Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Khu di tích ngã ba đồng lộc với việc phát triển du lịch văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 61 trang )




TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
=======***=======





TRẦN THỊ HUYỀN TRANG




KHU DI TÍCH NGÃ BA ĐỒNG LỘC
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học











HÀ NỘI - 2014



TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
=======***=======




TRẦN THỊ HUYỀN TRANG





KHU DI TÍCH NGÃ BA ĐỒNG LỘC
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

ThS. VŨ NGỌC DOANH





HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi
đã nhận đƣợc sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo khoa Ngữ văn. Tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô đặc biệt là thầy giáo GVC.ThS.Vũ
Ngọc Doanh, ngƣời đã trực tiếp tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực
hiện và hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày…. tháng ….năm 2014
Tác giả khóa luận


Trần Thị Huyền Trang




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự

hƣớng dẫn và giúp đỡ của GVC. ThS. Vũ Ngọc Doanh. Những nội dung
và số liệu trình bày trong khóa luận là trung thực và chƣa đƣợc công bố
trong bất kì công trình khoa học nào. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.

Hà Nội, ngày…. tháng ….năm 2014
Tác giả khóa luận


Trần Thị Huyền Trang




TÊN VIẾT TẮT

AHLS
Anh hùng liệt sĩ
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
GTVT
Giao thông vận tải
NXB
Nhà xuất bản
TNCS
Thanh niên cộng sản
TNXP
Thanh niên xung phong
TW
Trung Ƣơng

UBND
Uỷ ban nhân dân
UNESCO
Tổ chức Khoa học, Văn hóa và
Giáo dục Liên Hợp Quốc.
VHTT
Văn hóa thông tin
WTO
Tổ chức du lịch Thế giới





MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 7
NỘI DUNG 11
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN & THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
DU LỊCH VĂN HÓA Ở KHU DI TÍCH NGÃ BA ĐỒNG LỘC 11
1.1. Cơ sở lý luận 11
1.1.1. Khái niệm văn hóa 11
1.1.2. Khái niệm du lịch 13
1.1.3. Khái niệm du lịch văn hóa 16
1.1.4. Khái niệm di tích, di tích lịch sử - văn hóa 17
1.1.5. Mối quan hệ giữa di tích lịch sử - văn hóa và du lịch văn hóa 18
1.2. Cơ sở thực tiễn 20
1.2.1. Xuất phát từ yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay 20
1.2.2. Xuất phát từ thực trạng phát triển của Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc 20
Chƣơng 2. KHU DI TÍCH NGÃ BA ĐỒNG LỘC 22
2.1. Vị trí địa lý & điều kiện tự nhiên 22

2.1.1. Vị trí địa lý 22
2.1.2. Địa hình 22
2.1.3. Khí hậu 22
2.2. Lịch sử hình thành 23
2.2.1. Vị trí chiến lược của Ngã ba Đồng Lộc 23
2.2.2. Ngã ba Đồng Lộc qua các thời kỳ lịch sử 24
2.3. Đặc điểm của Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc 28
2.3.1. Đặc điểm về kiến trúc & các hạng mục công trình kiến trúc tiêu biểu 28
2.3.2. Đặc điểm về lịch sử 34
2.3.3. Đặc điểm về văn hóa 36


2.4. Tiềm năng phát triển du lịch văn hóa của Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc
37
2.4.1. Giá trị văn hóa của các công trình kiến trúc 37
2.4.2. Giá trị lịch sử 38
2.4.3. Giá trị văn hóa (tâm linh) 39
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN
HÓA TẠI KHU DI TÍCH NGÃ BA ĐỒNG LỘC 40
3.1. Thực trạng phát triển du lịch văn hóa tại Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc 40
3.1.1. Về khách du lịch 40
3.1.2. Về doanh thu du lịch 41
3.1.3. Về công tác tổ chức của những người làm du lịch 41
3.1.4. Về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất phục vụ khách du lịch 42
3.2. Giải pháp phát triển du lịch văn hóa tại khu di tích Ngã ba Đồng Lộc 43
3.2.1. Giải pháp về cơ chế chính sách 43
3.2.2. Giải pháp về kinh phí 44
3.2.3. Giải pháp về công tác tổ chức 45
3.2.4. Giải pháp về đào tạo bồi dưỡng 45
3.2.5. Giải pháp về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất 46

3.2.6. Giải pháp về thông tin tuyên truyền 47
KẾT LUẬN 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



7

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hiện nay, việc khảo cứu, bảo tồn và phát huy giá
trị văn hoá truyền thống giữ một vai trò quan trọng. Nó góp phần thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội và làm đổi thay nhận thức lối sống ngƣời dân.
Đặc biệt, đối với các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam, vấn đề phát triển
du lịch văn hoá giữ vai trò quan trọng trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hoá.
Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế phát triển, chính trị ổn
định, đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời dân đƣợc nâng lên. Thói
quen và nhu cầu đi du lịch của du khách trong và ngoài nƣớc tăng lên đáng
kể. Nhu cầu du lịch văn hoá, tâm linh và lễ hội trở thành xu hƣớng cơ bản
và là sự lựa chọn của phần đông du khách. Xu thế này đƣợc thể hiện rất rõ
ở những địa phƣơng có nhiều lễ hội, di tích lịch sử văn hóa.
Hà Tĩnh - khúc ruột miền Trung của cả nƣớc, là quê hƣơng của đại thi
hào Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, cũng là nơi đã sinh ra vị Tổng Bí Thƣ
đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam - Trần Phú Mảnh đất ấy cũng là
nơi có chùa Hƣơng Tích - ngôi chùa đƣợc biết đến với danh hiệu “Hoan
Châu đệ nhất danh lam” Hà Tĩnh còn là nơi có nhiều địa chỉ đỏ cách
mạng nhƣ Ngã ba Nghèn với phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, Bến đò

Thƣợng Trụ Nhƣng tiêu biểu nhất phải kể đến Khu di tích lịch sử Ngã ba
Đồng Lộc.
Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên việc phát triển du
lịch văn hoá tại Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc trong thời gian qua chƣa
tƣơng xứng với tiềm năng vốn có. Nếu không nghiên cứu một cách khoa
học về tiềm năng, thực trạng để đề ra những giải pháp phát triển thì không
8

thể đạt đƣợc những kết quả nhƣ mong muốn. Với ý nghĩa đó, việc quản lý
và bảo tồn các giá trị du lịch văn hoá tại Ngã ba Đồng Lộc giữ một vai trò
quan trọng; nó không chỉ giúp giáo dục thế hệ trẻ mà còn có vị trí không nhỏ
trong chiến lƣợc phát triển du lịch văn hoá nói riêng và phát triển kinh tế -
xã hội nói chung của huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Là một ngƣời con của mảnh đất này và là một cử nhân Việt Nam học
tƣơng lai, chúng tôi chọn đề tài “Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc với việc
phát triển du lịch văn hóa” với mong muốn đóng góp những ý kiến, giải
pháp nhằm góp phần vào sự phát triển Khu di tích, đồng thời mang đến cho
bạn đọc một số thông tin mới về Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc.
2. Lịch sử vấn đề
Ngã ba Đồng Lộc là một địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng, vì vậy đã có
nhiều đề tài viết về Khu di tích này nhƣ:
- Ban quản lí Khu di tích lịch sử TNXP Ngã ba Đồng Lộc (2008), Đồng
Lộc xưa và nay, NXB Lao động - Xã hội.
- Bùi Minh Huệ, Đặng Thị Yến (2011), Khúc anh hùng ca Ngã ba Đồng
Lộc, NXB Nghệ An.
- Đức Ban, Trần Huy Quang (2011), Chuyện Mười cô gái Đồng Lộc,
NXB Thanh niên.
- Nghiêm Văn Tân (2012), Mười cô gái Ngã ba Đồng Lộc, NXB Phụ nữ.
- Nhiều tác giả (2007), Vầng trăng Đồng Lộc, NXB Nghệ An.
Nhìn chung giới nghiên cứu đã nêu đƣợc những nét khái quát nhất, chƣa

đi sâu vào tìm hiểu cụ thể, toàn diện. Đặc biệt là tổng thể các tiềm năng du
lịch tự nhiên, tiềm năng du lịch nhân văn, nêu thực trạng và đƣa ra giải pháp
để phát triển du lịch văn hóa tại Ngã ba Đồng Lộc. Mặc dù vậy, kết quả
nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc là cơ sở và là sự gợi ý quý giá cho
chúng tôi tiếp tục nghiên cứu đề khóa luận tốt nghiệp của mình.
9

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm hiểu về Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc để có thêm hiểu
biết đầy đủ hơn về địa chỉ đỏ Ngã ba Đồng Lộc và quá khứ hào hùng của
dân tộc trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Thông qua
nghiên cứu quảng bá văn hóa, giới thiệu văn hóa vùng miền, phát triển du
lịch nâng cao chất lƣợng cuộc sống.
Nghiên cứu để tìm giải pháp, định hƣớng bảo tồn, phát huy có hiệu quả
hơn nữa các giá trị của di tích nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa tâm linh
của cộng đồng.
Giáo dục cho thế hệ sau củng cố về lòng biết ơn, trách nhiệm lƣu giữ
vốn văn hóa chung của dân tộc.
Cùng nhau chung tay đồng lòng giữ gìn vốn văn hóa truyền thống làm
cho văn hóa dân tộc Việt Nam ngày càng phát triển.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tập hợp đƣợc một nguồn tài liệu phong phú, đầy đủ về Ngã ba Đồng
Lộc.
Tìm hiểu hoạt động du lịch văn hóa tại Ngã ba Đồng Lộc trong những
năm gần đây.
Đề xuất giải pháp nhằm góp phần bảo tồn, phát huy giá trị của di tích
Ngã ba Đồng Lộc theo hƣớng phát triển du lịch văn hóa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Tiềm năng, thực trạng và biện pháp phát triển du lịch văn hóa của Khu
di tích Ngã ba Đồng Lộc
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vai trò, tầm quan trọng, giá trị và ảnh hƣởng của Ngã ba Đồng Lộc
trong đời sống cộng đồng.
10

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện khóa luận này chúng tôi đã sử dụng một số phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp tra cứu tài liệu;
- Phƣơng pháp thu thập, xử lí thông tin;
- Phƣơng pháp khảo sát thực địa;
- Phƣơng pháp phỏng vấn.
6. Đóng góp của đề tài nghiên cứu
Trên cơ sở tổng hợp, bổ sung, phát triển nội dung nghiên cứu của khóa
luận tốt nghiệp mở ra hƣớng mới trong khai thác tiềm năng và các giải
pháp phát triển du lịch văn hóa tại Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội
dung khóa luận gồm có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận & thực tiễn của việc nghiên cứu du lịch văn
hóa nhân văn ở Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc.
Chƣơng 2: Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc.
Chƣơng 3: Thực trạng và giải pháp phát triển du lịch văn hóa ở Khu di
tích Ngã ba Đồng Lộc.


11

NỘI DUNG

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN & THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
DU LỊCH VĂN HÓA Ở KHU DI TÍCH NGÃ BA ĐỒNG LỘC
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Muốn nghiên cứu vai trò của văn hóa đối với phát triển du lịch, trƣớc
tiên phải có một khái niệm mang tính chuyên dùng về văn hóa cũng nhƣ cấu
trúc của nó. Thực tế cho thấy, có rất nhiều định nghĩa văn hóa khác nhau,
song giới nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nƣớc vẫn chƣa có một khái niệm
thống nhất về thuật ngữ này. Nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học đã thống kê
đƣợc hàng trăm các khái niệm về văn hóa khác nhau và đi đến kết luận rằng:
Khái niệm văn hóa đƣợc dùng rất tùy tiện. Cho đến nay vẫn chƣa có một sự
nhất trí và cũng chƣa có định nghĩa nào thỏa mãn đƣợc cả về định tính và
định lƣợng.
Trong Hội nghị Chính phủ về các chính sách văn hóa họp năm 1970 tại
Venise (Áo), ông Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO đƣa ra khái
niệm: “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời
trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao
gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản
phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống
và lao động”. Đây là khái niệm đƣợc đƣa ra trong bối cảnh thế giới còn nhiều
sự phân biệt văn hóa dân tộc lớn, dân tộc bé, văn hóa dân tộc này cao, dân tộc
kia thấp, văn hóa dân tộc này văn minh, dân tộc kia lạc hậu. Khái niệm trên
còn thể hiện ý nghĩa chính trị rất lớn về việc khẳng định văn hóa dân tộc với
những bản sắc riêng.
Tại Mehico từ ngày 26/7 đến 6/8/1982, Hội nghị quốc tế về văn hóa bắt
12

đầu cho thập kỷ văn hóa UNESCO đã diễn ra. Tới dự có hơn một nghìn đại
biểu đại diện cho hơn một trăm quốc gia tham gia. Sau nhiều ngày làm việc

và thảo luận các vấn đề về văn hóa, cuối cùng Hội nghị đã quyết định nhƣ
sau: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về
tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội
hay nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương,
những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá
trị, những tập tục và tín ngưỡng”. Khái niệm này đề cập đến văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần, vừa nói đến hệ giá trị và đặc biệt là nêu lên “những nét
riêng biệt về văn hóa của một xã hội hay một nhóm ngƣời trong xã hội”. Nhƣ
vậy, có thể xem đây là khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng, kèm theo đó là
quan điểm công nhận mỗi dân tộc dù lớn hay nhỏ đều có bản sắc văn hóa.
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (2006), NXB Đà Nẵng
thì văn hóa đƣợc hiểu là:
- Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử;
- Những hoạt động của con ngƣời nhằm thỏa mãn đời sống tinh thần;
- Tri thức, kiến thức khoa học;
- Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh;
- Nền văn hóa của một thời kì cổ xƣa, đƣợc xác định trên cơ sở một tổng
thể những di vật đƣợc có những đặc điểm giống nhau.
Hiểu là nhƣ vậy, nhƣng cho đến nay, vẫn chƣa có một khái niệm văn hóa
chung nhất. Ngay là tổ chức cao nhất về văn hóa nhân loại là UNESCO đã
nhiều lần đƣa ra các khái niệm về văn hóa nhƣ năm 1982 nhƣng chƣa phải là
khái niệm đƣợc cả thế giới chấp nhận. Hiện nay thì số lƣợng khái niệm về văn
hóa ngày càng tăng theo cấp số nhân, phải chăng văn hóa là một cái gì đó quá
phức tạp?
Trong phạm vi nghiên cứu vấn đề về du lịch văn hóa, chúng ta nên hiểu
13

và xét định nghĩa văn hóa ở hai góc độ là văn hóa theo nghĩa rộng và văn hóa
theo nghĩa hẹp của UNESCO.

Văn hóa theo nghĩa rộng: “Là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần
và vật chất, trí tuệ và xúc cảm của một xã hội hay của một nhóm người trong
xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật, văn chương, những lối sống, những hệ
thống các giá trị lịch sử văn hóa, những tập tục và tín ngưỡng những quyền
cơ bản của con người. Khái niệm này đề cập đến văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần, vừa nói đến hệ giá trị và đặc biệt là nêu lên những nét riêng biệt về
văn hóa của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội”.
Văn hóa theo nghĩa hẹp: “Là hệ thống bao gồm những khái niệm gắn từ
“văn hóa” với một chuyên ngành nào đó”. Ví dụ: văn hóa tôn giáo, văn hóa
dân gian, văn hóa xã hội, địa văn hóa, nhân học văn hóa, xã hội học văn hóa,
du lịch văn hóa để chiếm vị trí chính yếu trong khái niệm đó. Ví dụ khái
niệm “Địa văn hóa” nói đến điều kiện địa lí, khí hậu trong một không gian
nhất định ảnh hƣởng đến một nền văn hóa nào đó; khái niệm “văn hóa nghệ
thuật” hay “ văn học nghệ thuật” là khái niệm văn hóa gắn với việc sáng tạo,
hƣởng thụ và phê bình các chuyên ngành văn hóa nghệ thuật nhƣ âm nhạc,
mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh…
1.1.2. Khái niệm du lịch
Thực tế cho thấy, thuật ngữ du lịch đã trở nên thông dụng trên toàn cầu.
Thuật ngữ du lịch bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là đi một vòng. Sau
này, nó đƣợc Latinh hóa thành tornus rồi thành touriste (theo tiếng Pháp),
tourism (theo tiếng Anh). Học giả ngƣời Anh - Robert Lanquar cho biết: “từ
touriste lần đầu tiên xuất hiện trong tiếng Anh vào khoảng năm 1800”. Nhƣ
vậy, có thể thấy rằng thuật ngữ du lịch đã xuất hiện từ rất sớm.
Trong tiếng Việt, thuật ngữ touriste đƣợc dịch qua tiếng Hán.
Du: có nghĩa là đi chơi; lịch: có nghĩa là từng trải.
14

Theo từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ 2006, NXB Đà Nẵng thì:
Du lịch là “đi xa cho biết xứ lạ khác với nơi mình ở”.
Liên hiệp Quốc các tổ chức lữ hành chính thức (International Union of

Official Travel Oragnization: IUOTO) định nghĩa: “Du lịch được hiểu là hành
động du hành đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình
nhằm mục đích không phải làm ăn, tức không phải làm một nghề hay một việc
kiếm tiền sinh sống…”, khái niệm này đáp ứng đƣợc tính cơ bản về chủ thể du
lịch, do vậy ít đƣợc sử dụng.
Với sự thống nhất từ nhiều quan điểm khác nhau, tại Hội nghị Liên hiệp
Quốc về du lịch tại Roma - Italia (21/08 - 5/9/1963), các chuyên gia đƣa ra
định nghĩa: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tƣợng và các hoạt
động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lƣu trú cá nhân hay tập thể ở
bên ngoài nơi ở thƣờng xuyên của họ với mục đích hòa bình. Nơi đến lƣu trú
không phải nơi làm việc của họ.”
Theo định nghĩa của tổ chức du lịch Thế giới WTO (World Tourist
Organization) - là một cơ quan của Liên Hợp quốc thì “Du lịch là đi đến một
nơi khác xa nơi thường trú, để giải trí, nghỉ dưỡng trong thời gian rỗi. Du
lịch bao gồm tất cả các hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong
mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích
nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục
đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên
ngoài môi trường sống, định cư; nhưng ngoại trừ các du khách có mục đích
là kiếm tiền. Du lịch cũng là nghỉ ngơi năng động trong thời môi trường sống
khác hẳn nơi định cư”.
Những năm gần đây, nhiều học giả và các chuyên gia về du lịch cũng
nhƣ đại đa số mọi ngƣời thƣờng sử dụng khái niệm của I.I. Pioogionic đƣa ra
năm 1985 ông cho rằng: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong
15

thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư
trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần,
nâng cao trình độ nhận thức văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ
những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa”.

Nhƣ vậy, trong lịch sử đã có rất nhiều khái niệm và quan điểm khác nhau
về du lịch, các khái niệm, các quan điểm này có sự thay đổi theo thời gian
song cơ bản và tóm lại, cái gốc của du lịch vẫn là tìm đến với không gian
khác mà mình sinh sống để hƣởng thụ các giá trị vật chất, tinh thần, từ đó
nhằm nâng cao chất lƣợng cuộc sống.
Khái niệm du lịch sẽ càng rõ ràng hơn khi nhìn nhận ở các góc độ
khác nhau.
Nhìn từ góc độ nhu cầu của du khách, du lịch là một sản phẩm tất yếu
của sự phát triển kinh tế - xã hội loài ngƣời đến một giai đoạn phát triển nhất
định. Chỉ trong hoàn cảnh nền kinh tế thị trƣờng phát triển, gia tăng thu nhập
bình quân đầu ngƣời, tăng thời gian rỗi do tiến bộ khoa học - công nghệ,
phƣơng tiện giao thông và thông tin ngày càng phát triển, làm phát sinh nhu
cầu nghỉ ngơi, tham quan du lịch của con ngƣời. Nhƣ vậy, du lịch là du ngoạn
để cảm nhận những giá trị vật chất và tinh thần có tính chất văn hóa cao.
Nhìn từ góc độ kinh tế, du lịch là “ngành công nghiệp không khói của
mỗi quốc gia” dựa trên nền tảng của tài nguyên du lịch để hoạch định chiến
lƣợc phát triển du lịch, định hƣớng các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn
hạn nhằm phát triển và thu lợi ích đóng góp cho nền kinh tế quốc dân.
Nhìn từ góc độ sản phẩm, du lịch có đặc trƣng đó là các chƣơng trình du
lịch, nội dung chủ yếu là sự liên kết những di tích lịch sử, di tích văn hóa và cảnh
quan thiên nhiên nổi tiếng cùng với cơ sở vật chất - kết cấu hạ tầng nhƣ cơ sở
lƣu trú, ăn uống, vận chuyển nhằm phục vụ tối đa nhu cầu của du khách.
Nhìn từ góc độ thị trƣờng, mục đích chủ yếu của các nhà tiếp thị du lịch
16

là tìm kiếm thị trƣờng du lịch, tìm kiếm nhu cầu của du khách để mua chƣơng
trình du lịch thu hút khách đến với mình.
Nhƣ vậy, với nhiều khái niệm và quan điểm khác nhau đƣợc đƣa ra đã
cho thấy ý nghĩa, tầm quan trọng của “ngành công nghiệp không khói” tại
mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ trong định hƣớng phát triển du lịch của mình.

1.1.3. Khái niệm du lịch văn hóa
Ngày nay, loại hình du lịch văn hóa đƣợc rất nhiều quốc gia và vùng
lãnh thổ quan tâm, đồng thời là xu hƣớng chung trong chiến lƣợc phát triển
du lịch của các nƣớc đang phát triển trong đó có Việt Nam. Du lịch văn hóa
đƣợc xem là một sản phẩm đặc thù, quyết định sự tăng trƣởng và sự hấp dẫn
bền lâu của du lịch nƣớc nhà. Việc hoạch định và tập trung vào việc phát triển
du lịch văn hóa ở Việt Nam sẽ góp phần không nhỏ trong việc phát triển nền
kinh tế, văn hóa thời kì hội nhập.
Phát triển du lịch văn hóa là xu hƣớng chủ đạo của các nƣớc đang phát
triển. Nó đem lại giá trị kinh tế - xã hội lớn không chỉ cho cộng đồng xã hội
mà còn đối với việc quảng bá hình ảnh của từng địa phƣơng, đất nƣớc. Điều
này cũng đã trở thành nội dung chính của Hội nghị Bộ trƣởng Du lịch Đông Á
- Thái Bình Dƣơng với trên 150 đại diện của các nƣớc ở khu vực Châu Á, bao
gồm Bộ trƣởng và lãnh đạo các cơ quan du lịch quốc gia họp vào ngày
11/06/2009 tại Thành phố Huế, dƣới sự chủ trì của Tổ chức du lịch quốc tế và
Tổng cục Du lịch Việt Nam. Hội nghị đã nhấn mạnh: “Bên cạnh những loại
hình du lịch nhƣ du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dƣỡng, du lịch mạo hiểm, du
lịch giáo dục gần đây du lịch văn hóa đƣợc xem là một loại sản phẩm đặc
thù của các nƣớc đang phát triển”.
Một quan chức của vụ Hợp tác quốc tế thuộc Tổng cục du lịch phát biểu:
“Du lịch văn hóa là xu hướng chung của nhiều nước. Loại hình này rất phù
hợp với bối cảnh của Việt Nam, vì vậy phải được xem là hướng phát triển của
ngành du lịch Việt Nam”.
17

Nhƣ vậy, Du lịch văn hóa là khai thác các nhóm tài nguyên nhân văn có
nguồn gốc nhân tạo mang giá trị vật chất, tinh thần có giá trị về lịch sử, văn
hóa tiêu biểu do con ngƣời sáng tạo ra mang đặc trƣng của một địa phƣơng,
một quốc gia dân tộc, vùng lãnh thổ vào việc phát triển du lịch, phục vụ nhu
cầu tham quan, học tập, nghiên cứu của du khách.

1.1.4. Khái niệm di tích, di tích lịch sử - văn hóa
1.1.4.1. Khái niệm di tích
Di tích là một từ Hán Việt, chiết tự từ di tích:
Di: sót lại, rơi lại, để lại;
Tích: tàn tích, dấu vết;
Di tích: tàn tích, dấu vết còn lại của quá khứ.
Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện nghiên cứu Ngôn ngữ học đã
định nghĩa nhƣ sau: “dấu tích, dấu vết của quá khứ còn lƣu lại trong lòng đất
hoặc trên mặt đất, có ý nghĩa về mặt lịch sử văn hóa”.
Theo Hiến chƣơng Venjeje-Italia 1964 thì di tích bao gồm: “Những công
trình xây dựng riêng lẻ, những khu di tích ở đô thị hay ở nông thôn, là bằng
chứng của một nền văn minh riêng biệt, của một sự tiến hóa có ý nghĩa hay là
một biến cố về mặt lịch sử”.
Giáo trình trƣờng Đại học Văn hóa đƣa ra một khái niệm về di tích nhƣ
sau: “Di tích là những không gian, vật chất cụ thể, khách quan, trong đó chứa
đựng những giá trị điển hình lịch sử; do tập thể hoặc cá nhân con người hoạt
động sáng tạo ra trong lịch sử để lại”.
Di tích lịch sử đƣợc hiểu một cách khái quát là dấu vết của quá khứ còn
lƣu lại, mang giá trị tinh thần và vật chất, lịch sử và văn hóa mà ngƣời hoặc
sự việc thời xa xƣa của một quốc gia, dân tộc để lại.
Di tích lịch sử luôn mang tính xác thực, có ảnh hƣởng sâu rộng và có
bằng chứng độc đáo trong tiến trình lịch sử, mang tính nghệ thuật, kiến trúc
18

đặc trƣng. Di tích lịch sử luôn gắn liền với tƣ tƣởng, tín ngƣỡng và có ý nghĩa
phổ biến, ẩn sâu trong các di tích đó là dấu ấn lịch sử với những trang sử bi
hùng của dân tộc trở thành những giá trị nhân văn vô cùng to lớn. Đó là điển
hình nổi bật của một lối sống truyền thống đại diện cho một thời kì lịch sử,
văn hóa của dân tộc, quốc gia và vùng lãnh thổ.
1.1.4.2. Khái niệm di tích lịch sử - văn hóa

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Di tích lịch sử - văn hóa là tổng thể những
công trình địa điểm, đồ vật, tác phẩm hoặc tài liệu có giá trị lịch sử văn hóa
được lưu lại”.
Điều 4 Luật di sản văn hóa của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đƣợc Quốc hội khóa X thông qua ngày 29/09/2001 định nghĩa nhƣ sau:
“Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm, các di vật, cổ
vật. Bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học”.
Trong đó, di vật đƣợc hiểu “là những hiện vật đƣợc lƣu truyền lại, có giá
trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học”, danh lam thắng cảnh đƣợc hiểu
“là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên
nhiên hoặc địa điểm, có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình
kiến trúc và có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học”.
Di tích lịch sử - văn hóa là tài sản văn hóa quý giá của mỗi địa phƣơng,
quốc gia, dân tộc và của cả nhân loại. Nó là bằng chứng trung thành xác thực,
cụ thể nhất về đặc điểm văn hóa của mỗi quốc gia thuộc về truyền thống tốt
đẹp, những tinh hoa tài năng và các giá trị văn hóa của một quốc gia.
1.1.5. Mối quan hệ giữa di tích lịch sử - văn hóa và du lịch văn hóa
Trong cuốn Văn hóa trong phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam
(2004), NXB Trẻ, Hà Nội; Tiến sĩ Nguyễn Thị Chiến nhận định rằng: “Du
lịch và văn hóa phải chăng như anh em sinh đôi, như hai mặt của một tờ giấy,
19

sự không thể tách rời đó tạo nên vẻ đẹp, sự độc đáo của du lịch văn hóa”.
Một thực tế cho thấy rõ, trong quá trình phát triển cùng với nhiều mặt
khác của nền kinh tế - xã hội, văn hóa đòi hỏi khẳng định vị trí, vai trò của
mình trong du lịch. Những ngƣời hoạt động trên các lĩnh vực của văn hóa lại
luôn thấy lo lắng với những thiếu hụt của mình đối với du lịch và đòi hỏi đối
với chính mình để giữ đƣợc vai trò quan trọng đối với du lịch.
Mối quan hệ giữa du lịch và văn hóa đƣợc thể hiện ở chỗ: Văn hóa có

các giá trị, tiềm năng, động lực và là đối tƣợng để phát triển du lịch văn hóa.
Du lịch là chủ thể khai thác giá trị tiềm năng của văn hóa để phát triển du lịch.
Có thể nói du lịch nhƣ là một hành vi thỏa mãn văn hóa.
Du lịch cũng nhƣ bao nhiêu ngành kinh tế khác muốn phát triển cần có
những điều kiện nhất định, nói cách khác là cần phải có tài nguyên để phát
triển, di tích lịch sử - văn hóa là một trong những loại tài nguyên quan trọng.
Những di tích lịch sử - văn hóa ngày nay trở thành một nguồn lực phát
triển kinh tế - kinh tế du lịch.
Các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học chứa đựng trong di tích trở thành
một hàng hóa đặc biệt phục vụ nhu cầu khách tham quan, các giá trị ấy không
bị mất đi trong quá trình khai thác, mà ngƣợc lại đƣợc bảo vệ, giữ gìn một
cách bền vững hơn. Kinh nghiệm cho thấy, di tích lịch sử là nguồn lực, là sản
phẩm đặc sắc của du lịch mang lại cho ngành công nghiệp du lịch nguồn lợi
lớn về kinh tế, đồng thời du lịch cũng trực tiếp hoặc gián tiếp bảo vệ phần lớn
di sản văn hóa không bị phá hủy và lãng quên, tài sản văn hóa đó đƣợc coi là
có vai trò quan trọng quyết định sự thành công của ngành du lịch. Diễn đàn
Liên hợp quốc về Du lịch và Lữ hành quốc tế (Rome 1953) đã nhấn mạnh
“Từ góc nhìn du lịch di sản văn hóa, lịch sử, tự nhiên của các quốc gia là nhân
tố khá quan trọng”. Vì vậy cần thúc đẩy “những biện pháp thích hợp nhằm
đảm bảo việc bảo tồn và bảo vệ di sản văn hóa đó”.
20

Hoạt động du lịch khai thác các di tích qua đó góp phần thúc đẩy tăng trƣởng
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các ngành, các vùng, các địa phƣơng.
Hoạt động du lịch khai thác di tích sẽ góp phần nâng cao thu nhập, làm thay
đổi lợi ích truyền thống của cộng đồng dân cƣ sống quanh khu vực di tích.
Du lịch khai thác di tích sẽ thúc đẩy sự phát triển của các thành phần
kinh tế trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, có sự quản
lí của Nhà nƣớc.
Thông qua hoạt động du lịch sẽ có điều kiện trùng tu, tôn tạo di tích,

nâng cao tầm ảnh hƣởng của di tích lịch sử.
Cũng thông qua các hoạt động du lịch, các di tích lịch sử - văn hóa lại có
điều kiện đƣợc giới thiệu hiệu quả nhất bởi nó thật sự hấp dẫn khách du lịch.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Xuất phát từ yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay
Đất nƣớc ta đang dần thay da đổi thịt, tiến hành và đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nƣớc. Du lịch - ngành công nghiệp không
khói mang lại lợi nhuận lớn và nhanh chóng, là mũi nhọn kinh tế không chỉ của
Việt Nam mà là của hầu hết các nƣớc trên thế giới. Có thể nói đầu tƣ và phát
triển du lịch là việc làm rất đúng đắn đối với tình hình của quốc gia nói riêng và
toàn cầu nói chung.
1.2.2. Xuất phát từ thực trạng phát triển của Khu di tích Ngã ba
Đồng Lộc
Du lịch văn hóa là một thế mạnh của nƣớc ta, đặc biệt là du lịch tâm
linh, tƣởng nhớ đến các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc. Đồng Lộc -
Vùng đất linh thiêng, đã ẵm hàng nghìn bom đạn của chiến trƣờng ác liệt thời
chống Mỹ. Nơi đây, luôn vang vọng tên gọi của Mƣời Cô gái - Mƣời đóa hoa
bất tử, cùng các anh hùng TNXP đã ngày đêm chống lại bom đạn kẻ thù nhƣ
chị La Thị Tám, Nguyễn Tiến Tuẩn, Vƣơng Đình Nhỏ… để bảo vệ tuyến
21

đƣờng huyết mạch 15A vào tiền tuyến. 54 năm trôi qua, địa danh này đã trở
thành điểm tâm linh nổi tiếng, các cựu chiến binh về thăm chiến trƣờng, đồng
đội, các con cháu, thế hệ trẻ tìm về dâng hƣơng tƣởng nhớ các anh hùng dân
tộc… Cùng với sự đầu tƣ cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật, cùng đội ngũ cán
bộ, nhân viên, đặc biệt là các hƣớng dẫn viên tận tụy, tâm huyết đã lấy đi biết
bao nƣớc mắt của các vị khách viếng thăm.
Tuy nhiên, Khu di tích lịch sử Ngã ba Đồng Lộc chỉ đông khách vào các
ngày lễ nhƣ Ngày giải phóng miền Nam 30/4, Ngày Thƣơng binh Liệt sĩ 27/7,
Ngày giỗ 10 cô… còn các ngày thƣờng thì vẫn chƣa thu hút đƣợc lƣợng khách

lớn. Cần phải có các giải pháp đƣa ra để nhằm đẩy mạnh sự phát triển du lịch
của Khu du tích theo hƣớng bền vững nhất.


22

Chƣơng 2
KHU DI TÍCH NGÃ BA ĐỒNG LỘC

2.1. Vị trí địa lý & điều kiện tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Ngã ba Đồng Lộc thuộc xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh;
nằm trên con đƣờng mòn Hồ Chí Minh xuyên qua dãy núi Trƣờng Sơn ở
tỉnh Hà Tĩnh, là giao điểm của quốc lộ 15A và tỉnh lộ 2 của Hà Tĩnh.
Với vị trí địa lý nhƣ vậy, Ngã ba Đồng Lộc là một trong những điểm du
lịch thu hút du khách rất lớn, nhất là trong hành trình du lịch tâm linh trên
tuyến đƣờng mòn Hồ Chí Minh. Trong những năm gần đây Hà Tĩnh đã và
đang khai thác có hiệu quả khu di tích Ngã ba Đồng Lộc nhằm khai thác
những thế mạnh và tiềm năng sẵn có. Đây là một hƣớng đi đúng đắn nhằm
phát triển ngành du lịch văn hóa nói riêng của huyện Can Lộc và của toàn tỉnh
Hà Tĩnh nói chung.
2.1.2. Địa hình
Đồng Lộc thuộc địa hình bán sơn địa, rừng chiếm 1/3 diện tích xã. Đồng
Lộc có múi Mòi, núi Trọ Voi, núi Nâu, đồi Eo Út và Truông Kén thuộc dãy
Trà Sơn.
Tọa lạc tại quốc lộ 1A đi qua Đồng Lộc với diện tích 1.07ha, Khu di tích
Ngã ba Đồng Lộc đƣợc xây dựng tại một vùng khá bằng phẳng, xung quanh
đƣợc bao bọc bởi đồi Trọ Voi và núi Mũi Mác.
Với địa hình rộng, bằng phẳng, có hàng cây xanh tốt bao quanh, không
khí trong lành. Đây là nơi yên nghỉ của các anh hùng liệt sĩ TNXP, là nơi

tuyệt vời để tham quan, nghiên cứu về lịch sử, văn hóa. Tất cả đã tạo nên một
Ngã ba Đồng Lộc đắc địa.
2.1.3. Khí hậu
Một yếu tố thuộc về tự nhiên không kém phần quan trọng, ảnh hƣởng
23

trực tiếp tới việc tổ chức du lịch và tham quan của du khách là khí hậu.
Không tách khỏi đặc điểm của khí hậu miền Trung nói chung, Hà Tĩnh
nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa với đặc trƣng của khí hậu
miền Bắc có mùa đông lạnh.
Tuy nhiên, do ảnh hƣởng của gió mùa Đông Bắc từ lục địa Trung Quốc
tràn về bị suy yếu nên mùa đông đã bớt lạnh hơn và ngắn hơn so với các tỉnh
miền Bắc và chia làm hai mùa rõ rệt một mùa lạnh và một mùa nóng.
Nhiệt độ bình quân ở Hà Tĩnh thƣờng cao. Nhiệt độ không khí vào mùa
đông chênh lệch thấp hơn mùa hè. Nhiệt độ đất bình quân mùa đông thƣờng từ
18 - 22
o
C, ở mùa hè bình quân nhiệt độ đất từ 25,5 - 33
o
C. Tuy nhiên nhiệt độ
đất thƣờng thay đổi theo loại đất, màu sắc đất, độ che phủ và độ ẩm của đất.
Hà Tĩnh là tỉnh có lƣợng mƣa nhiều ở phía Bắc Việt Nam, trừ một phần
nhỏ ở phía Bắc, còn lại các vùng khác có lƣợng mƣa bình quân hàng năm đều
trên 2000mm, có nơi trên 3000mm.
Đặc điểm khí hậu và thời tiết nơi đây ổn định, lƣợng mƣa không lớn,
nhiệt độ, ánh sáng thích hợp là điều kiện thuận lợi cho việc bảo tồn các di tích
lịch sử, văn hóa ngoài trời, cũng nhƣ tham quan du lịch văn hóa Khu di tích
Ngã ba Đồng Lộc.
2.2. Lịch sử hình thành
2.2.1. Vị trí chiến lược của Ngã ba Đồng Lộc

Ngã ba Đồng Lộc có vị trí tiêu điểm, với địa hình khá trũng so với địa
hình khu vực huyện, Ngã ba Đồng Lộc đƣợc bao phủ bởi núi đồi hai bên, giữa
là con đƣờng độc đạo, là giao điểm của quốc lộ 15A và tỉnh lộ 2 thuộc địa
phận xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ngã ba Đồng Lộc còn là
đƣờng giao ngang với quốc lộ 1A thông qua tỉnh lộ 6 (đi qua xã Khánh Lộc).
Tỉnh lộ 2 từ Ba Giang nối với ngã Ba Đồng Lộc tại Trƣờng Thành (xã Đồng
Lộc) tạo thành ngã ba bên một đoạn đƣờng dài 800m toàn đồng ruộng, làng
24

dân. Cách đấy tầm 20m là núi Mòi, nơi Chị La Thị Tám vẫn ngày đêm làm
nơi trú ẩn quan sát máy bay và đếm bom. Nhìn xa, Ngã ba Đồng Lộc nhƣ một
lòng chảo, nơi quy tụ của mƣa gió, suối nguồn gây cản trở nhiều cho giao
thông. Vào giai đoạn chiến tranh, với địa hình nhƣ vậy, khi bom Mỹ giội
xuống thì đất đá từ các phía sẽ lăn xuống đƣờng “ta xử lý đƣợc ngầm thì mất
đƣờng, đƣợc đƣờng thì khó thông ngầm”.
Từ cuối tháng 4/1965, quốc lộ 1A bị cắt đứt hoàn toàn, toàn bộ hàng hóa
vận tải đƣờng bộ tiếp viện cho miền Nam đều phải đi qua quốc lộ 15A, qua
Ngã ba Đồng Lộc. Từ Ngã ba Đồng Lộc có thể mở các nhánh đƣờng khác
nhau, phục vụ tốt cho nhu cầu vận chuyển, địa hình hiểm trở nhất trên tuyến
đƣờng 15A thuộc địa bàn Hà Tĩnh vì vậy, Mỹ chọn nơi này trút dội bom tàn
phá mạnh nhất trên toàn tuyến Quân khu 4 nhằm cắt đứt mọi tiếp viện vào
miền Nam. Ý thức đƣợc điều đó, toàn dân, quân Hà Tĩnh đã ko ngần ngại cả
tính mạng của mình để thông đƣờng, bảo vệ xe tăng, bảo vệ chiến sĩ khi qua
địa bàn vào tiền tuyến. Suốt bao nhiêu năm chiến đấu, mảnh đất này đã bị
bom đạn giày xéo, khi chiến tranh đã lùi xa, từng mầm xanh đâm chồi nảy
lộc, sự sống đã tô màu tƣơi mới cho vùng đất chết này, nhƣng Ngã ba Đồng
Lộc vẫn mãi là một huyền thoại trong lòng con dân cũng nhƣ bạn bè quốc tế.
2.2.2. Ngã ba Đồng Lộc qua các thời kỳ lịch sử
- Trước tháng 5/1965
Lịch sử nƣớc ta trong giai đoạn này đang căng thẳng, toàn dân đang

gồng mình lên chống lại không chỉ một mà rất nhiều thế lực thù địch. Ngày
8/5/1954 Hiệp định Genever chia Việt Nam thành 2 khu vực quân sự tại vĩ
tuyến 17. Hà Tĩnh nói riêng và các tỉnh từ sông Bến Hải trở ra Bắc đang chịu
nhiều mất mát chiến tranh, đâu đâu cũng là bãi chiến tan hoang. Ngày
22/5/1955 Pháp rút khỏi đảo Cát Bà, miền Bắc nƣớc ta hoàn toàn giải phóng.
Tuy nhiên miền Nam vẫn đang ngày đêm chống lại Mỹ và Diệm, Quảng Trị

×