Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội trên báo in

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGÔ THỊ HÀ





BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HOÁ
VẬT THỂ HÀ NỘI TRÊN BÁO IN




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí






Hà Nội – 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGÔ THỊ HÀ



BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HOÁ
VẬT THỂ HÀ NỘI TRÊN BÁO IN


Chuyên ngành: Báo chí
Mã số: 60 32 01 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Quyên






Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam kết, đây là luận văn do tôi tự nghiên cứu, chưa được công bố ở bất

cứ công trình khoa học nào. Mọi luận cứ trong luận văn là xác thực.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Ngô Thị Hà


















LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn T.S Đỗ Thị Quyên – Người hướng dẫn đã tận tình
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này!

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của các chuyên gia, nhà quản lý, lãnh
đạo các ngành và các đơn vị có liên quan; sự giúp đỡ của các nhà báo, biên tập
viên, phóng viên, bạn bè đồng nghiệp, công chúng báo chí đã dành thời gian
tham gia trả lời câu hỏi điều tra; các thầy cô ở Đại học Khoa học Xã hội & Nhân
văn đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Ngô Thị Hà













MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 11
1.1. Tổng quan về báo in 11
1.1.1. Khái niệm và lịch sử báo in 11
1.1.2. Đặc thù của báo in 13
1.1.3.Vị trí, vai trò của báo in trong hoạt động truyền thông 19
1.2. Cơ sở lý luận về di sản văn hóa 23
1.2.1. Khái niệm Văn hoá 23
1.2.2. Khái niệm về “Di sản văn hoá” 26
1.2.3. Phân loại di sản văn hoá 28
1.2.3.1. Di sản văn hoá vật thể 28
1.2.3.2. Di sản văn hoá phi vật thể 29
1.3. Báo chí với việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể 31
1.4. Tổng quan về hệ thống di sản văn hoá vật thể Hà Nội 33
Tiểu kết chương 1 35
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BÁO IN VỚI VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ HÀ NỘI 36
2.1. Khái quát về 3 tờ báo: Nhân Dân, Hà Nội Mới, Văn Hoá 36
2.1.1. Báo Nhân Dân 36
2.1.2. Báo Hà Nội Mới 37
2.1.3. Báo Văn Hoá 38
2.2. Tiêu chí chọn tin, bài 38
2.2.1. Tiêu chí về nội dung 38
2.2.2. Tiêu chí về hình thức 39
2.3. Khảo sát nội dung, hình thức phản ánh việc bảo tồn và phát huy di sản
văn hoá vật thể Hà Nội trên báo: Nhân Dân, Hà Nội Mới, Văn Hoá 40
2.3.1. Tổng hợp số liệu khảo sát từ năm 2012-2013 40
2.3.1.1. Về nội dung phản ánh 40
2.3.1.2. Về Thể loại báo chí sử dụng 44

2.3.2. Nhận diện việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội trên
báo Nhân Dân, Hà Nội Mới, Văn Hóa 46
2.3.2.1. Báo Nhân dân, Hà Nội Mới, Văn Hoá tuyên truyền đường lối, chủ
trương của Đảng và Nhà nước về việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả di sản
văn hoá vật thể 46
2.3.2.2. Báo Nhân Dân, Văn Hoá, Hà Nội Mới giới thiệu và tôn vinh các giá
trị di sản văn hoá vật thể ở Hà Nội. 49
2.3.2.3. Báo Nhân dân, Văn Hóa, Hà Nội Mới nêu thực trạng về sự vi phạm
và xuống cấp của di sản văn hóa vật thể ở Hà Nội. 52
2.3.2.4. Báo Nhân Dân, Hà Nội Mới, Văn Hóa nêu giải pháp cho tình trạng
xuống cấp nghiêm trọng của di sản văn hóa vật thể ở Hà Nội. 60
2.3.3. Đánh giá hiệu quả báo chí qua phản hồi của công chúng 64
2.4. Đánh giá chung về nội dung, hình thức phản ánh việc bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa vật thể Hà Nội trên báo: Nhân dân, Hà Nội mới, Văn hoá 69
2.4.1. Về ưu điểm 69
2.4.2. Nhược điểm, hạn chế: 80
Tiểu kết chương 2 81
CHƢƠNG 3 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG BÁO IN VỀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN
HÓA VẬT THỂ HÀ NỘI 82
3.1. Một số vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện bảo tồn và phát huy di sản
văn hoá vật thể Hà Nội trên báo in 82
3.1.1. Về nội dung chuyển tải: 82
3.1.2. Về hình thức thể hiện: 83
3.2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lƣợng báo in về vấn đề bảo tồn
và phát huy di sản văn hoá vật thể Hà Nội 86
3.2.1. Đối với các nhà quản lý, hoạch định báo chí 86
3.2.2. Đối với các cơ quan báo chí 90
3.2.2.1. Đối với Ban biên tập 95
3.2.2.2. Đối với Nhà báo 95

Tiểu kết chương 3 101
KẾT LUẬN 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
PHẦN PHỤ LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1: Một số thông tin cá nhân các đối tượng khảo sát 64
Biểu đồ 2.1: Số lượng tác phẩm báo chí phản ánh nội dung bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa vật thể Hà Nội 40
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu tác phẩm phản ánh nội dung bảo tồn và phát huy DSVHVT
Hà Nội 41
Biểu đồ 2.3. Cơ cấu chi tiết tác phẩm phản ánh bảo tồn và phát huy DSVHVT
Hà Nội 41
Biểu đồ 2.4 Thể loại báo chí chuyển tải nội dung bảo tồn và phát huy DSVHVT
Hà Nội 46


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Văn hoá nói chung, di sản văn hoá nói riêng, luôn có vị trí, vai trò quan trọng
trong đời sống con người cũng như trong bản sắc của mỗi dân tộc. Văn hoá không
chỉ làm nên sự khác biệt, tính đặc thù của mỗi dân tộc mà qua đó làm cho đời sống
nói chung thêm phong phú, đa dạng, giúp cho con người vun đắp lòng tự hào đối
với bản sắc của dân tộc mình. Những di sản văn hóa tồn tại đến hôm nay luôn đóng
vai trò quan trọng trong lịch sử hình thành, phát triển của một quốc gia, dân tộc,
vùng miền. Đó không chỉ là tài sản của riêng một vùng đất hay con người địa
phương, mà còn là tài sản của quốc gia; phản ánh một cách tập trung nhất, tiêu biểu
nhất truyền thống văn hóa dân tộc. Cùng với thời gian, các giá trị kết tinh trong di
sản văn hóa như một dòng chảy âm thầm, lặng lẽ nhưng có khả năng to lớn, là cội

nguồn, nền tảng tạo nên hệ giá trị của văn hóa dân tộc hôm nay và mai sau.
Hiện nay, xu thế tất yếu của nhiều quốc gia trên thế giới là bằng mọi cách
khơi dậy sức sống mãnh liệt của dân tộc để hội nhập quốc tế và phát triển hợp lý,
phù hợp với xã hội hiện đại. Để làm được điều đó, nhiều nước đã tìm về di sản văn
hoá (DSVH), bởi DSVH chính là một trong những cội nguồn sức sống tiềm tàng to
lớn của dân tộc được tạo ra trong quá khứ, cần phải được bảo vệ, duy trì và phát huy
trong xã hội hiện đại. Văn hoá là tiềm lực tinh thần to lớn của mỗi dân tộc, thể hiện ở
những giá trị hàm chứa trong vốn DSVH dân tộc được tích luỹ theo thời gian lịch sử.
DSVH dân tộc giống như một nguồn lực kép: nguồn lực vật thể (hữu hình) và nguồn
lực phi vật thể (vô hình), trở thành điểm tựa quan trọng, tạo thế đi vững chắc cho hiện
tại và tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
UNESCO cho rằng: “Trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự phồn thịnh
và phát triển lâu dài của một quốc gia không đơn thuần chỉ là vấn đề nhân công,
nguồn vốn, công nghệ và tài nguyên thiên nhiên, mà còn là tiềm năng sáng tạo của
nguồn lực con người. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong văn hoá và truyền thống
của dân tộc, nghĩa là trong kho tàng trí thức, trong tâm hồn, đạo lý, lối sống, trình
độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng”. Vì lẽ đó, việc bảo tồn và phát

2
huy những giá trị của nền văn hoá truyền thống là một vấn đề thiết thân và cấp
bách, đặt ra đối với hầu hết các quốc gia.
Đối với Việt Nam, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của dân tộc là một
nhiệm vụ của Nhà nước, của xã hội và của mỗi người dân Quốc hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 9, ngày 26/10/2001 đã thông qua
“Luật di sản văn hoá”. Điều 10 của Luật di sản văn hoá đã chỉ rõ: “Cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị
vũ trang nhân dân và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ và phát huy di sản văn hoá”.
Trong chiến lược phát triển của đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh”, vai trò của văn hoá được Đảng và Nhà nước ta
xem trọng. Nghị quyết Hội nghị lần 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII

viết: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh vấn đề
bảo tồn phát huy DSVH dân tộc trong sự nghiệp phát triển văn hoá, nền tảng tinh
thần của xã hội: “Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách
mạng, kháng chiến, các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị
văn hoá nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo
tồn và phát huy văn hoá, văn nghệ dân gian. Kết hợp hài hoà việc bảo vệ, phát huy
các di sản văn hoá với các hoạt động phát triển kinh tế du lịch”.
Thủ đô Hà Nội là nơi hội tụ tinh hoa ngàn năm của văn hóa Việt Nam.
Nghiên cứu di sản văn hóa Hà Nội cũng là nghiên cứu tinh hoa trong di sản văn hóa
Việt Nam. Việc bảo tồn và phát huy các giá trị tinh hoa của các di sản văn hoá Việt
Nam, trong đó có di sản văn hoá vật thể Hà Nội là một bộ phận hợp thành quan
trọng, vì thế có ý nghĩa lớn về nhiều mặt. Điều 10 của pháp lệnh Thủ đô Hà Nội đã
nêu: “Nhà nước có chính sách bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá, danh
lam thắng cảnh, khu phố cổ tiêu biểu ở Thủ đô…”.
Hà Nội được xem là một trong những thành phố cổ kính của thế giới. Di sản
văn hóa vật thể nói riêng và di sản văn hóa nói chung là một thành tố có vai trò

3
quan trọng trong việc tạo dựng, tôn vinh giá trị của mảnh đất kinh kỳ. Sau khi điều
chỉnh địa giới hành chính, Hà Nội là địa phương có nhiều di sản văn hóa vật thể
(trong đó chủ yếu là di tích lịch sử văn hóa) với số lượng lớn nhất cả nước. Hệ
thống di sản văn hóa vật thể của Thủ đô góp phần làm cho bức tranh di sản văn hóa
Thăng Long - Hà Nội thêm phong phú, là tiềm năng phát triển du lịch, nhưng đồng
thời đặt ra trách nhiệm nặng nề trong việc quản lý, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá
trị di sản. Hà Nội đã, đang và sẽ làm gì để khối di sản quý giá này phát huy giá trị
ngày càng tốt hơn, để sức ép của nền kinh tế thị trường không làm mai một, xâm hại
chúng thì đây càng là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Bên cạnh đó, xuất phát từ quan điểm đường lối của Đảng, việc thực hiện đề tài

nghiên cứu “Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật thể Hà Nội” là một hoạt động có
ý nghĩa thực tiễn sâu sắc và ý nghĩa thời sự cấp bách đối với các thành phố Hà Nội
nói riêng, đối với các tỉnh, thành phố trong cả nước nói chung.
Tại Điều 11 của Luật Di sản văn hoá cũng đã chỉ rõ: “Các cơ quan văn hoá,
thông tin đại chúng có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến rộng rãi ở trong nước và
nước ngoài các giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc Việt Nam, góp phần nâng
cao ý thức bảo vệ và phát huy di sản văn hoá trong nhân dân”. Đối với người làm
báo nhất là những người làm văn hoá, việc nghiên cứu các giá trị văn hoá truyền
thống là một yêu cầu thiết thực. Trong khi đó với sự phát triển mạnh mẽ của các
loại hình báo chí hiện nay, đặc biệt là loại hình báo chí gắn với các phương tiện
truyền thông mới như báo mạng điện tử, báo in đã làm gì, có cách thức riêng như
thế nào để cạnh tranh với các loại hình báo chí để tồn tại và phát triển.
Trong các loại hình báo chí truyền thống, tác giả lựa chọn báo in bởi lẽ:
- Báo in là một kênh quan trọng bậc nhất không thể thiếu trong hệ thống các
phương tiện thông tin đại chúng hiện nay.
- Loại hình báo in có tiếng nói chính thống, mạnh mẽ không chỉ riêng trong
lĩnh vực bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa mà tất cả lĩnh vực xã hội khác.

4
- Báo in có lịch sử phát triển lâu đời nhất trong các loại hình báo chí ở Việt
Nam cũng như trên thế giới, vì vậy có nền tảng, thế mạnh trong việc thông tin,
tuyên truyền.
- Tư liệu khảo sát của loại hình báo in là đầy đủ, có cơ sở thực tế rõ ràng
nhất, hệ thống nhất do được lưu trữ cẩn thận.
- Báo in có tính đại chúng, phù hợp với đông đảo nhân dân, thỏa mãn và
thích hợp với văn hóa đọc, lưu giữ tư liệu của công chúng Việt Nam.
- Trước mỗi vấn đề, báo in đều có cách thức thể hiện riêng, tạo dấu ấn không
giống như bất cứ loại hình nào khác, như truyền hình, phát thanh hay báo điện tử.
Từ đó tạo hiệu quả thông tin tuyên truyền.
- Đặc biệt ở mặt trận phản diện, với các thế mạnh của mình, báo in luôn có

tiếng nói mạnh mẽ nhất, dài hơi nhất.
Những lý do trên đây đã thúc đẩy tôi chọn lựa đề tài:
“Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật thể Hà Nội trên báo in” nhằm tìm
ra những thành tựu và hạn chế của hoạt động này trên báo in, kiến nghị và đề xuất
những phương hướng và giải pháp có tính khả thi, nhằm bảo tồn và phát huy tốt hơn
di sản văn hóa vật thể Hà Nội trên báo in trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
* Những thành tựu nghiên cứu lý luận về văn hoá và di sản văn hoá
Ở nước ta, nghiên cứu về DSVH trước tiên phải kể đến công trình Việt Nam
Văn hoá sử cương của học giả Đào Duy Anh từ năm 1938 với quan điểm : “Ta
muốn trở thành một nước cường thịnh về vật chất, vừa về tinh thần thì phải giữ văn
hoá cũ (di sản) làm thể (gốc, nền tảng); mà lấy văn hoá mới làm dụng nghĩa là phải
khéo điều hoà tinh tuý của văn hoá phương Đông với những điều sở trường về khoa
học của văn hoá phương Tây”.
Năm 1997, GS,TS. Hoàng Vinh hoàn thành cuốn sách Một số vấn đề về bảo
tồn và phát triển di sản văn hoá dân tộc. Trên cơ sở những quan niệm DSVH của
quốc tế và Việt Nam, tác giả đã đưa ra một hệ thống lý luận về DSVH, đồng thời

5
bước đầu vận dụng nghiên cứu DSVH nước ta. Năm 2002, Luật di sản văn hoá và
văn bản hướng dẫn thi hành được coi là văn bản pháp quy về DSVH.
Công trình Một con đường tiếp cận di sản văn hoá do Bộ Văn hoá - Thông
tin ấn hành, Hà Nội năm 2006 đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu về lý luận DSVH
cũng như thực tiễn, có thể làm tư liệu nghiên cứu tốt cho đề tài. Trong đó tiêu biểu
nhất là các bài: Khảo cổ học với công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hoá (Vũ
Quốc Hiền), Bảo tồn di tích, nhân tố quan trọng của phát triển bền vững (Lê Thành
Vinh); Di tích lịch sử và văn hoá đồng bằng sông Hồng (Đặng văn Bài); Bảo tồn,
tôn tạo và xây dựng khu di tích lịch sử - văn hoá Đường Lâm (Phan Huy Lê).
Sách Giữ gìn, phát huy di sản văn hoá các dân tộc Tây Bắc do NXB Văn
hoá Dân tộc - Tạp chí Văn hoá nghệ thuật phát hành có thể giúp người đọc có thể

nhận diện một số vấn đề lý luận về DSVH.
Trên Tạp chí Cộng sản số 20, năm 2003, PGS, TS. Nguyễn Văn Huy đã có
nhiều cố gắng nghiên cứu Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá
các dân tộc hiện nay. Tác giả bài báo đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn
của công tác bảo tồn phát huy DSVH trên phạm vi cả nước.
Cùng hướng nghiên cứu này, Ngô Phương Thảo viết bài Bảo vệ di sản, cuộc
chiến từ những góc nhìn đăng ở Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 289 tháng 07/2008.
Bài viết đã đề cập trực tiếp đến vấn đề bảo vệ DSVH hiện nay. Theo tác giả thì
“Mỗi ngày, di sản văn hoá càng đối mặt với nhiều nguy cơ, xuất phát từ những hệ
lụy của cuộc sống hiện đại. Cũng mỗi ngày, ý thức về trách nhiệm phải gìn giữ các
giá trị văn hoá đã tồn tại với thời gian càng lan toả sâu rộng trong toàn xã hội, trong
mỗi cộng đồng để dẫn tới những chương trình dự án ngày càng có hiệu quả hơn
trong việc gìn giữ các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể”.
* Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa vật thể của Hà Nội
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về di sản văn hóa vật thể Hà Nội. Đề tài
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu. Có thể kể ra các công trình như: “Hồ Hoàn Kiếm và Đền Ngọc

6
Sơn” (tác giả Nguyễn Vinh Phúc, NXB Trẻ.2003), “Di tích lịch sử văn hóa Hà Nội”
(tác giả: Nguyễn Doãn Tuân, Nguyễn Vinh Phúc, Trần Lâm Biền, NXB Chính trị
quốc gia., H.2000), “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể của Thăng
Long – Hà Nội (Viện nghiên cứu Văn hóa, Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam)”…v.v.
Bên cạnh đó, có một số đề tài luận văn có liên quan trực tiếp đến đề tài
nghiên cứu này. Đó là những tư liệu quý có ý nghĩa tham khảo.
- Luận văn thạc sỹ “Báo chí với việc giới thiệu và góp phần bảo tồn di sản
văn hoá ở Hà Nội” (khảo sát trên báo Nhân dân, Hà Nội mới, Văn hoá từ năm 1999
- 2002) của tác giả Đào Thị Minh Nguyệt (năm 2004), Trường Đại học Khoa học xã

hội và Nhân văn. Luận văn đã tập trung khảo sát, đánh giá việc phản ánh vấn đề
giới thiệu và bảo tồn di sản văn hoá Thủ đô trên báo chí.
- Luận văn thạc sỹ “Báo chí với vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hoá Hà
Nội” của tác giả Hoàng Hương Trà (năm 2007), Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn. Trên cơ sở khẳng định những giá trị quý báu cũng như hiện trạng của di
sản văn hoá Hà Nội, vai trò của báo chí trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá
Hà Nội để đề xuất những kiến nghị giải pháp.
Cả hai công trình trên đều đã nêu, phân tích, đánh giá việc phản ánh vấn đề
bảo tồn và phát huy di sản văn hoá Hà Nội (cả di sản văn hóa vật thể và phi vật thể)
trên báo chí nhưng chưa đưa ra được những vấn đề về lý luận báo chí do vậy cả hai
công trình mới dừng lại ở việc đưa ra giải pháp để bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa dưới góc độ văn hóa học chứ chưa đưa ra được giải pháp để nhằm nâng cao
hiệu quả của hoạt động này trên báo chí nhất là báo in. Bên cạnh đó thời điểm
nghiên cứu của cả hai công trình trên đều khá xa so với thời điểm tác giả thực hiện
đề tài này và lại được thực hiện trước khi Hà Nội được mở rộng địa giới hành chính.
Trên thực tế, còn khá ít công trình nghiên cứu, đánh giá, tổng kết kinh
nghiệm bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội nói riêng dưới góc độ
truyền thông. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này góp một tiếng nói chung

7
nhằm phân tích và tổng kết việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội
trên báo in.
3. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu:
- Xây dựng nhận thức về việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật thể của
thủ đô Hà Nội được truyền thông trên loại hình báo in.
- Nghiên cứu thực trạng bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật thể Hà Nội
trên loại hình báo in.
- Xây dựng những giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng báo in về vấn đề
bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật thể Hà Nội.

3.2. Nội dung nghiên cứu:
- Khảo sát tình hình bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật thể Hà Nội qua
các tin, bài trên báo in.
- Phân tích, đánh giá về nội dung và cách thức truyền thông của báo: Nhân
Dân, Hà Nội Mới, Văn Hoá trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật thể
Hà Nội.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội trên các tác phẩm
báo chí thuộc loại hình báo in.
- Các di sản văn hoá vật thể thuộc Hà Nội mới (Di sản văn hoá vật thể được
Unesco công nhận và Di sản văn hoá vật thể cấp Quốc gia)
Đối tượng khảo sát là tất cả các tin, bài phản ánh việc bảo tồn và phát huy di
sản văn hoá vật thể Hà Nội trên 3 tờ báo chính thống, tiêu biểu, đó là:
- Báo Nhân Dân: Cơ quan của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Báo Hà Nội Mới: Cơ quan của Thành ủy Hà Nội
- Báo Văn hóa: Cơ quan của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
4.2. Phạm vi nghiên cứu:

8
- Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước, công tác tuyên truyền cổ động cho lĩnh vực này là nhiệm vụ thường xuyên
của các phương tiện thông tin đại chúng; với thời gian và các điều kiện khách quan
không cho phép, xuất phát từ góc độ báo chí học, Luận văn chỉ đi sâu khảo sát, đánh
giá việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội trên 3 tờ báo in tiêu biểu:
Nhân Dân, Hà Nội Mới và báo Văn Hóa.
- Thời gian khảo sát các tờ báo trong thời gian 2 năm: 2012, 2013. Lựa chọn 3
tờ báo này với mong muốn vừa khảo sát được lịch sử phát triển của 3 tờ báo này vừa
bao quát được thực trạng, công tác quản lý bảo vệ, gìn giữ, khai thác di sản văn hoá
vật thể Hà Nội từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết để nâng cao chất

lượng báo in trong việc phản ánh hoạt động này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
5.1. Phương pháp luận (Cơ sở lý thuyết của việc nghiên cứu):
- Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac – LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về phát triển Văn hoá và Báo chí.
- Dựa vào hệ thống lý luận về báo in nước ta hiện nay.
Đây là cơ sở phương pháp luận để tiếp cận vấn đề này, để đánh giá những
thành tựu và hạn chế của báo in trong việc góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di
sản vật thể Hà Nội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Phương pháp phân tích văn bản.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh: Phương pháp này
được sử dụng nhằm xem xét thông tin có sẵn trong sách báo … để thu thập các
thông tin định tính phục vụ đề tài.
- Công tác sưu tầm tài liệu: quan sát trực tiếp, sưu tầm, thống kê, phân loại
tin, bài thành từng nhóm theo đặc điểm của nội dung và hình thức.
- Phương pháp điều tra xã hội học (Bảng hỏi).
Quá trình nghiên cứu được thực hiện trong hai năm: 2012 và 2013.

9
Thông qua đó để tìm hiểu vai trò của báo in đối với việc bảo tồn và phát huy
di sản văn hoá vật thể Hà Nội; Báo Nhân Dân, Hà Nội Mới, và báo Văn Hóa đã có
cách thức truyền thông như thế nào trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật
thể Hà Nội trên tờ báo của mình từ việc tổ chức về nội dung và hình thức phản ánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận:
Đưa ra những khái niệm học thuật có tính hệ thống về mối quan hệ giữa báo
in, truyền thông và bảo tồn, phát huy di sản văn hoá trong đó có di sản văn hóa vật
thể; đặc biệt là xác lập hệ thống cơ sở lý luận và hiệu quả báo in trong hoạt động

truyền thông về bảo tồn, phát huy di sản văn hoá vật thể. Từ sự hệ thống này, có thể
góp tiếng nói giúp cho những người quan tâm trong lĩnh vực cùng tìm hiểu học
thuật, tạo diễn đàn trao đổi trong hướng nghiên cứu bảo tồn và phát huy di sản văn
hoá vật thể Hà Nội.
Bên cạnh đó cũng góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận truyền thông về bảo tồn
và phát huy di sản văn hoá vật thể trên báo in (cụ thể đó là những hình thức truyền
thông về bảo tồn, phát huy di sản văn hoá vật thể trên báo in).
- Về mặt thực tiễn:
+ Là tài liệu tham khảo bổ ích cho đội ngũ quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện việc bảo tồn di sản văn hóa vật thể nói chung, đặc biệt là di sản văn hóa vật thể
Hà Nội.
- Luận văn có thể sử dụng cho đội ngũ những người làm báo và quản lý báo
chí (trong đó có báo in) làm tài liệu tham khảo, vận dụng trong thực tiễn quản lý,
tác nghiệp báo chí về vấn đề bảo tồn di sản văn hóa vật thể Hà Nội.
- Thông qua luận văn, trên cơ sở mối quan hệ giữa báo chí in và vấn đề bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội, các nhà quản lý về di sản văn hóa Hà
Nội và các nhà quản lý, hoạch định báo chí cũng thấy được vai trò của báo chí
(trong đó có báo in) trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể của Thủ
đô để có sự phối hợp với nhau theo hướng chủ động hơn để thực hiện tốt hơn hoạt
động này.

10
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn gồm có
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về loại hình báo in và di sản văn hóa.
Chương 2: Thực trạng vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà
Nội trên báo: Nhân Dân, Hà Nội Mới, Văn Hóa
Chương 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao chất lượng báo in về

vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội.


















11
CHƢƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về báo in
1.1.1. Khái niệm và lịch sử báo in
Báo in là một trong những loại hình của báo chí, là phương tiện truyền thông
không thể thiếu của đời sống xã hội. Đến nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về
báo in. Theo Tiến sĩ Hà Huy Phượng, “Báo in là thuật ngữ chỉ một loại hình báo chí
định kỳ thông tin thời sự các sự kiện, các vấn đề trong đời sống xã hội thông qua việc
sử dụng ngôn ngữ chữ viết và kỹ thuật in ấn để chuyển tải thông tin”. [23, tr 25].
Báo in còn được hiểu là những ấn phẩm xuất bản định kỳ, đăng tải các sự

kiện vấn đề thời sự, phát hành rộng rãi nhằm phục vụ công chúng nhóm đối tượng
nào đó với mục đích nhất định. Hay hiểu một cách đơn giản nhất, “Báo in là một
loại hình báo chí, chuyển tải nội dung các vấn đề, sự kiện bằng văn bản, chữ viết, ký
tự, hình ảnh thông qua trang giấy cung cấp thông tin cho độc giả”. [23, tr 31].
“Báo in: là tên gọi loại hình báo chí được thực hiện bằng phương tiện in
(báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn)” [30, tr 09]. Theo Luật Báo chí thì
báo in bao gồm: báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn.
Sự ra đời của báo in vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ VII đánh dấu một bước
ngoặt lớn cho việc thông tin các sự kiện, vấn đề đang xảy ra trong xã hội. Nó được
đánh dấu bằng sự ra đời của công nghệ in đặc biệt là chiếc máy in của Gutenburg
cho phép chuyển tải các thông tin và kiến thức lên trên giấy. Trước đó, đã xuất hiện
các tờ bảng tin của người La Mã xuất hiện khoảng năm 59 trước Công Nguyên, hay
những tờ truyền tin viết tay đầu thế kỷ thứ VIII ở Trung Quốc.
Sự ra đời của báo in hiện đại vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII là hệ quả
tất yếu của các điều kiện lịch sử cụ thể lúc đó xã hội Châu Âu đang bước vào thời lỳ
bản lề giữa xã hội phong kiến và xã hội tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, những cuộc cách mạng tư sản, những cải cách kinh tế, những biến
động chính trị xã hội Châu Âu. Trên nền xã hội ấy, nhu cầu thông tin giao tiếp bùng
nổ trở thành một đòi hỏi bức bách con người cần được biết thông tin đang xảy ra

12
xung quanh để có cách xử lý kịp thời. Mặt khác, các thế lực chính trị, xã hội cần
công cụ để tuyên truyền, tổ chúc lực lượng,… Các giáo sĩ, chủ nghĩa thực dân mang
“Văn hóa báo chí” đi gieo giống khắp mọi nơi trên thế giới nhằm phục vụ cho thế
lực đế quốc.
Vào nửa đầu thế kỷ XVII, những tờ báo in mới bắt đầu được xuất bản có tính
định kỳ, chủ yếu đưa tin về Châu Âu. Tờ báo Relation ra đời ở Đức năm 1605 được
coi là tờ báo đầu tiên trên thế giới. Năm 1844, việc phát minh ra máy điện báo đã
thay đổi ngành báo in. Đến cuối thế kỷ XVIII, báo đã có nội dung thông tin phong
phú, số lượng người đọc nhiều hơn cũng đề cập đến nhiều vấn đề mang tính thời sự,

cách mạng và chiếm được một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội của con
người. Thế kỷ XIX, là thời kỳ ngự trị của báo in, báo in đã có mặt khắp nơi trên thế
giới. Các thành phố công nghiệp lớn ra đời, trình độ văn hóa và đời sống của con
người được cải thiện kích thích nhu cầu thông tin giao tiếp trong xã hội, cùng với sự
phát triển của khoa học kỹ thuật thúc đẩy sự phát triển của báo in.
Thế kỷ XX, được coi là thời kỳ bùng nổ của báo chí với sự đa dạng của các
thể loại, loại hình báo chí được chia theo các lĩnh vực và lứa tuổi. Ở các nước công
nghiệp phát triển cứ 1000 người dân thì tiêu thụ 400-500 nhật báo. Tuy nhiên, đầu thế
kỷ XXI nhiều chuyên gia cho rằng đây là thời kỳ khó khăn của báo in trên thế giới.
Bởi chất lượng của tờ báo chưa đảm bảo, sự ra đời và phát triển của các loại hình báo
chí khác như phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử. Hơn nữa một xu thế báo phát
không đang diễn ra làm cho báo in gặp nhiều vấn đề trong việc phát hành.
Ở Việt Nam, sự ra đời của tờ Gia Định Báo có thể coi là thời điểm khởi đầu
của lịch sử báo chí hiện đại. Trước đó, năm 1861 đã xuất hiện tờ công báo của quân
đội viễn chinh Pháp ở Nam Kỳ in bằng tiếng Pháp. Đầu thế kỷ XX, báo chí đã có
mặt trên khắp ba miền đất nước. Tại Hà Nội, ấn phẩm đầu tiên mang tính chất của
một tờ báo cả về nội dung lẫn hình thức là tờ Đại Việt Tân báo ra số 1 ngày
07/5/1905. Mặc dù báo chí ra đời muộn nhưng do vai trò chính trị quan trọng của
nó, Hà Nội nhanh chóng trở thành trung tâm hàng đầu của cả nước về nguồn tin, tác
giả, tiêu thụ báo, đồng thời cũng là nơi tập trung nhiều cơ quan báo chí.

13
Ngày 21/6/1925, Tờ báo Thanh Niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập và
trực tiếp chỉ đạo xuất bản số đầu tiên, đánh dấu sự khởi đầu của nền báo chí cách
mạng. Lần đầu tiên trong lịch sử, tờ Thanh Niên đã kết hợp giữa chủ nghĩa yêu
nước và tư tư tưởng cách mạng chủ nghĩa Mác-Lênin trong nội dung tuyên truyền
của mình, tổ chức lực lượng thức tỉnh quần chúng nhân dân chuẩn bị cho những
cuộc vận động xã hội, nhằm mục đích giải phóng dân tộc và thiết lập chế độ Xã hội
chủ nghĩa. Với tờ Thanh Niên, Nguyễn Ái Quốc khai sinh ra nền báo chí cách mạng
Việt Nam. Và ngày 21/6 được lấy là ngày báo chí Việt Nam.

Trong những thập niên 20, 30 của thế kỷ XX, báo in công khai của nước ta
cũng đã có những bước phát triển vượt bậc với những tờ báo, tạp chí như: Trung
bắc tân văn, Đông Dương tạp chí, Nam Phong,… Trong thời kỳ cách mạng, báo chí
có điều kiện phát triển, giữ vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tuyên tryền, giải
thích đường lối, chính sách của Đảng. Sau chiến thắng mùa Xuân 1975, cả nước
thống nhất cùng xây dựng một chế độ mới, báo chí nước ta có điều kiện và phát
triển, đổi mới. Kỹ thuật in ấn được cải tiến và không ngừng hoàn thiện, từ in typo
sang in ôpset và hiện đại là máy tính điện tử ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong dây truyền sản xuất báo. Số lượng cơ quan báo in và số ấn phẩm báo in cũng
tăng cả về số lượng và chất lượng. Theo báo cáo tháng 6 năm 2013 của Bộ Thông
tin và Truyền thông trên cả nước có 815 cơ quan báo in với 1054 ấn phẩm.
1.1.2. Đặc thù của báo in
Báo in chuyển tải nội dung thông tin thông qua văn bản bao gồm chữ in, hình
vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ,… Toàn bộ nội dung thông tin của báo in xuất hiện
đồng thời ngay trước mắt độc giả. Việc tiếp nhận thông tin của công chúng đối với
báo in chỉ qua thị giác, giác quan quan trọng nhất của con người trong mối quan hệ
với thế giới xung quanh. Chính vì vậy báo in có những đặc thù sau:
Thứ nhất, người đọc hoàn toàn chủ động trong việc tiếp nhận thông tin từ
báo in. Việc tiếp nhận thông tin thông qua việc bố trí thời điểm đọc, cách đọc, tốc
độ đọc,… Tùy vào thời gian rảnh rỗi của mỗi người mà có thể đọc báo bất cứ lúc
nào, khác với phát thanh và truyền hình, người nghe có thể nghe bất cứ lúc nào

14
nhưng thông tin không được rõ vì có thể nghe đoạn cuối nói nhưng không nghe
đoạn đầu nên rất dễ gây hiểu lầm cho người nghe. Mặt khác, người đọc có thể đọc
tùy hứng, đọc chậm rãi hay lướt qua, hoặc chú tâm vào các chi tiết, còn với phát
thanh, truyền hình tùy vào việc đưa thông tin và cách đọc của biên tập viên. Nghĩa
là người nghe, xem phụ thuộc vào biên tập viên.
Bên cạnh đó, người đọc có thể lướt nhanh để nắm bắt thông tin và lựa chọn
thông tin nào mình nên đọc trước và người đọc cũng có thể đọc theo sở thích của

mình. Đây là điều mà báo mạng điện tử đang cố gắng phát huy. Điều này tạo cho
báo in có khả năng thông tin những nội dung phức tạp và sâu sắc hơn.
Thứ hai, báo in có khả năng lưu trữ thông tin lâu. Việc tiếp nhận thông tin từ
báo in so với các loại hình báo chí khác là hoàn toàn chủ động, vì vậy đòi hỏi người
đọc phải tập trung cao độ, phải huy động sự làm việc tích cực của trí não nếu không
sẽ không lưu lại được thông tin mình vừa đọc là gì và nó như thế nào. Hơn nữa
nguồn thông tin từ báo in đảm bảo sự chính xác và độ xác định cao. Dù thông tin
chậm hơn so với các loại hình báo chí khác nhưng đảm bảo sự chính xác về thông
tin vì đã được kiểm định. Mặt khác, báo in còn trở thành nguồn tài liệu quý giá đối
với người đọc vì những thông tin mà người đọc lưu trữ trong trí não. Báo in có thể
làm tài liệu, minh chứng cho các công trình nghiên cứu khoa học. Do vậy độc giả
vẫn tìm đến với báo in trong sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền
thông mới bởi báo in có khả năng lưu trữ thông tin cao. Khi người đọc, tiếp nhận
thông tin qua mắt nhưng đồng thời với đó là trí não hoạt động, tập trung mọi ỹ nghĩ
vào trong tờ báo để tiếp nhận thông tin. Như phát thanh hay truyền hình thì thính
giả và khán giả chỉ có thể xem khi không tập trung mọi giác quan, trí não của mình
thì những chi tiết, nội dung thông tin chuyển đến người đọc là không hiệu quả và
không lưu lại được trong trí não.
Cũng giống như sách, khi ta đọc một cuốn sách, những chi tiết trong cuốn
sách, những tình huống, câu chuyện hấp dẫn người đọc. Thì ta chăm chú đọc và suy
ngẫm và lưu lại trong trí não của người đọc và có thể kể lại những gì mình vừa đọc
hoặc tóm lược lại nội dung câu chuyện cho người khác nghe bằng ngôn ngữ của

15
mình. Thì báo in cũng vậy, khi bạn tiếp nhận một thông tin từ báo in, bạn cũng có
thể truyền đạt lại thông tin ấy một cách chi tiết, cụ thể, sinh động cho người khác
nghe thông qua những cử chỉ, điệu bộ của mình để thu hút sự lắng nghe, quan tâm
của người khác. Điều này là hơn hẳn với các loại hình báo chí khác.
Thứ ba, báo in có khả năng phân tích, bình luận, lý giải sâu rộng đầy đủ các
vấn đề, sự kiện. Đây là một thế mạnh mà có thể nói đặc trưng nhất của báo in mà

đến nay không loại hình báo chí nào có thể làm được điều này, kể cả báo mạng điện
tử. Chính lợi thế này mà nó đã giúp báo in đứng vứng và cạnh tranh với các loại
hình báo chí khác trong sự phát triển nhanh chóng vượt bậc của khoa học công
nghệ. Nhiều bài báo của Hồ Chí Minh đến nay vẫn tồn tại nguyên vẹn giá trị của nó.
Do đâu mà có được như vậy? Đó chính là sự biện luận sắc sảo của chủ tịch Hồ Chí
Minh, người luôn đi sâu vào phân tích vấn đề, giải quyết vấn đề một cách có căn cứ.
Trong cuốn sách “cơ sở lý luận báo chí đặc tính và phong cách” tác giả Hà Minh
Đức có trích dẫn lời bình luận như sau: “Với bản cáo trạng này, Hồ Chí Minh đã
xuất hiện như một chiến sĩ chân chính của chủ nghĩa quốc tế vô sản và người bảo vè
nhân quyền và tự do của tất cả những người bị áp bức dù họ cư trú ở bất cứ nước
nào. Bài báo đã từ một tội ác cụ thể của chủ nghĩa đế quốc chỉ ra bản chất độc ác
của chúng, ”.
Sự tồn tại lâu dài của một tác phẩm báo chí đó là sự kết hợp hoàn hỏa giữa
nội dung và nghệ thuật. Đó phải là một tác phẩm hay, có cấu trúc chặt chẽ, biện
luận sắc sảo, phân tích rõ ngọn nguồn của sự kiện vấn đề, từ những nguyên nhân
chủ quan đến khách quan để lý giải cho 5 wh (what, where, when, who, why) và
một H (How). Thêm vào đó ngôn từ chọn lọc và gây ấn tượng. Từ một thông tin
đơn lẻ ta có thể phân tích bàn luận để có một bài xã luận, bình luận. Đi sâu vào tìm
hiểu diễn biến cụ thể và các mối quan hệ đan xen nhau của hiện tượng xã hội ta có
thể viết một tác phẩm ký, hay cũng có thể là một phóng sự dài kỳ về câu chuyện đời
sống. Ở mỗi một thể loại khác nhau, người viết có thể đi sâu vào khai thác vấn đề sẽ
cho ra một tác phẩm có đầy đủ lý luận và đưa ra được vấn đề cần giải quyết.

16
Như vậy, chỉ có bài báo có chiều sâu về phân tích, bình luận thì nó sẽ tồn tại
được lâu với thời gian. Nếu như với phát thanh, truyền hình, những thông tin mà
công chúng nhận được qua thị giác và thính giác nhưng sự lưu trữ thông tin trong trí
não là rất ít. Bởi không có sự phát huy đồng thời của thị giác và trí não nên thông
tin do phát thanh, truyền hình làm cho công chúng phân tâm. Đối với báo in, khi
người ta đọc tác phẩm, với sự phân tích, bình luận của tác giả sẽ giúp công chúng

hiểu rõ được vấn đề, từ đó định hướng cho độc giả những phán đoán, suy nghĩ đúng
đắn về vấn đề, sự kiện. Đó cũng chính là giúp báo in thực hiện được chức năng định
hướng tư tưởng, cho độc giả ngoài chức năng thông tin, giải trí và khai sáng cho
độc giả. Thì đây là một thế mạnh đã giúp báo in hoàn thành nhiệm vụ, chức năng
đối với mỗi loại hình báo chí.
Thứ tư, báo in đa dạng về chủng loại. Phải nói rằng, không có loại hình báo
chí nào theo kịp được báo in về mặt này, bởi sự đa dạng của nó. Báo in bao gồm
nhiều chủng loại như: nhật báo, tuần báo, nguyệt san, bán nguyệt san, tạp chí, đặc
san, phụ san, nội san, chuyên san, tập san, chuyên đề, bản tin…
Báo chí in bao gồm báo và tạp chí là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội
dung thông tin mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội. Ngoài hai
thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh tập trung nhiều cơ quan báo chí
Trung ương, tất cả các tỉnh, thành phố còn lại đều có báo, tạp chí riêng.
Căn cứ vào định kỳ xuất bản, tính chất nội dung thông tin, hiện nay báo in ở
nước ta có các loại: báo hàng ngày (là những tờ phát hành mỗi ngày một kỳ vào
buổi sáng hoặc buổi chiều); báo nhiều kỳ trong tuần (là tờ báo phát hành khoảng từ
5 - 6 kỳ trong một tuần); báo một số kỳ trong tuần (là những tờ báo có số kỳ xuất
bản từ 2 - 4 kỳ trong tuần); báo tuần (là những tờ báo xuất bản định kỳ 1 kỳ/một
tuần); báo nửa tháng hay hàng tháng (chủ yếu là những ấn phẩm phụ xuất bản giữa
tháng hoặc cuối tháng của các tờ báo hằng ngày, các tờ báo nhiều kỳ, một số kỳ
trong tuần hoặc tuần báo).
Tạp chí là những ấn phẩm định kỳ có nội dung chuyên sâu vào một hay một
số vấn đề, lĩnh vực về đời sống xã hội, khoa học, kỹ thuật… Định kỳ xuất bản của

17
tạp chí có thể là một tuần, nửa tháng, 1 tháng, 2 tháng. Cũng có tạp chí xuất bản 3,
4, 5 hoặc 6 tháng/ kỳ. Hầu hết các trung tâm tỉnh, thành phố trong cả nước đều được
đọc báo phát hành trong ngày.
Nhật báo là những tờ báo xuất bản hằng ngày, có thể phát hành vào buổi
sáng, trưa, tối.Tuần báo là các tờ báo xuất bản định kỳ tuần một số. Báo thưa kỳ là

những tờ báo xuất bản nhiều kỳ trong tuần, tháng. Nguyệt san là những tờ báo, tạp
chí xuất bản theo chu kỳ tháng một số. Bán nguyệt san là những tờ báo hoặc tạp chí
đặt tên theo chu kỳ xuất bản 15 ngày một số. Đặc san là những tờ báo, tạp chí xuất
bản định kỳ hoặc không định kỳ và được xuất bản trong những điều kiện cụ thể như
các dịp lễ tết, các sự kiện chính trị trọng đại. Phụ san là những tờ báo hay tạp chí
xuất bản thêm số phụ định kỳ hoặc không định kỳ. Với mục đích là đi sâu vào
những vấn đề bạn đọc quan tâm thuộc lĩnh vực mà tờ báo, tạp chí chính thức không
có điều kiện đăng tải. Ngoài ra còn có nội san, chuyên san, tập san, chuyên đề, bản
tin và các loại tạp chí khác.
Ở Báo in, có một đặc điểm cơ bản khác mà khó có thể tồn tại ở các loại hình
báo chí khác, đó chính là tính hiện diện. Báo in có thể hiện diện ở khắp mọi nơi mà
không phụ thuộc kỹ thuật công nghệ hiện đại hay phương tiện truyền tải kỹ thuật số.
Ngoài ra, tính hiện diện của báo in còn được biểu hiện qua việc tiếp cận đến tất cả
các đối tượng độc giả khác nhau. Có lẽ nhờ đặc điểm này, báo in vẫn đã và đang tồn
tại với bạn đọc dù gặp sự cạnh tranh khốc liệt bởi các loại hình báo chí khác, nhất là
các phương tiện truyền thông mới như báo điện tử (báo mạng internet).
Tuy nhiên, bên cạnh những đặc thù làm nên thế mạnh đó, báo in vẫn còn một
số hạn chế nhất định.
Thứ nhất là khả năng phát tán thông tin chưa cao, thông tin chậm so với các
loại hình báo chí khác. Do báo in chỉ xuất hiện vào một thời điểm cụ thể và nhất
định với nội dung thông tin đề cập đến các vấn đề, sự kiện trong cả một chu kỳ xuất
bản. Phảo mất ít nhất nửa ngày, hoặc một ngày, thông tin báo in mới đến được với
công chúng, trong khi đó, một sự kiện quan trọng như một vụ cháy, họp Quốc hội,
chỉ trong vài phút là có thông tin trên đài, tivi, mạng Internet, có khi là truyền hình

×