Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

EBOOK DƯỠNG SINH TÂM THỂ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.97 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu
Lời bổ sung của người biên tập sách
I. Điều khoản chung
II. Nguyên tắc và nội dung cơ bả của tập luyện DSTT
LỜI MỞ ĐẦU
Phương pháp tập luyện Dưỡng sinh tâm thể (DSTT) cổ truyền được
Bà Nguyễn Thị Hương (thường gọi là Má Hai Bình Định) đưa ra miền Bắc
mới được 2 năm đã đưa lại hiệu quả khá rõ rệt, không chỉ ở khía cạnh nâng
cao sức khỏe đẩy lùi bệnh tật (Thân lành) cho con người, mà còn là lý thú
hơn, ở khía cạnh nhân văn đó là đồng thời giúp con người rèn luyện tâm và
ngôn hướng tới điều thiện (Tâm lành, Ngôn lành).
Là người bị nhiều căn bệnh nan y chữa chạy trong và ngoài nước
nhiều năm không khỏi, đến với phương pháp DSTT sức khỏe đã trở lại tốt,
các bệnh đều khỏi, tự đáy lòng mình tôi vô cùng biết ơn Má Hai.
Là người có thói quen nghiêm túc và khá khó tính do ảnh hưởng nghề
nghiệp là làm công tác nghiên cứu khoa học suốt cuộc đời, tôi đã thực tâm
dành thời gian để tìm hiểu các chỉ dẫn quá gọn (đến không thể gọn hơn) và
quá đơn sơ (không thể đơn sơ hơn) của Má Hai, không chỉ riêng tôi mà với
bất cứ ai đến với DSTT. Tôi tự suy nghĩ, tự lý giải những điều chỉ dẫn quá
đơn giản ấy thông qua sự hiểu biết rất hạn chế của mình về con người, về vũ
trụ ; Tôi tự thử nghiệm một cách nghiêm túc các điều lý giải ấy trên bản
thân mình trong quá trình tập luyện (có sự hướng dẫn của Má, đứng trước
Má và không có sự hướng dẫn của Má khi tự tập một mình ở nhà), đồng thời
mở rộng ra trên những người bệnh là người thân và bạn bè gần gũi mình
nhất - và vô cùng kinh ngạc về hiệu quả tốt đẹp bất ngờ. Với nhu cầu khẩn
thiết của người bệnh muốn được khỏe mạnh và đẩy lùi bệnh tật nhanh chóng
hơn tôi; được Má Hai trực tiếp chỉ dẫn và được nhiều anh chị em huấn luyện
cũ và mới góp ý kiến khích lệ và nhất là để kịp phục vụ Hội nghị tổng kết
hoạt động DSTT -1997, theo yêu cầu của lãnh đạo cấp trên, tôi mạnh dạn dự


thảo tập tài liệu nhỏ này và mong được nhiều người tham khảo, thử vận
dụng với hy vọng sẽ tiếp nhận được nhiều ý kiến đóng góp chân thành và bổ
ích để nhanh chóng cho ra đời tài liệu hướng dẫn tập luyện DSTT chính thức
có tính thuyết phục cao, có cơ sở khoa học chắc chắn hơn sau này.
LỜI BỔ SUNG CỦA NGƯỜI BIÊN TẬP SÁCH
- Đây là tài liệu khoa học duy nhất hướng dẫn tập luyện môn (DSTT0
từ 1997 đến nay tại hơn 30 tỉnh, thành phố trong cả nước; với cách tập đơn
giản tự do lấy rèn luyện TÂM làm gốc.
- Phương pháp đã thu hút số lượng người đến tập ổn định, dao động
trong khoảng 10 ngàn người trong 1 năm (theo thống kê chưa đầy đủ).
- Có tác động khá tốt đến sức khỏe tâm thể người tập: Kết quả ổn định
bình quân trong gần 20 năm là 56% số người tham gia tập luyện đã khỏi
bệnh từ phần nửa đến khỏi hoàn toàn; 35% chuyển biến khá, khoảng 9%
không chuyển biến; không có phản ứng phụ. Hiệu quả đặc biệt cao của
phương pháp với các bệnh thuộc hệ thần kinh, hệ vận động, khá tốt với hệ
tuần hoàn, hệ tiêu hóa ; không ít các bệnh như dị ứng, vẩy nến, trầm cảm,
cũng được chữa khỏi (xem thêm trên trang mạng:
www.vienduongsinhtamthe.com).
Tôi thành tâm mong được bạn đọc cùng trải nghiệm và đóng góp ý
kiến bổ sung để phương pháp ngày càng hoàn thiện giúp được nhiều người
khỏe mạnh.
Hà Nội, ngày 27 tháng 3 năm 2014
TS. TRƯƠNG THỊ THẢO
Các ý kiến đóng góp xin gửi về:
1. Ban nghiên cứu Khoa học - Viện Nghiên cứu Ứng dụng Dưỡng Sinh Tâm
Thể, số 8 ngõ 48 Đường Trần Dung Hưng, Phường Trung Hòa, Quận Cầu
Giấy, TP Hà Nội. ĐT: (04) 37841296
2. Trương Thị Thảo, TS. Sinh học, phòng 108, L2, 93 Láng Hạ, Đống Đa,
TP. Hà Nội. ĐT: (04) 35190923
Xin chân thành cảm ơn bạn đọc!

I. ĐIỀU KHOẢN CHUNG
1.1. Mục đích tập luyện DSTT để nâng cao sức khỏe đẩy lùi bệnh tật
1.2. Đối với tập luyện bao gồm tất cả mọi nguwofi (không phân biệt tuổi tác,
nghề nghiệp, trình độ, nam nữ, dân tộc, tôn giáo, không bị những bệnh thực
thể: tổn thương thực thể (gẫy chân, gẫy tay, cấp cứu cấp tính, bệnh truyền
nhiễm, chó dại hay thú dại cắn ). Tự nguyện đến tập luyện và tuân theo
điều lệ của Trung tâm DSTT.
1.3 Nơi tập: Thoáng mát, sạch sẽ. Hẹp, rộng, tùy điều kiện và số lượng
người tham gia tập luyện. Tĩnh lặng, không ồn ào.
1.4 Thời gian tập luyện: Tùy theo trạng thái sức khỏe của người tham gia tập
luyện, có thể từ 5, 10 phút đến 30, 40 phút/một lần tập:
- Sức khỏe kém, người bệnh tự tập luyện ít hơn, ngược lại được hướng dẫn
viên(HDV) trực tiếp tác động giúp nhiều hơn.
- Khi sức khỏe tăng dần người bệnh tự tập luyện là chính dưới sự tác động
chung của HDV, còn HDV tác động giúp trực tiếp sẽ ít hơn trong mỗi lần
tập.
- Khi sức khỏe ổn định dần, tự tập luyện tại nhà là chính.
II. NGUYÊN TẮC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TẬP LUYỆN DSTT
II.1. Những nguyên tắc cơ bản
II.1.1. Nguyên tắc chung
II.1.1.1. Tập luyện Tâm, Thân, Khẩu đồng thời với tập luyện thu hít năng
lượng vũ trụ vào cơ thể bằng miệng kết hợp hài hòa sự vận động tay, chân
hoặc toàn thân tùy trạng thái và nhu cầu cơ thể trên nguyên tắc lấy tập luyện
Tâm (luôn giữ cho Tâm lành) làm gốc.
II.1.1.2. Tập luyện Tâm giữ vai trò số một, bao trùm và chi phối tập luyện
Khẩu và Thân, Tâm sai, thì dù tập luyện Thân, Khẩu tốt mấy cũng không
đem lại kết quả mong muốn (hãy suy ngẫm về biểu tượng của DSTT ngoài
bìa).
II.1.1.3. Luôn đảm bảo nguyên tắc tâm tâm tương ứng, tâm tâm tương đồng
giữa HDV và người tập, nghĩa là khi HDV tập trung tư tưởng, tâm sức

truyền năng lượng cho người tập, thì người tập phải tập trung tư tưởng để
thu nhận năng lượng từ HDV truyền cho.
II.1.1.4. Tập luyện tự do không có bài bản chung cho tất cả mọi người có sự
vận dụng 3 tư thế cơ bản tùy từng thể trạng mỗi người.
II.1.2 Nguyên tắc chi tiết
II.1.2.1. Tập luyện cần luôn trong niềm tin (tin HDV sẽ giúp mình, tin bản
thân mình) sẽ nâng cao sức khỏe đẩy lùi bệnh tật.
II.1.2.2. Tập luyện cần luôn trong sự tập trung tư tưởng cao, muốn vậy phải
luôn hướng Tâm mình vào niềm tin đã được xác định ở trên.
II.1.2.3. Tập luyện tự do theo nhu cầu cơ thể từng người vận dụng 3 động
tác cơ bản nâng dần:
- Từ nhẹ nhàng đến mạnh mẽ.
- Từ đơn điệu đến đồng điệu.
- Từ thời gian ngắn đến thời gian dài.
II.1.2.4. Tập kết hợp với luyện- luyện trong quá trình tập.
II.1.2.5. Tập làm cơ sở để luyện - luyện giúp nâng cao chất lượng và hiệu
quả của tập.
II.1.2.6. Tập luyện thường xuyên trong mọi hoàn cảnh sống, trong mọi trạng
thái sức khỏe của bản thân.
II.1.2.7. Tập luyện trong suốt cuộc đời chứ không phải chỉ khi có bệnh.
II.1.2.8. Trong tập luyện Thân lấy tập luyện hít thở bằng miệng làm gốc, kết
hợp hài hòa với vận động 2 bàn tay và toàn cơ thể.
II.2. Ba nội dung cơ bản của tập luyên DSTT
II.2.1. Tâm
II.2.1.1. Giữ yên lặng, bình tĩnh, lúc nào cũng muốn mọi người được khỏe
mạnh, giàu sang, hiền lành đạo đức.
II.2.1.2. HIếu lễ với tổ tiên, ông bà, cha mẹ.
II.2.1.3. Biết kính trên nhường dưới, thương yêu, đoàn kết, cùng nhau chia
sẻ vui buồn, hoạn nạn.
II.2.1.4. Sống yêu thương chăm sóc, chết tôn kính phụng thờ.

II.2.1.5. Không sân si, hờn giận, ghét ganh, tham lam, ngã chấp.
II.2.1.6. Không nghiện ngập rượu chè, cờ bạc, không tà dâm, không xì ke
ma túy, không xem tranh ảnh sách báo đồi trụy.
II.2.1.7. Không tự đại, tự tôn, tự đắc, tự cao, tự phụ, tự ái.
Làm được 7 điều trên là giúp bảo vệ và tu luyện Tâm tốt.
II.2.2. Khẩu
II.2.2.1. Ăn - lựa món ăn vừa miệng, hợp với dạ dày của mình, hợp với điều
kiện của mình thì ăn.
II.2.2.2. Không nói lời ác độc với ai.
II.2.2.3. Không nói tục.
II.2.3. Thân
II.2.3.1. Không làm việc gì quá sức với mình.
II.2.3.2. Hàng ngày tập luyện thể dục thường xuyên để cho khí huyết lưu
thông, để cho các tế bào trong cơ thể trong trạng thái hoạt động tích cực,
không ở trạng thái trì trệ.
II.2.3.3. Phương pháp tập luyện thu không khí (năng lượng vũ trụ):
A- Cơ sở khoa học: DSTT cho rằng con người sống giữa đất và trời(âm và
dương); con người vốn sống hài hòa với đất trời (trạng thái cân bằng âm
dương, cân bằng năng lượng, cân bằng sinh thái) trong sự thống nhất làm
một; thiên -địa -nhân hòa quyện vào nhau là một; con người khỏe mạnh bình
thường. Nhưng rồi trong quá trình sống và lao động, vì các nguyên nhân
khách quan, chủ quan nào đó sự cân bằng này bị phá vỡ ở các mức độ khác
nhau. Từ đó gây nên các loại bệnh tật khác nhau ở mức độ khác nhau. Cơ
thể tích khí dương nhiều quá, gây ra các bệnh về dương (quá nóng), ngược
lại cơ thể tích khí âm nhiều quá, sẽ gây ra các bệnh về âm (quá lạnh). Phép
tập luyện thu hít năng lượng vũ trụ (âm, dương) là để điều hòa trở lại, trả lại
cho con người trạng thái cân bằng âm dương được hòa đồng, lục phủ ngũ
tạng được hòa đồng. Đó chính là cơ sở khoa học để phục hồi sức khỏe và
đẩy lùi bệnh tật trong con người. Vì vậy, khi đến với DSTT, mỗi người cần
tự biết xác định rõ ràng trạng thái năng lượng của cơ thể mình ra sao (quá

nóng hay quá lạnh), trên cơ sở đó lựa chọn động tác tập luyện cho phù hợp
với trạng thái năng lượng ấy của cơ thể mình (tính tương ứng trong tập
luyện) nawmg bổ sung phần năng lượng mình thiếu, điều chỉnh phần năng
lượng mình quá thừa, đưa mình về trạng thái cân bằng năng lượng(cân bằng
âm dương).
B- Ba động tác cơ bản trong sự phối hợp hài hòa vận động hai bàn tay, chân
và toàn thân, lấy việc hít thở năng lượng vũ trụ bằng miệng làm gốc.
B.1. Cách hít thở thu hít năng lượng bằng miệng như sau: Đầu lưỡi cong lên
chạm vào hàm ếch trên, hai hàm răng khép lại hít khí oxy vào từ từ qua
đường miệng (giống như ta hít phải thứ gia vị cay ta phát ra âm thanh "dít"
nhẹ) trong sự định tâm, dang rộng 2 cánh tay, tưởng tượng ra đang thu khí
oxy trong lành vào lồng ngực và khoang bụng đang căng ra ở mức độ tối đa.
Khí oxy lập tức lan tỏa nhanh thấm vào mọi tế bào trong toàn cơ thể. Ssu đó
miệng mở ra tự nhiên từ từ thở ra. Hai cánh tay thu lại, lồng ngực ép lại,
khoang bụng thót lại ta tưởng tượng từ mọi tế bào trong toàn thân ta các khí
độc, khí CO2 tích tụ từ lâu bị đẩy nhanh thoát ra khỏi cơ thể ta qua đường
miệng. Sự hít vào càng sâu bao nhiêu, sự thở ra càng lâu bao nhiều thì lượng
oxy hít vào và khí CO2 đẩy ra càng lớn bấy nhiêu. Sự trao đổi khí trong cơ
thể ta được tăng cường mạnh mẽ. Sự thở bằng miệng như thế làm đưa vào
và đẩy ra một lượng khí lớn hơn nhiều so với hút thở bằng mũi trong cùng
thời gian.
B.2. Hướng của khuôn mặt: Sự thở trong tập luyện DSTT diễn ra tương
đồng với hướng vận động của khuôn mặt.
1. Khi mặt ta cúi hướng xuống phía dưới mặt đất (hình 1) ta tưởng tượng sẽ
hít từ mặt đất, từ trong lòng Trái đất khí mát mẻ (năng lượng âm) bổ sung sự
thiếu hụt khí âm trong người ta - đấy là lúc ta đang bị các căn bệnh liên quan
đến sự tích tụ quá nhiều khí dương (nóng quá) trong cơ thể.
2. Ngược lại khi ta ngửa mặt hướng về phía bầu trời (hình 2) ta tưởng tượng
sẽ thu hít năng lượng dương (ánh dương, năng lượng nóng ấm của mặt trời)
để bổ sung sự thiếu hụt nó trong cơ thể ta - đó là khi ta đang bị các bệnh về

âm (do quá lạnh gây nên).
3. Khi mặt ta hướng ngang (hình 3) (vị trí quân bình, không ngửa không cúi)
ta thu hít năng lượng đất trời trong trạng thái cân bằng âm dương - trạng thái
cơ thể hòa đồng âm dương, Thiên-Địa-Nhân hòa đồng - ta khỏa mạnh.
4. Khi thu hít năng lượng sự hướng lẻn phía bầu trời hay mặt đất hoặc ngang
của khuôn mặt phải chăng còn liên quan tới một cơ sở khoa học khác nữa là"
"Mặt con người là sự phản chiếu các bộ phận của cơ thể (?)(trang 469 "Nền
văn hóa cổ thần bí Đông - Tây phương, kỳ diệu" trong cuốn "ALMANACH
những nền văn minh thế giới") nên phải chăng trên khuôn mặt con người đã
tập trung đầy đủ các đầu mối, các cơ quan trong cơ thể, tự nó thông qua từng
đầu mối ấy còn có thể tự thu nhận loại năng lượng (âm hoặc dương) mà các
bộ phận cơ quan nào đó đang thiếu hụt thông qua vị trí hướng mặt cúi xuống
mặt đất, hoặc ngửa lên bầu trời?
B.3. Hướng mặt của đôi bàn tay: đồng thời với sự hít thu năng lượng vũ trụ
qua miệng và theo hướng mặt nêu trên, là sự kết hợp hài hòa với sự vận
động toàn cơ thể - ở đây DSTT đặc biệt chú trọng đến hướng mặt của đôi
bàn tay.
1. Khi bàn tay ta úp xuống theo hướng mặt đất (hình 1) ứng với khuôn mặt
cúi xuống đất, là lúc cơ thể thu năng lượng mát mẻ của trái đất, khi cơ thể ta
đang bị các bệnh liên quan đến sự thừa năng lượng dương (quá nóng).
2. Khi 2 bàn tay ngửa lên trời (hình 2) ta cần thu nhận năng lượng nóng ấm
của mặt trời (ánh dương) vào đôi bàn tay ta, bổ sung vào sự thiếu hụt loại
năng lượng (duong) này của cơ thể - là lúc ta bị các bệnh do lạnh gây nên.
Khi ta vận động tập luyện trong tư thế một bàn tay sấp, bàn tay còn lại ngửa
(hình 3), ta trong trạng thái quân bình âm - dương, sẽ thu năng lượng âm -
dương đồng thời - là lúc cơ thể ta đang khỏe mạnh.
Cần đặc biệt lưu ý là: ba tư thế: hướng lên, hướng xuống và hướng ngang
của khuôn mặt và lòng bàn tay không phải cố định trong mọi lúc mà luôn
luôn thay đổi tùy trạng thái cơ thể của người tập. Điều này chính xác đến
đâu? câu trả lời vẫn còn ở phía trước và đòi hỏi sự trải nghiệm của mỗi

người tập.
B.4. Chân tiếp đất: cuối cùng là đôi bàn chân tiếp đất trong trạng thái tự
nhiên (chân để trần không đi dép, guốc), tùy vào trạng thái sức khỏe của
người tập.
Tại sao DSTT lại chú ý đến vị trí úp, ngửa của bàn tay như vậy? Và tại sao
đôi bàn chân phải tiếp đất? Có thể xem (ví) đôi bàn tay, đôi bàn chân khuôn
mặt con người như những parabon thu và phát sóng năng lượng được
không? Và cùng với sự thở bằng miệng (?) câu trả lời vẫn đang còn bỏ
ngỏ.Tuy vậy cũng có thể tham khảo một luận chứng sau đây: "Bàn chân
phản chiếu phủ tạng và các vùng của cơ thể" (trang 473) và "bàn tay và các
ngón tay phản chiếu phủ tạng và các cơ quan khác" (trang 484) trong
"Những nền văn hóa cổ thần bí Đông - Tây phương kỳ diệu" (ALMANACH
những nền văn minh thế giới) - Nhà xuất bản Văn hóa - Thong tin, Hà Nội,
1997.
II.2.3.4. Uống nước khi tập: trong và sau khi kết thúc buổi tập, ta uống nước
sôi để nguội (hoặc nóng tùy thời tiết) với lượng ít nhiều tùy nhu cầu cơ thể,
tùy quá trình tập nhanh hay lâu, vận động và hít thở thu năng lượng ít hay
nhiều. Cơ sở khoa học cũng còn cần bàn thêm. Tuy nhiên, cũng có thể hiểu
theo cách hạn hẹp thuần túy sinh học rằng khi ta vận động cơ bắp trong quá
trình tập luyện và thu hít không khí (năng lượng vũ trụ) bằng miệng, các tế
bào của tất cả các cơ quan trong cơ thể ta được đánh thức, chuyển từ trạng
thái nghỉ nằm yên (trì trệ) sang trạng thái hoạt động tích cực; các quá trình
trao đổi chất, trao đổi khí huyết trong cơ thể xảy ra mạnh mẽ, trong đó
không chỉ nguồn năng lượng ta thu vào được sử dụng, nước là một yếu tố rất
quan trọng trong hoạt động sống của mọi cơ thể sinh vật cũng được huy
động mạnh mẽ để sử dụng trong quá trình trao đổi chất, nên đương nhiên sẽ
bị hao hụt đi. Uống vào sau khi tập để bù đắp lại sự thiếu hụt đó, trả lại cho
cơ thể trạng thái cân bằng nước, chẳng lẽ khong phải là hợp lý, là cần thiết,
là hoàn toàn có cơ sở khoa học hay sao? Sao 30 phút tập, mồ hôi ta đổ ra,
người ta nhẹ nhõm, nhưng thấy khát, ta uống nước vào sẽ cảm thấy người

sảng khoái hơn, và bất cứ ai cũng cảm nhận được điều này.
II.2.3.5. Thực hành DSTT
- Khi bị đau nhức, rát buốt chỗ nào, ta định tâm lại tập trung tư tưởng, chà
xát hai bàn tay vào nhau, nghĩ trong tâm là ta đang huy động năng lượng đã
được tích lũy trong cơ thể trong quá trình tập luyện ra lòng bàn tay, làm
nóng lòng bàn tay, rồi đập, vỗ, xoa, chà xát, hoặc vuốt lòng bàn tay nóng đó
vào chỗ đau nhức, rát buốt tùy theo chỗ đó cứng hay mềm, đau ít hay đau
nhiều (việc này có thể làm ngay sau khi tập luyện, trước khi uống nước,
hoặc bất cứ lúc nào thấy cần).
- Trường hợp cơ thể đang bệnh, khả năng tự tích lũy năng lượng vũ trụ còn
chưa cao, khả năng tựu đẩy các chất độc từ cơ thể ra ngoài theo mồi hôi và
đường hô hấp qua tập luyện còn thấp, thì có thể dùng các tác nhân hỗ trợ bên
ngoài có nguồn gốc tự nhiên như gừng, tỏi, cồn theo sự chỉ dẫn cẩn thận của
HDV (việc làm này có thể trước và sau khi tập tùy điều kiện và chỉ nên
trong thời gian đầu tập luyện DSTT).
- Hàng ngày, trước khi nằm ngủ và trở dậy ta đều xoa vuốt nhẹ toàn thân, ta
nghĩ ta đã làm được gì và sẽ phải làm gì cho đúng với Tâm, Thân, Khẩu.
Đây cũng chính là nội dung không thể thiếu được của thực hành DSTT (thực
hành).
Làm được những điều trên là phép bảo vệ và rèn luyện Tâm, THân tốt.
Lưu ý:
1. Nếu là HDV mà Thân, Tâm, Khẩu sai không sửa sẽ không thể làm HDV
được nữa.
2. Nếu là học viên, nếu Tâm, Khẩu sai thì Thân lại có bệnh trở lại.
3. Khi khỏi bệnh rồi ta nên cố gắng tạo mọi điều kiện có thể giúp mọi người
xung quanh (người thân trong gia đình, bạn bè, hàng xóm) cùng hiểu biết tập
luyện để khỏe mạnh, hết bệnh tật. Ta sẽ thấy vui hơn, yêu đời, yêu người
hơn và ta lại càng khỏe hơn. Tính nhân văn của tập luyện DSTT chính là ở
chỗ này, cũng chính từ đây DSTT mang tính cộng đồng rõ nét và là điểm
khác biệt rất đặc thù của DSTT so với các loại hình hoạt động khác - là thế

mạnh chỉ của riêng DSTT: người khỏi bệnh có Tâm và thường yêu con
người sẽ nhanh chóng trở thành HDV DSTT.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×