Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

tấm gương vượt khó học giỏi trong cuộc sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.6 KB, 3 trang )

Ngày xưa, quan niệm về sự an bài của số phận khá phổ biến trong xã hội. Dân
gian cho rằng số phận mỗi người đều do “thiên định”. Giàu sang hay nghèo đói,
thành công hay thất bại… không phải do cá nhân quyết định. Thuyết “thiên
mệnh” ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của mọi người, cho
nên trong Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du sau khi kể chuyện về cuộc đời đầy
sóng gió của Thúy Kiều, cũng đã phải kết luận bằng những câu thơ chua xót và
cam chịu:

Cho hay muôn sự tại trời!
Trời kia đã bắt làm người có nhân.
Bắt phong trần phải phong trần.
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Tuy nhiên, bên cạnh quan điểm tiêu cực đó vẫn có những quan niệm tích cực,
lành mạnh, phản ánh sức sống tiềm tàng của nhân dân lao động như: Đức năng
thắng số, Có chí thì nên… Thực tế cho thấy không ít người bằng ý chí và nghị
lực phi thường đã chiến thắng số phận bất hạnh, trở thành gương sáng phấn đấu
cho mọi người học tập.
Người thầy giáo đầu tiên ở Việt Nam soạn bài, chấm bài, viết văn bằng chân, đó
là thầy Nguyễn Ngọc Kí, một tấm gương nghị lực phi thường về ý chí mạnh mẽ
vượt lên số phận bất hạnh để trở thành một Nhà giáo ưu tú.

Vào thập kỉ 60, 70 của thế kỉ XX, Nguyễn Ngọc Kí đã trở thành cái tên nổi
tiếng ở miền Bắc. Gương sáng Nguyễn Ngọc Kí được đưa vào sách giáo khoa
để dạy đạo đức cho học sinh. Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, bản
thân lại bị liệt cả hai tay sau một cơn sốt kéo dài từ lúc còn nhỏ tuổi, Nguyễn
Ngọc Kí rơi vào hoàn cảnh thật đáng thương. Ngày ngày, thấy bạn bè cùng lứa
tuổi tung tăng cắp sách tới trường, Kí thèm lắm. Thấy con ham học, năm Kí lên
sáu tuổi, bố mẹ dẫn cậu đến trường. Cô giáo thương Kí lắm nhưng đành lắc đầu.
Không được học ở trường, Kí tự học ở nhà. Niềm khao khát được biết chữ đã
khiến Nguyễn Ngọc Kí nghĩ ra nhiều cách để tập viết. Thoạt đầu, cậu viết bằng
miệng, nhưng không thành công. Một lần tình cờ nhìn thấy đàn gà bới đất bằng


chân, Nguyễn Ngọc Kí lóe lên ý nghĩ là có thể dùng chân để viết. Sau đó,
Nguyễn Ngọc Kí đã kiên trì tập viết bằng chân.

Cô giáo đến thăm, mang cho Kí vài viên phấn. Thấy Kí quyết tâm, cô vui lòng
nhận Kí vào lớp. Từ đó, manh chiếu gắn liền với đời học sinh của Kí. Kết quả,
Nguyễn Ngọc Kí không những viết thành thạo mà còn viết rất đẹp và trở thành
học sinh giỏi trong nhiều năm liền, hai lần được Bác Hồ tặng huy hiệu. Hết cấp
1, cấp 2, cấp 3, năm 1966, Nguyễn Ngọc Kí được tuyển thẳng vào khoa Văn
trường Đại học Tổng hợp. Tốt nghiệp, Nguyễn Ngọc Kí về làng làm giáo viên
với nhiều sáng tạo đặc biệt. Không thể dùng phấn để viết bảng nên thầy Kí
chuẩn bị nhiều câu hỏi, câu đố xung quanh ý nghĩa bài giảng; viết những ý
chính và đặc điểm nổi bật của tác phẩm vào tấm bìa lớn rồi dùng chân kéo sợi
dây buộc vào ròng rọc để giới thiệu bài giảng. Năm 1983, thầy đoạt giải nhất
cuộc thi giáo viên giỏi Văn của tỉnh Nam Định. Từ năm 1993 đến nay, thầy
tham gia giảng dạy tại Trường bồi dưỡng Giáo dục quận Gò Vấp, thành phố Hồ
Chí Minh.

Lúc còn ít tuổi, Nguyễn Ngọc Kí hai lần vinh dự được Bác Hồ tặng thưởng Huy
hiệu của Người và gần đây, thầy đã được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú
vì những đóng góp đáng kể cho ngành Giáo dục.

Rõ ràng, từ một cậu bé bất hạnh, Nguyễn Ngọc Kí đã không ngừng phấn đấu
vươn lên để trở thành người hữu ích. Học tập gương sáng của Nguyễn Ngọc Kí,
Hoa Xuân Tứ cụt cả hai tay, đã buộc bút vào vai viết chữ.

Đỗ Trọng Khơi bị bại liệt nhưng vẫn quyết tâm trở thành nhà thơ. Anh Trần Văn
Thước sau khi bị tai nạn lao động, liệt toàn thân vẫn không ngừng tự học để trở
thành nhà văn…

Trong những năm gần đây, nhiều tấm gương vượt lên số phận đã được giới

thiệu rộng rãi trên báo chí, trên truyền hình khiến nhiều người xúc động và
khâm phục. Anh Trường Sơn, nạn nhân của chất độc màu da cam có thân hình
dị dạng, chỉ cao không đầy một mét vẫn trở thành sinh viên của hai trường cao
đẳng và đại học. Bạn Trần Thị Thương, một nạn nhân chất độc màu da cam có
chiều cao 50cm, ngày ngày phải nhờ mẹ hoặc bạn bế đi học, vậy mà vẫn học rất
giỏi và nung nấu ước mơ trở thành một chuyên gia vi tính. Chị Hướng Dương bị
tai nạn giao thông, phải cưa cụt cả hai chân nhưng không gục ngã trước số phận
rủi ro mà vẫn sống rất lạc quan, đem niềm vui đến cho những trẻ em khiếm thị
bằng thư viện sách nói do chị sáng lập ra. Chị Trịnh Tiểu Hương từ một đứa trẻ
bụi đời không biết cha mẹ là ai, suốt tuổi thơ và tuổi thiếu nữ phải sống lay lắt
nơi gầm cầu, hè phố, trôi dạt từ Nam ra Bắc, từ Bắc vào Nam, hết lên rừng lại
xuống biển để kiếm sống qua ngày… Thấm thía nỗi khổ của trẻ em mồ côi, giờ
đây, với trái tim đầy tình nhân ái, chị đã đem hết tâm nguyện của mình mở một
cơ sở nuôi dạy hàng trăm trẻ em lang thang cơ nhỡ. Bằng tình thương và trách
nhiệm của một người mẹ, chị lo cho các em được ăn mặc đầy đủ, được học chữ,
học nghề. Các em yêu quý và kính trọng gọi chị là “mẹ Hương”. Chị coi đó là
phần thưởng, là nguồn hạnh phúc lớn lao của đời mình. Mái ấm tình thương của
chị giờ đây đã trở nên nổi tiếng, được nhiều tổ chức từ thiện trong và ngoài
nước quan tâm giúp đỡ.

Xung quanh chúng ta còn rất nhiều, rất nhiều những tấm gương như thế. Chúng
ta có thể học được những bài học thiết thực và bổ ích về ý chí, nghị lực, về khát
vọng vươn lên mãnh liệt để chiến thắng số phận nghiệt ngã, chiến thắng hoàn
cảnh khó khăn, khẳng định giá trị của bản thân trong xã hội. Đồng thời, những
gương phấn đấu kiên cường, bền bỉ nhắc nhở chúng ta hãy suy ngẫm, soi chiếu
lại mình và tự đặt ra câu hỏi: Mình đã sống ra sao? Đã làm gì có ích cho gia
đình, cho mọi người? Những gương sáng ấy chứng minh hùng hồn cho câu nói
nổi tiếng của nhà văn, nhà giáo Nguyễn Bá Học: Đường đi không khó vì ngăn
sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi, e sông.


×