thỏa thuận giữa các bên
về việc chiếm hữu, khai thác, sử dụng tài sản, ảnh hưởng tới quyền lợi của
chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, người có quyền sử dụng đất, quyền
sử dụng bất động sản liền kề. Do đó, căn cứ trên các ràng buộc phát sinh từ
hợp đồng, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, người có quyền sử dụng
đất, quyền sử dụng bất động sản liền kề có thể yêu cầu chấm dứt hợp đồng,
đòi lại tài sản hay yêu cầu bồi thường thiệt hại. Việc bảo vệ quyền sở hữu
trong trường hợp này rõ ràng và thuận lợi hơn khi chứng minh quan hệ xác
lập giữa hai bên cũng như chỉ rõ các vi phạm dẫn đến chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp, người có quyền sử dụng đất, quyền sử dụng bất động
sản liền kề thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu của mình hay xác
định các thiệt hại mà bên vi phạm hợp đồng đã gây ra.
Chủ thể đối kháng thứ hai là người chiếm hữu không có căn cứ pháp
luật đối với tài sản. Như đã nêu quy định chiếm hữu có căn cứ pháp luật ở
phần trên, chiếm hữu không có căn cứ pháp luật hiểu theo phương thức loại
suy là chiếm hữu không căn cứ trên các căn cứ xác lập quy định tại Khoản 1
Điều 183 BLDS. Người chiếm hữu không có căn pháp luật có thể là người đã
lấy cắp, chiếm đoạt tài sản từ chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, hoặc là
người hiện đang chiếm hữu, sử dụng tài sản thông qua xác lập giao dịch với
người không phải là chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp của tài sản
đó…Ví dụ: anh A là chủ sở hữu của chiếc xe máy SH nhập khẩu phân khối
125 cc màu xanh biển số 29A-032.21. Khi anh A vắng nhà, B đã phá khóa
cửa vào nhà anh A lấy trộm chiếc xe máy bao gồm cả giấy tờ chứng nhận
18
quyền sở hữu xe trong cốp và mang ra tiệm cầm đồ bán cho anh C là chủ tiệm
cầm đồ. Anh C sau đó đã bán chiếc xe này cho anh D. Như vậy, người chiếm
hữu tài sản không có căn cứ pháp luật trong tình huống này bao gồm anh B,
anh C và anh D. Anh B có sự chiếm hữu tài sản trên cơ sở hành vi vi phạm
quy định của pháp luật hình sự là hành vi trộm cắp, trong khi đó anh C và anh
D là người thứ ba có được xe máy trên cơ sở thực hiện giao dịch với anh B và
anh C là người không có quyền sở hữu đối với tài sản mà trong trường hợp
này, anh C và anh D khi thực hiện giao dịch đối với tài sản phải đăng ký sở
hữu là chiếc xe máy buộc phải biết về chủ sở hữu thực sự của chiếc xe. Về
mặt nguyên tắc, hành vi chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật được
hiểu là không ngay tình. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn có những trường hợp,
người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không biết được rằng việc chiếm
hữu của mình là không có căn cứ. Do vậy, để xác định đúng chủ thể đối
kháng khi thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, pháp luật dân sự căn
cứ vào việc buộc phải biết hay không biết/không thể biết hành vi chiếm hữu
tài sản có căn cứ pháp luật mà chia người chiếm hữu không có căn cứ pháp
luật đối với tài sản thành hai dạng là người chiếm hữu không có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình và người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không
ngay tình. Trên cơ sở đó, chỉ dẫn chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đến
đối tượng cần thực hiện biện pháp đối kháng thực sự sao cho phù hợp quy
định pháp luật, hiệu quả và bảo đảm trật tự xã hội. Khoản 2 Điều 183 BLDS
quy định: “Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là
người chiếm hữu mà không biết hay không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó
là không có căn cứ pháp luật” [6]. Vậy trong trường hợp nào, người chiếm
hữu không biết hay không thể biết việc chiếm hữu tài sản là không có căn cứ
pháp luật. Điều này không đồng nghĩa với việc người chiếm hữu biết hay
không biết về quy định tại khoản 2 Điều 183 BLDS mà phụ thuộc vào quá
trình thực hiện giao dịch chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản, người chiếm
19
hữu đã thể hiện động cơ, mục đích giao dịch của mình như thế nào thông qua
việc xem xét, tìm hiểu về tình trạng pháp lý của tài sản, về tình trạng thực tế
của tài sản, về giá trị trao đổi mà người chiếm hữu đã thực hiện.
Nếu như tài sản mà người chiếm hữu có được từ một giao dịch xác lập
với người không phải là chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp là một bất
động sản hoặc động sản phải đăng ký sở hữu thì mặc nhiên họ sẽ được hiểu là
người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình và luôn luôn là
chủ thể đối kháng trong quan hệ bảo vệ quyền sở hữu. Bởi tài sản phải đăng
ký quyền sở hữu là những tài sản có giá trị lớn, quyền sở hữu đối với các tài
sản này phải được nhà nước công nhận. Vì vậy, khi giao dịch chủ sở hữu phải
xuất trình được các giấy tờ chứng minh tư cách chủ sở hữu đối với tài sản,
còn người thiết lập giao dịch với người được coi là chủ sở hữu phải kiểm tra,
xem xét, đánh giá bằng mọi biện pháp để xác định đó là chủ sở hữu của tài
sản nhằm bảo đảm giao dịch của mình hợp pháp. Vì thế, không thể cho rằng
họ không biết về việc người thiết lập giao dịch với mình không phải là chủ sở
hữu của tài sản. Đương nhiên, trong thực tế cũng không ít trường hợp có
nhiều cá nhân, tổ chức đã thực hiện giả mạo hồ sơ, giấy tờ với mục đích lừa
đảo dẫn đến người xác lập quan hệ giao dịch với họ không thể biết các giấy tờ
đó là giả. Ví dụ như trường hợp một số cá nhân, tổ chức giả mạo giấy tờ
chứng nhận quyền sở hữu nhà chung cư hoặc quyết định cấp đất xây dựng nhà
chung cư sau đó bán lại cho các cá nhân có nhu cầu mà mức độ làm giả đến
mức những người lao động đang có mong muốn mua nhà, mua đất ở thủ đô
không thể biết các quyết định, con dấu đó là giả. Trong trường hợp này,
những người chiếm hữu tài sản buộc phải chứng minh về việc mình đã tìm
mọi biện pháp để tìm hiểu về chủ sở hữu tài sản nhưng không thể biết được
người giao dịch với mình không phải là chủ sở hữu thực tế. Quan hệ pháp luật
mà người chiếm hữu tài sản tham gia liên quan đến các quy định của pháp