Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.55 KB, 49 trang )

Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 1 Lớp: K33B - GDCD

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện khoá luận, ngoài sự cố gắng của bản thân, em
đã được sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Trước tiên, em xin bày tỏ lời cảm
ơn chân thành nhất tới Thạc sĩ Trần Thị Hoa Lý, người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Qua đây, em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Giáo dục Chính trị
đã giảng dạy, chỉ bảo em trong suốt thời gian qua và tạo điều kiện để em hoàn
thành khoá luận này.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân,
nên khoá luận khó tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu, em
kính mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 05 năm 2011
Sinh viên
Ma Văn Kiên

Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 2 Lớp: K33B - GDCD

LỜI CAM ĐOAN


Khoá luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của cô
giáo Trần Thị Hoa Lý. Tôi cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 05 năm 2011
Sinh viên
Ma Văn Kiên
















Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 3 Lớp: K33B - GDCD

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 1

Chương 1: Lý luận chung về quy luật giá trị 4
1.1. Nội dung, yêu cầu của quy luật giá trị 4
1.2. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 7
1.3. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 25
Chương 2: Phương hướng và một số giải pháp nhằm phát huy vai
trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 31
2.1. Phương hướng nhằm phát huy vai trò của quy luật giá trị trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 32
2.2. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của quy luật giá trị trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay 38
KẾT LUẬN 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46








Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 4 Lớp: K33B - GDCD


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đứng trước xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới Việt
Nam là một trong những nước có nền kinh tế chậm phát triển, nghèo nàn và
lạc hậu cơ sở hạ tầng thấp kém, trình độ quản lý lạc hậu, khoa học kỹ thuật
kém phát triển… hơn nữa nạn thất nghiệp, tham ô, lạm phát, ô nhiễm môi
trường… vẫn luôn là một trong những vấn đề búc xúc chưa hạn chế được.
Tuy vậy ta cũng không thể một sớm một chiều mà có thể khắc phục được
những yếu điểm đó mà phải dần dần. Song hành với nó chúng ta phải liên tục
vận dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật và kinh tế để phát triển đất
nước.
Đất nước Việt Nam đang đứng trước những khó khăn lớn về mọi mặt
nhất là trong phát triển kinh tế, do đó chúng ta cần phải áp dụng những biện
pháp phát triển kinh tế thật thân trọng, khẩn trương và làm sao để có hiệu quả
nhất. Việc vận dụng và phát huy quy luật giá trị vào việc phát triển kinh tế là
rất quan trọng vì quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản
xuất và trao đổi hàng hoá. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có
sự xuất hiện của quy luật giá trị. Mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế trong
sản xuất và lưu thông hàng hoá đều chịu sự tác động của quy luật này. Quy
luật giá trị là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế chu kỳ, phân
hoá giàu nghèo, những cuộc cạnh tranh không lành mạnh… Chính vì thế
chúng ta cần nghiên cứu về quy luật giá trị, tìm hiểu về vai trò và tác động
của nó tới nền kinh tế, đưa ra những giải pháp để phát huy vai trò của quy luật
giá trị trong nền kinh tế, đặc biệt là trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị
trường của nước ta hiện nay.
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 5 Lớp: K33B - GDCD


Xuất phát từ những thực tế nêu trên, em thấy việc xem xét, tìm hiểu để
nhận thức đúng về quy luật giá trị và vai trò của quy luật giá trị đối với nền
kinh tế thị trường ở nước ta, để từ đó có những biện pháp để phát huy có hiệu
quả vai trò đó là hết sức quan trọng. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Một số
giải pháp nhằm phát huy vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài khoá
luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của quy luật giá trị trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Qua
đó vận dụng quy luật giá trị vào sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước
trong thời kỳ đổi mới.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quy luật giá trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế
thị trường, nó là quy

luật kinh tế căn bản chi phối sự vận động của nền kinh tế
thị trường. Sự tác động của quy luật giá trị một mặt thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế, mặt khác gây ra các hậu quả tiêu cực… Đối với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, quy luật giá trị
đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Vì thế trong những năm gần đây đã có rất
nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này. Song các tác giả chỉ đi sâu nghiên
cứu, phân tích, vị trí, vai trò của quy luật giá trị nói chung, chưa có tác giả nào
đi vào nghiên cứu cụ thể về vai trò và giải pháp để phát huy tính tích cực của
quy luật giá trị.
4. Phương pháp nghiên cứu của khoá luận
Khoá luận sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và các phương pháp nghiên cứu khác như: tổng hợp - phân tích, logic - lịch
sử… để giải quyết các nhiệm vụ đã đặt ra.

Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 6 Lớp: K33B - GDCD

5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm hai chương:
Chương 1: Lý luận chung về quy luật giá trị.
Chương 2: Phương hướng và một số giải pháp nhằm phát huy

vai trò
của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.



















Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 7 Lớp: K33B - GDCD

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ

1.1 . Nội dung, yêu cầu của quy luật giá trị
Tất cả các hoạt động kinh tế của con người đều chịu sự tác động của quy
luật kinh tế nào đó. Quy luật giá trị là một trong những quy luật kinh tế có tác
động mạnh đến các hoạt động kinh tế của con người. Quy luật giá trị là quy
luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá, biểu hiện khách quan
của việc định hướng nền sản xuất và trao đổi hàng hoá theo các quan hệ tỷ lệ
phản ánh hao phí lao động xã hội cần thiết. Quy luật giá trị là hình thức biểu
hiện các hao phí đó trên cơ sở quy tất cả các loại lao động cụ thể thành lao
động trừu tượng và quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn. Giá trị là
phương thức điều tiết các mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá
trong quá trình trao đổi hoạt động.
Quy luật giá trị hoạt động trong các hình thái xã hội khác nhau và trong
hệ thống các mối quan hệ của mỗi hình thái. Quy luật đó không thuộc về quy
luật biểu hiện bản chất xã hội cơ bản của một hình thái xã hội nào, các biểu
hiện của nó phụ thuộc vào quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất
nhất định.
Quy luật giá trị là quy luật của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Sản xuất
và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở lượng giá trị hàng hoá, tức là căn cứ
vào thời gian lao động xã hội cần thiết. Quy luật giá trị quy định việc sản xuất
và trao đổi hàng hoá phải tiến hành trên cơ sở hao phí lao động xã hội tất yếu.
Có nghĩa là, giá trị hàng hoá do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng

hoá tạo nên và lượng giá trị của hàng hoá cá biệt phải phù hợp với lượng lao
động xã hội tất yếu để làm ra loại hàng hoá đó. Trao đổi phải tiến hành trên
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 8 Lớp: K33B - GDCD

nguyên tắc ngang giá, hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau nhưng có
lượng giá trị bằng nhau thì phải trao đổi ngang nhau. Đó là yêu cầu của quy
luật giá trị.
Quy luật giá trị vận động thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá,
chỉ có thông qua sự vận động lên xuống của giá cả thị trường mới thấy được
sự hoạt động của quy luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống một cách tự
phát, xoay quanh giá trị. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, nên trước hết giá cả phụ
thuộc vào giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược
lại. Trên thị trường ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố như:
cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này
làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay
quanh trục giá trị của nó. Sự vận động của giá cả thị trường, của hàng hoá
xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị phát huy tác dụng thông qua sự vận động của giá cả thị
trường.
Quy luật giá trị biểu hiện qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư
bản thành quy luật giá cả sản xuất (giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh) và thành quy luật giá cả độc quyền (giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền). Trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh do hình thành tỷ suất lợi
nhuận bình quân nên hàng hoá không bán theo giá trị mà bán theo giá cả sản
xuất. Còn trong giai đoạn tư bản độc quyền, tổ chức độc quyền đã nâng giá cả
hang hoá lên trên giá cả sản xuất và giá trị. Giá cả độc quyền bằng chi phí sản
xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Nó tiếp tục tồn tại và hoạt động trong thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa và ở nước ta.
Ta xét mối quan hệ giữa giá cả, giá cả thị trường, giá cả độc quyền với
giá trị hàng hoá. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá trị là
cơ sở của giá cả.
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 9 Lớp: K33B - GDCD

Trong điều kiện sản xuất hàng hoá, giá cả hàng hoá tự phát lên xuống
xoay quanh giá trị tuỳ theo quan hệ cung cầu, cạnh tranh và sức mua của đồng
tiền. Sự hoạt động của quy luật giá trị biểu hiện ở sự lên xuống của giá cả trên
thị trường. Tuy vậy, sự biến động của giá cả vẫn còn có cơ sở là giá trị, mặc
dầu nó thường xuyên tách rời giá trị. Điều đó có thể hiểu theo hai mặt:
Thứ nhất, không kể quan hệ cung cầu như thế nào, giá cả không tách
rời giá trị xã hội.
Thứ hai, nếu nghiên cứu sự vận động của giá cả trong một thời gian dài
thì thấy tổng số giá cả bằng tổng số giá trị, vì bộ phận vượt quá giá trị sẽ bù
vào bộ phận giá cả thấp hơn giá trị (giá cả ở đây là giá cả thị trường. Giá cả
thị trường là giá cả sản xuất giữa người mua và người bán thoả thuận với
nhau). Giá cả sản xuất là hình thái biến tướng của giá trị, nó bằng chi phí sản
xuất của hàng hoá cộng với lợi nhuận bình quân.
Trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh do hình thành tỷ suất lợi nhuận
bình quân nên hàng hoá không bán theo giá trị mà bán theo giá cả sản xuất.
Giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất không phải là phủ nhận
quy luật giá trị mà chỉ là biểu hiện cụ thể của quy luật giá trị trong giai đoạn
tư bản tự do cạnh tranh. Qua hai điểm dưới đây ta sẽ thấy được điều đó:
Thứ nhất, tuy giá cả sản xuất của hàng hoá thuộc ngành cá biệt có thể
cao hơn hoặc thấp hơn giá trị nhưng tổng số giá trị sản xuất của toàn bộ hàng
hoá của tất cả các ngành trong toàn xã hội đều bằng tổng giá trị của nó. Tổng

lợi nhuận mà các nhà tư bản thu được cũng bằng tổng số giá trị thặng dư do
giai cấp công nhân sáng tạo ra.
Thứ hai, giá cả sản xuất lệ thuộc trực tiếp vào giá trị, giá trị hàng hoá
giảm xuống, giá cả sản xuất giảm theo, giá trị hàng hoá tăng lên kéo theo giá
cả sản xuất tăng lên.
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 10 Lớp: K33B - GDCD

Trong giai đoạn tư bản độc quyền, tổ chức độc quyền đã nâng giá cả
hàng hoá lên trên giá cả sản xuất và giá trị. Giá cả độc quyền bằng chi phí sản
xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Lợi nhuận độc quyền vượt quá lợi nhuận
bình quân.
Khi nói đến giá cả độc quyền thì thường hiểu là giá cả bán ra cao hơn
giá cả sản xuất và giá trị, đồng thời cũng cần hiểu còn có giá cả thu mua rẻ mà
tư bản độc quyền mua của người sản xuất nhỏ, tư bản vừa và nhỏ ngoài độc
quyền.
Giá cả độc quyền không xoá bỏ giới hạn của giá trị hàng hoá, nghĩa là
giá cả độc quyền không thể tăng thêm hoặc giảm bớt giá trị và tổng giá trị
thặng dư xã hội sản xuất ra; phần giá cả độc quyền vượt quá giá trị chính là
phần giá trị mà những người bán (công nhân, người sản xuất nhỏ, tư bản vừa
và nhỏ…) mất đi. Nhìn vào phạm vi toàn xã hội, toàn bộ giá cả độc quyền
cộng với giá cả không độc quyền về đại thể bằng toàn bộ giá trị.
Chính vì vậy, quy lật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản
xuất và trao đổi hàng hoá. Do đó, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở
đó có sự xuất hiện và hoạt động của quy luật giá trị. Mọi hoạt động của các
chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hoá đều chịu sự tác động và
chi phối của quy luật này. Tuân theo yêu cầu của quy luật giá trị thì mới có lợi
nhuận, mới tồn tại và phát triển được, ngược lại sẽ bị thua lỗ và phá sản.

1.2. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường là sự phát triển cao hơn của kinh tế hàng hoá, mà
hình thái của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi trên thị trường.
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế khách quan, do trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất quyết định, trong đó toàn bộ quá trình từ sản xuất đến trao
đổi, phân phối và tiêu dùng đều thực hiện thông qua thị trường.
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 11 Lớp: K33B - GDCD

Mô hình kinh tế Việt Nam được xác định là nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nói đến kinh tế thị trường định hường xã hội chủ nghĩa có nghĩa là nền
kinh tế của chúng ta không phải là mô hình kinh tế quản lý theo kiểu tập trung
quan liêu bao cấp như trước đây nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị
trường tự do giống như các nước tư bản. Tức là không phải thị trường tư bản
chủ nghĩa, cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Chúng
ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan xen đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có, vừa chưa có đầy đủ yếu tố xã hội chủ
nghĩa.
Hiện nay nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở tình trạng kém phát
triển, cơ sở vật chất còn lạc hậu, thấp kém; nền kinh tế ít nhiều mang tính tự
cấp, tự túc. Tuy nhiên, nước ta không lặp lại hoàn toàn quá trình phát triển
kinh tế của các nước đi trước: kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển lên kinh tế
thị trường tự do rồi từ kinh tế thị trường tự do chuyển lên kinh tế thị trường
hiện đại. Nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại định hướng xã hội
chủ nghĩa theo kiểu rút ngắn. Điều này có nghĩa là phải đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá để phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, trong

một thời gian tương đối ngắn chúng ta đã xây dựng được cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại để nền kinh tế nước ta bắt kịp với trình độ phát triển chung của
thế giới. Đồng thời phải hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý
kinh tế vĩ mô và thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 12 Lớp: K33B - GDCD

1.2.1. Sự cần thiết phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
1.2.1.1. Sự cần thiết khách quan của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà trong đó sản
phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất
trong kinh tế hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người
sản xuất ra sản phẩm nhằm để bán, tức là thoả mãn nhu cầu của người mua
đáp ứng nhu cầu xã hội.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong
đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị
trường. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau,
chúng khác nhau về trình độ phát triển. Về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc
và cùng bản chất. Theo C.Mác, sản xuất và lưu thông hàng hoá là hiện tượng
vốn có của hình thái kinh tế - xã hội. Những điều kiện ra đời và tồn tại của
kinh tế hàng hoá cũng như các trình độ phát triển của nó do sự phát triển của
lực lượng sản xuất tạo ra.

- Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất
hàng hoá chẳng những không mất đi mà trái lại còn được phát triển cả chiều
rộng lẫn chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương
ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở
tính phong phú đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao
đổi trên thị trường.
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 13 Lớp: K33B - GDCD

- Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu. Đó là: sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu
chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó, tồn tại nhiều chủ thể
kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực
hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
Thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt
nhất định có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt
khác, các đợn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật - công nghệ,
về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng
khác nhau.
Quan hệ hàng - hoá tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại
đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng
sâu sắc vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với
các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải
theo nguyên tắc ngang giá.
Như vậy, nền kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu khách
quan không thể lấy ý chí chủ quan mà xoá bỏ được.
1.2.1.2. Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam
Thứ nhất, như chúng ta đã được biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ
chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển của xã hội loài người. Từ trước đến
nay nó tồn tại phát triển chủ yếu dưới chế độ chủ nghĩa tư bản, là nhân tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã
biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho lợi ích riêng
của mình nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 14 Lớp: K33B - GDCD

nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và
phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng.
Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất của
nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc
lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội, làm tăng thêm tính bất
công và bất ổn của xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và
người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, nó còn ràng
buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột. Có thể
nói, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống trị
của một số ít nước lớn hay một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các
nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo.
Chính vì thế, như C.Mác đã phân tích và dự báo, chủ nghĩa tư bản tất
yếu phải nhường chỗ cho một phương thức sản xuất và một chế độ văn minh
mới hơn, nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản mặc dù đã và đang tìm mọi cách để
tự điều chỉnh, tự thích nghi bằng cách phát triển “nền kinh tế thị trường hiện
đại”, “nền kinh tế thị trường xã hội”, tạo ra “chủ nghĩa tư bản xã hội”, “chủ

nghĩa tư bản nhân dân”, “nhà nước phúc lợi chung”… Nhưng do mâu thuẫn
từ trong bản chất của nó, chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được, có
chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu được chừng nào mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự
phủ định và tự tiến hoá để chuẩn bị chuyển sang giai đoạn hậu công nghiệp
theo xu hướng xã hội hoá. Đây là tất yếu khách quan, là quy luật phát triển
của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn phát triển thì dứt khoát
không thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 15 Lớp: K33B - GDCD

Thứ hai, mô hinh chủ nghĩa xã hội kiểu Xô - Viết là một kiểu tổ chức
xã hội, tổ chức kinh tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa
tư bản, muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một
phương thức sản xuất văn minh, hiên đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là ý tưởng
tốt đẹp và trên thực tế suốt hơn 70 năm tồn tại chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã
đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt đất nước và đời sống
của nhân dân Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái quy luật (muốn xoá
bỏ ngay kinh tế hàng hoá áp dụng ngay cơ chế kinh tế phi thị trường), không
năng động, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cuộc đã không thành
công.
Thực ra khi mới vận dụng học thuyết Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười, V.Lênin cũng đã từng chủ
trương không áp dụng mô hình kinh tế thị trường mà thực hiện “chính sách
cộng sản thời chiến”. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, Người đã phát hiện
sai lầm, khắc phục sự nóng vội bằng cách đưa ra thực hiện “chính sách kinh tế
mới” (NEP) mà nội dung cơ bản của nó là khuyến khích phát triển kinh tế
hàng hoá, chấp nhận ở mức độ nhất định kinh tế thị trường. Theo V.Lênin, để

xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước còn tương đối lạc hậu về kinh tế như
nước Nga cần phải sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ và phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để
phát triển lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, chỉ mới thực hiện trong thời gian
ngắn nhưng NEP đã đem lại những kết quả tích cực cho nước Nga: hồi phục
và phát triển nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, nhiều ngành kinh tế đã bắt đầu
hoạt động năng động, nhộn nhịp hơn. Tiếc rằng tư tưởng của V.Lênin về xây
dựng chủ nghĩa xã hội với chính sách NEP đã không được tiếp tục thực hiện
sau khi V.Lênin qua đời. Sự thành công và phát triển mạnh mẽ suốt thời gian
khá dài của Liên Xô trong công cuộc công nghiệp hoá đất nước bằng mô hình
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 16 Lớp: K33B - GDCD

kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, kế hoạch hoá tập trung
cao độ; phân phối thu nhập mang tính bình quân; kinh tế hàng hoá, kinh tế thị
trường bị loại bỏ đã có sức hấp dẫn lớn đối với nhân loại và làm giới lý luận
kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đang phát triển tuyệt đối hoá,
biến thành công thức để áp dụng cho tất cả các nước đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa.
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế, khuyết tật của
mô hình kinh tế Xô - Viết bộc lộ rất rõ cộng với sự yếu kém trong công tác
lãnh đạo, quản lý lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào tình trạng trì trệ khủng hoảng. Sự
sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu vào cuối
những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã làm lộ rõ những khuyết
tật của mô hình kinh tế cứng nhắc phi thị trường, mặc dù những khuyết tật đó
không phải là nguyên nhân tất yếu dẫn đến sụp đổ.
Thứ ba, Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế kỹ thuật lạc hậu, trình độ

xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là
mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát
vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa
xã hội bằng cách nào? Đó là một câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời
thật không đơn giản. Suốt thời gian dài Việt Nam cũng như nhiều nước khác
đã áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình
này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu thời
kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết
điểm và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên
nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối
suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách
quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tiễn Việt Nam.
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 17 Lớp: K33B - GDCD

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và dầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm
thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là
quan niệm về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ
cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị
trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và khẳng định
chuyển sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết
hợp lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện phát huy nhân
tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội VI là một cột
mốc đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong nhận thức của Đảng về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả

của một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng gian khổ, kết
tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm.
Hội nghị Trung ương 6 (3/1989) khoá VI phát triển thêm một bước đưa
ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành
phần, đi lên chủ nghĩa xã hội coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý
nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã
hội”.
Đến Đại hội VII (6/1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn
chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII (6/1996) đưa ra
một số kết luận mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 18 Lớp: K33B - GDCD

nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại
khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ
nghĩa xã hội đã được xây dựng”. Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế hàng
hoá, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến
Đại hội IX của Đảng (4/2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định: “Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất
quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết
thực tiễn và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt
Nam”.

1.2.1.3. Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nền kinh tế nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn
mang nặng tính tự cấp, tự túc. Vì vậy, sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ
dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy xã hội
hoá sản xuất.
Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản
xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi
phí sản xuất đến mức tối thiểu, nhờ đó có thể cạnh tranh được cả về giá cả,
đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu
của người tiêu dùng, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì? Với
khối lượng bao nhiêu? Chất lượng như thế nào? Do đó, kinh tế hàng hoá kích
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 19 Lớp: K33B - GDCD

thích tính năng động sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao
chất lượng, cải tiến mẫu mã, cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ.
Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời cho sản xuất lớn. Có xã hội hoá cao,
đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành
đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế của đất nước.
Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất
hàng hoá, đến lượt nó sự phát triển kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy sự phân
công lao động xã hội. Vì thế mà phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng

vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với
nước ngoài.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với
nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của
nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc
tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có
hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang
nền kinh tế thị trường với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là hoàn toàn đúng
đắn. Nhờ sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã
bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật
công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần
quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao
trong thời gian qua.
Trình độ phát triển của kinh tế thị trường có liên quan mật thiết với các
giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất. Về đại thể, kinh tế hàng hoá phát
triển qua ba giai đoạn tương ứng của lực lượng sản xuất: sản xuất hàng hóa
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 20 Lớp: K33B - GDCD

giản đơn, thị trường tự do cạnh tranh, kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền
kinh kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Mô hình kinh tế Việt
Nam được xác định là mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ
nghĩa.
1.2.2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam

Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã
hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị
trường trong thời đại mới. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính
quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát đúc kết rút từ kinh nghiệm
phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị
trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nói đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây
không phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không
phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu và cũng chưa
hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đang ở trong thời
ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa có, vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của
chủ nghĩa xã hội.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích
cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội
hoá lao động, cải thiện kỹ thuật - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 21 Lớp: K33B - GDCD

tạo ra nhiều của cải, góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân
dân. Đồng thời, phải có những biện pháp nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh
tế thị trường như: chạy theo lợi nhuận, cạnh tranh, phân hoá giàu nghèo…
Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở
quán triệt lý luận Mác - Lênin, nắm bắt đúng đắn quy luật khách quan và vận
dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.

Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo
những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cở sở và được dẫn dắt, chi
phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do đó kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có đặc trưng riêng:
1.2.2.1. Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường
Mục tiêu hàng đầu của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống
của nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng
quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.
Có những nước đặt vấn đề tăng trưởng kinh tế trước, giải quyết công
bằng xã hội sau và có những nước lại muốn dựa vào viện trợ và vay nợ nước
ngoài để cải thiện đời sống nhân dân rồi sau đó mới thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Riêng ở nước ta, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới
của Đảng, lấy sản xuất gắn liền cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh
tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp,
gắn liền với xoá đói giảm nghèo.
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 22 Lớp: K33B - GDCD

1.2.2.2. Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản. Đó là: sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm: sở hữu cá thể, sở hữu tiểu

chủ, sở hữu tư nhân tư bản). Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nên
nhiều thành phần kinh tế. Đó là: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó
kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế nói trên đều tộn
tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, phát triển kinh tế thị trường nhiều
thành phần là một tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy chúng ta mới khai
thác được mọi nguồn lực kinh tế, nâng cao được hiệu quả kinh tế, phát huy
được tiềm năng của các thành phần kinh tế vào phát triển chung nền kinh tế
của đát nước nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân.
Do đó, không chỉ củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên
chế độ công hữu là thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, mà còn
phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu phát triển để
hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đợn vị kinh tế thuộc
chế độ tư hữu, các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các hình thức hợp
tác liên doanh giữa trong và ngoài nước… Các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành
phần đều bình đẳng với nhau trước pháp luật, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với
nhau để phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước là
vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 23 Lớp: K33B - GDCD

quyết định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần. Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng

với nó, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã
hội mới - xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Cần nhận thức rõ ràng, các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội có bản chất kinh tế - xã hội riêng, chịu sự tác động của quy
luật kinh tế riêng, nên bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế còn
có sự khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có
khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Chẳng hạn, các
thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tuy có vai trò quan trọng trong việc
phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, nhưng vì dựa trên chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất nên chúng không tránh khỏi tự phát chạy theo lợi nhuận, nảy
sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội.
Vì vậy, kinh tế Nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả
để thực hiện tốt vai trò quản lý vi mô cũng như vĩ mô kinh tế - xã hội để đảm
bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.2.3. Nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Đồng thời phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh
và thông qua phúc lợi xã hội
Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân
phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định.
Nhưng quan hệ phân phối, các hình thức thu nhập là hình thức thực hiện về
mặt kinh tế của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại: sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể, sở hữu cá nhân và các hình thức sở hữu do kết quả của sự thâm
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 24 Lớp: K33B - GDCD


nhập giữa chúng. Mỗi chế độ sở hữu có nguyên tắc (hình thức) phân phối
tương ứng với nó, vì thế trong thời kỳ quá độ tồn tại cơ cấu đa dạng về hình
thức phân phối đóng góp vốn (thu nhập).
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối
thu nhập sau: phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế; phân phối
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua
phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với
phát triển văn hoá và giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng
phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Sự khác biệt căn bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công hữu
và thực hiện phân phối theo lao động. Phân phối theo lao động là đặc trưng,
bản chất của kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó là hình thức
thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế, phân phối theo lao động
phải được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Nước ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa chứ không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Chúng ta lấy
phát triển kinh tế thị trường là phương tiện để đạt mục tiêu cơ bản xây dựng
chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Vì vậy, mỗi bước tăng trưởng kinh tế của nước ta phải gắn liền với cải
thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Việc phân phối
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Th.s Trần Thị Hoa Lý


SVTH: Ma Văn Kiên 25 Lớp: K33B - GDCD


thông qua các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể có ý nghĩa quan trọng để thực
hiện mục tiêu đó.
1.2.2.4. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản
lý của Nhà nước
Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, kế
hoạch, quy hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực
lượng kinh tế Nhà nước. Đồng thời, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các
hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích
sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc
phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của toàn thể nhân dân.
Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước
trên thế giới đều có sự quản lý của Nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó
“những thất bại của thị trường”. Tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả
các nước đều là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhưng điều
khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của nước ta là ở chỗ nhà nước
quản lý nền kinh tế không phải là nhà nước tư sản, mà là nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước của dân, do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm sửa
chữa những thất bại của thị trường, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo,
mà bản thân cơ chế thị trường không thể làm được, bảo đảm cho nền kinh tế
thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là hết sức quan trọng. Nó đảm bảo cho nền kinh tế
tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là đảm bảo công bằng xã hội.
Không ai ngoài Nhà nước có thể giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu và
nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước trong điều
kiện kinh tế thị trường.

×