Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Bồi dưỡng học sinh giỏi vật lý thông qua dạy học bài tập Dòng điện không đổi lớp 11 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 120 trang )


1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
===***===
TRẦN THỊ TUYẾT HẠNH
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VẬT LÝ
THÔNG QUA DẠY HỌC BÀI TẬP
CHƯƠNG “DÒNG ĐIỆN KHÔNG ĐỔI” LỚP11
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Chuyên ngành : LL và PPDH BỘ MÔN VẬT LÝ
Mã số : 60 14 01 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


Cán bộ hướng dẫn: TS. NGUYỄN THỊ NHỊ
NGHỆ AN, 2013

LỜI CJM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo hướng dẫn
TS.Nguyễn Thị Nhị đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong thời gian
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn giảng viên khoa Sau đại học, khoa Vật lý, bộ môn
phương pháp giảng dạy khoa Vật lý, Trường Đại học Vinh, phòng Sau đại học trường
Đại học Vinh đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên
cứu.
Xin thành thật cảm ơn sự nhiệt tình của Ban Giám Hiệu và các thầy cô bộ môn
Vật lý của trường THPT Tân Kỳ I đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian tiến
hành thực nghiệm sư phạm của luận văn.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã động
viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.


Vì điều kiện thời gian có hạn cũng như năng lực bản thân vẫn còn hạn chế nên
luận văn khó tránh khỏi sai sót. Tôi rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý
báu từ phía thầy cô và bạn đọc.
Tác giả
Trần Thị Tuyết Hạnh
2

BJNG VIẾT TẮT
Viết tắt Cụm từ
BTVL Bài tập vật lý
BT Bài tập
GD Giáo dục
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
HS Học sinh
HSG Học sinh giỏi
KT Kiến thức
KN Kỹ năng
NXB Nhà xuất bản
GV Giáo viên
SGK Sách giáo khoa
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
VL Vật lý
TN Thực nghiệm
3

MỤC LỤC
30
Së GD&§T NGhÖ an 30
Kú thi chän häc sinh giái tØnh líp 12 n¨m häc 2009 - 2010 30

M«n thi: VẬT LÍ THPT - BẢNG A 30
4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước chúng ta vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghệ hóa - hiện đại hóa.
Mỗi nghề đều có bước thay đổi đáng kể, GD cũng có những bước đổi mới mạnh mẽ về
mọi mặt nhằm đào tạo ra những con người có đủ kiến thức, năng lực sáng tạo, trí tuệ,
phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng được yêu cầu của công nghệ và nền kinh tế trí thức.
Mục tiêu chung của nền giáo dục quốc dân Việt Nam là: Nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Bồi dưỡng nhân tài thuộc loại hình dạy học chuyên
biệt trong nhà trường. Hơn 40 năm qua (từ 1966) bồi dưỡng nhân tài được thực hiện
trong các trường năng khiếu, trường chuyên lớp chọn .
Hàng năm Bộ GD & ĐT đã chỉ đạo toàn ngành hiện thực hóa mục tiêu này: Đẩy
mạnh công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng khiếu nhằm tạo tiền đề cho
công tác bồi dưỡng nhân tài… đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước ở mỗi tỉnh,
thành phố.
Trong chương trình VL cấp THPT lượng kiến thức được đưa ra khá nhiều nhưng
chỉ dừng lại ở mức độ thông hiểu là chính, công tác bồi dưỡng HSG là công tác giáo
dục có tính mũi nhọn đào tạo chất lượng cao của mọi cấp GD.
Thực tế cho thấy việc bồi dưỡng HSG thường chú trọng ở một số điểm:
- Phát hiện và lựa chọn nhân tố
- Tìm phương pháp bồi dưỡng phù hợp và hiệu quả
Phát hiện và chọn nhân tố thường được tiến hành ngay từ lớp 10, 11 nhờ đó
người GV có thể lập một kế hoạch và chiến lược có tính lâu dài cho việc bồi dưỡng
HSG, đồng thời tạo cho các em sự định hướng và hứng thú đối với môn VL.
Bên cạnh việc phát hiện và chọn nhân tố, việc tìm phương pháp bồi dưỡng có
tính quyết định đối với chất lượng đội tuyển. Trong đó hoạt động giải BTVL là một
trong những cách làm hiệu quả nhất.
Qua hệ thống BT hợp lý, bước đầu người thầy có thể phát hiện được HS có năng

khiếu VL, từ đó có các bước bồi dưỡng thích hợp.
Nhằm đáp ứng được yêu cầu thành lập đội tuyển HSG môn VL ngay từ đầu năm
học lớp 11, chương “ Dòng điện không đổi” rất quan trọng vì: các bài toán dòng điện
không đổi là nền tảng để khảo sát các hiện tượng điện, hiện tượng từ, cảm ứng điện từ
1

và dòng điện xoay chiều sau này. Do đó, đề tài dòng điện không đổi cần được giáo
viên đặc biệt quan tâm và khai thác tối đa để có một hệ thống BT từ dễ đến khó. Qua
đó tạo được sự hứng thú học tập môn VL cho HS, bước đầu phát hiện những HS có
năng khiếu về môn VL. Từ đó có kế hoạch bồi dưỡng để các em tiếp tục phát triển và
trở thành những HS giỏi của bộ môn.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài luận văn thạc sỹ là: "Bồi dưỡng học sinh giỏi
vật lý thông qua dạy học bài tập chương “Dòng điện không đổi” lớp 11THPT.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng hệ thống bài tập chương “ Dòng điện không đổi” để bồi dưỡng HSG
Vật lý THPT nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng, phát triển tư duy và bồi dưỡng niềm
yêu thích Vật lý cho học sinh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Việc phát hiện học sinh giỏi vật lý
- Dạy học BTVL ở trường THPT.
Phạm vi nghiên cứu:
Chương “ Dòng điện không đổi”, Vật lý 11 THPT.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được hệ thống bài tập đa dạng có nội dung giáo khoa, nội dung
thực tế, nội dung kỹ thuật và sử dụng hợp lý cho bồi dưỡng HSG thì sẽ nâng cao được
kiến thức, kỹ năng, bồi dưỡng tư duy và niềm yêu thích Vật lý học cho học sinh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận BT trong dạy hoc VL nói chung và công tác bồi
dưỡng HSG, học sinh năng khiếu nói riêng.
5.2 Tìm hiểu thực trạng bồi dưỡng HSG các cấp ở nước ta và tỉnh Nghệ An và

một số trường THPT trên địa bàn: Tài liệu bồi dưỡng, đề thi HSG các cấp, thực trạng
dạy và học…
5.3 Nghiên cứu nội dung dạy học chương “Dòng điện không đổi” vật lý lớp 11 THPT.
5.4 Xây dựng hệ thống bài tập luyện tập và BTST chương “ Dòng điện không
đổi” lớp 11 dùng cho bồi dưỡng HSG.
5.5 Xây dựng các phương án giảng dạy hệ thống bài tập đã xây dựng để bồi
dưỡng HSG Vật lý 11.
5.6 Thực nghiệm sư phạm.
2

6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp quan sát – điều tra
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Phương pháp thống kê toán học dùng để xử lí số liệu
7. Đóng góp của luận văn
- Xây dựng được hệ thống 26 bài tập luyện tập và sáng tạo đa dạng có nội dung
giáo khoa, có kiến thức mở rộng, nội dung thực tế, có câu hỏi định hướng tư duy để
bồi dưỡng HSG lớp 11.
- Đề xuất 4 phương án sử dụng hệ thống bài tập đã xây dựng để bồi dưỡng HSG:
Bài học luyện tập giải bài tập trên lớp, bài tập ở nhà, giải bài tập theo nhóm, đề thi
tuyển chọn HSG các cấp.
- Thiết kế 8 giáo án dạy học bài tập đã xây dựng để bồi dưỡng HSG theo hướng
vừa nâng cao kiến thức vừa phát triển tư duy và bồi dưỡng niềm yêu thích Vật lý cho
học sinh.
8. Cấu trúc và khối lượng của luận văn
+ Mở đầu
+ Nội dung: 3 chương
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng bài tập bồi dưỡng học sinh
giỏi Vật lý ở trường phổ thông.

Chương 2. Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập chương “ Dòng điện không
đổi” dùng cho bồi dưỡng học sinh giỏi Vật lý lớp 11 THPT.
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.
+ Kết luận chung

3

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG HỆ THỐNG
BÀI TẬP BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VẬT LÝ TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. Bài tập vật lý ở trường phổ thông
11.1.Khái niệm về bài tập vật lý
BTVL được hiểu là một vấn đề được đặt ra đòi hỏi phải giải quyết nhờ những
suy luận logic, những phép toán và những thí nghiệm dựa trên cơ sở các định luật và
phương pháp vật lý. Hiểu theo nghĩa rộng thì mỗi vấn đề xuát hiện do nghiên cứu tài
liệu giáo khoa cũng chính là một bài tập đối với học sinh, sự tư duy định hướng một
cách tích cực luôn là việc giải bài tập vật lý[19]
1.1.2. Vai trò của bài tập vật lý trong dạy học
BTVL có vai trò vô cùng quan trọng, chúng được sử dụng trong DHVL với
những mục đích khác nhau:
1.1.2.1. Phương diện lý luận nhận thức
*. BTVL là một phương tiện rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo vận dụng lý thuyết vào
thực tiễn, rèn luyện thói quen vận dụng kiến thức khái quát.
Có thể xây dựng rất nhiều bài tập có nội dung thực tiễn. Khi giải các bài tập
đó không chỉ làm cho học sinh năm vững hơn các kiến thức đã học, mà còn tập
cho HS quen với việc liên hệ lý thuyết với thực tế vận dụng kiến thức đã học giải
quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống như giải thích các hiện tượng cụ thể
của thực tiễn, dự đoán các hiện tượng có thể xẩy ra trong thực tiễn ở những điều
kiện cho trước.
*. BTVL là một phương tiện (công cụ) có tầm quan trọng đặc biệt trong việc rèn

luyện tư duy, bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học cho học sinh.
Giải bài tập vật lý là hình thức làm việc tự lực căn bản của HS. Trong khi giải bài
tập HS phải phân tích các điều kiện của đề bài, tự xây dựng những lập luận, phải huy
động các thao tác tư duy để xây dựng những lập luận, thực hiện việc tính toán, có khi
phải tiến hành thí nghiệm, thực hiện các phép đo, xác định sự phụ thuộc hàm số giữa
các đại lượng, kiểm tra các kết luận của mình.Trong những điều kiện đó tư duy sáng
tạo của HS được nâng cao.
4

*. Thông qua giải BTVL có thể rèn luyện cho HS những đức tính tốt và tác phong
làm việc khoa học: như tính tự lực cao, tính kiên trì vượt khó, tính cẩn thận, tính hợp
tác, tính khiêm tốn học hỏi, v.v
1.1.2.2. phương diện dạy học
*. BTVL có thể được sử dụng như là phương tiện nghiên cứu tài liệu mới:
- Bài tập tạo ra tình huống có vấn đề để bước vào dạy bài học mới
- Bài tập có thể là điểm khởi đầu dẫn dắt đến kiến thức mới
*. BTVL là một phương tiện củng cố, ôn tập kiến thức một cách sinh động có hiệu
quả. Khi giải các bài tập đòi hỏi HS phải ghi nhớ lại các công thức, định luật, kiến thức đã
học, có khi đòi hỏi phải vận dụng một cách tổng hợp các kiến thức đã học trong cả một
chương, một phần, hoặc giữa các phần nhờ đó HS đã hiểu rõ hơn, ghi nhớ vững chắc các
kiến thức đã học.
*. BTVL là phương tiện để kiểm tra đánh giá kiến thức kỹ năng của học sinh một
cách chính xác.
Tóm lại: BTVL là phương tiện có vai trò và chức năng để thực hiện các mục đích
nêu trên. Ta có thể sử dụng BTVL cho bất cứ giai đoạn nào của quá trình dạy học.
Mục đích cơ bản đặt ra khi giải bài tập vật lý là làm sao cho HS hiểu sâu sắc hơn các
quy luật vật lý, biết phân tích và vận dụng chúng vào những vấn đề thực tiễn, vào kỹ
thuật và cuối cùng phát triển được năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề. Giải
BTVL có giá trị rất lớn về mặt phát triển tính tích cực , tự học của HS. Qua hoạt động
giải bài tập giáo dục cho HS ý chí, tinh thần vượt khó, rèn luyện phong cách nghiên

cứu khoa học, yêu thích môn học vật lý.
1.1.3. Phân loại BTVL
Có nhiều cách phân loại BTVL nếu dựa vào các phương tiện giải có thể chia bài tập
thành: BT định tính,BT tính toán, BT thí nghiệm, BT đồ thị. Nếu dựa vào mức độ khó khăn
của BT đối với học sinh, có thể chia BTVL thành: BT dượt, BT tổng hợp, BT sáng tạo.
Hoặc có thể phân loại theo nội dung vấn đề ví dụ: cơ học, điện học, quang học, vật lý hạt
nhân, trong cơ học được phân thành động học, động lực học, tĩnh học, trong động học lại
được phân thành động học chất điểm, động học vật rắn, động học cơ hệ…[18].
1.1.3.1 Phân loại theo nội dung:
- Các bài tập được sắp xếp theo các đề tài của tài liệu vật lý. Người ta phân biệt
các bài tập về cơ học, vật lý phân tử, về điện học, Sự phân chia như vậy có tính chất
5

quy ước. Bởi vì kiến thức sử dụng trong giả thiết của bài tập thường không lấy từ một
chương, một phần mà có thể tích hợp nhiều kiến thức các phần khác nhau của giáo
trình vật lý.
- Người ta còn phân biệt các bài tập nội dung trừu tượng, bài tập nội dung cụ thể.
- Các BT mà nội dung chứa đựng những thông tin về kỹ thuật, về sản xuất công
nông nghiệp, về giao thông,…được gọi là BT có nội dung kỹ thuật tổng hợp.
- BT có nội dung lịch sử, đó là những bài tập chứa đựng những kiến thức có nội
dung lịch sử: những dữ liệu và những thí nghiệm vật lý cổ điển, về những phát minh,
sáng chế hoặc những câu chuyện có tính chất lịch sử.
- BTVL vui cũng được sử dụng rộng.nét nổi bật trong loại BT này là sử dụng
những sự kiện, hiện tượng kỳ lạ hoặc vui. Việc giải các loại BT này sẽ làm cho tiết học
sinh động, nâng cao được hứng thú học tập của HS. Trong các cuốn sách của IA.PÊ-
REN-MAN “vật lý vui”, NXB giáo dục, có rất nhiều bài tập như vậy.
1.1.3.2 Phân loại theo phương thức giải [19]
a. Bài tập định tính:
- Bài tập định tính là những bài tập mà khi giải HS không cần thực hiện các phép
tính phức tạp mà chỉ làm những phép tính đơn giản, có thể tính nhẩm được. Muốn giải

bài tập định tính, HS phải thực hiện những phép suy luận logic, do đó phải hiểu rõ bản
chất của khái niệm, định luật vật lý, nhận biết được những biểu hiện của chúng trong
từng trường hợp cụ thể. Đa số BT định tính yêu cầu HS giải thích hoặc dự đoán một
hiện tượng xẩy ra trong những điều kiện cụ thể.
- Bài tập định tính làm tăng sự hứng thú của học sinh đối với môn học, tạo điều
kiện phát triển óc quan sát của HS, là phương tiện rất tốt để phát triển tư duy của HS,
và dạy cho HS biết áp dụng kiến thức vào thực tiễn.
b. Bài tập định lượng.
- BT định lượng là loại BT mà khi giải HS phải thực hiện một loạt các phép tính
để xây dựng mối liên hệ phụ thuộc về lượng giữa các đại lượng và kết quả thu được là
một đáp án định lượng. Có thể chia BT định lượng làm 2 loại BT tính toán tập dượt và
BT tính toán tổng hợp:
* BT tính toán tập dượt: là loại BT tính toán đơn giản, trong đó chỉ đề cập đến
một hiện tượng, một định luật và sử dụng một vài phép tính đơn giản nhằm củng cố
6

kiến thức cơ bản vừa học, làm HS hiểu rõ ý nghĩa của các định luật và các công thức
biểu diễn chúng.
* BT tính toán tổng hợp: là loại BT mà khi giải thì phải vận dụng nhiều khái
niệm, định luật, nhiều công thức. Loại BT này có tác dụng đặc biệt giúp HS đào sâu,
mở rộng kiến thức, thấy rõ những mối liên hệ khác nhau giữa các phần của chương
trình vật lý. Ngoài ra BT tính toán tổng hợp cũng nhằm mục đích làm sáng tỏ nội dung
vật lý của các định luật, quy tắc biểu hiện dưới các công thức. Vì vậy, giáo viên cần
lưu ý HS chú ý đến ý nghĩa vật lý của chúng trước khi đi vào thực hiện phép tính toán.
c. Bài tập thí nghiệm:
- BT thí nghiệm là BT đòi hỏi phải làm thí nghiệm để kiểm chứng lời giải lý
thuyết hoặc để tìm những số liệu cần thiết cho việc giải BT. Nhũng thí nghiệm này
thường là những thí nghiệm đơn giản. BT thí nghiệm cũng có thể có dạng định tính
hoặc định lượng.
- BT thí nghiệm có nhiều tác dụng về cả 3 mặt giáo dưỡng, giáo dục và giáo dục

kỹ thuật tổng hợp, đặc biệt giúp làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.(lưu
ý: trong các BT thí nghiệm thì thí nghiệm chỉ cho các số liệu để giải BT, chứ không
cho biết được tại sao hiện tượng lại xẩy ra như thế. Cho nên phần vận dụng các định
luật vật lý để giải các hiện tượng mới là nội dung chính của BT thí nghiệm)
d. Bài tập đồ thị:
- BT đồ thị là BT trong đó các số liệu được dùng làm dữ kiện để giải phải tìm
trong các đồ thị cho trước hoặc ngược lại, đòi hỏi HS phải biểu diễn quá trình diễn
bién của hiện tượng nêu trong BT bằng đồ thị.
- BT đồ thị có tác dụng rèn luyện kỹ năng đọc, vẽ đồ thị, và mối quan hệ hàm số
giữa các đại lượng mô tả trong đồ thị.
e. Bài tập nghich lí và ngụy biện.
- Các bài toán nghịch lí và ngụy biện về vật lý là những bài toán loại đặc biệt mà
phương pháp giải chung nhất là phân tích và tìm ra nguyên nhân của sự hiểu sai các
khái niệm, định luật và lý thuyết vật lý.
1.1.3.3 Phân loại theo mức độ nhận thức
Ta có thể chia BT vật lý làm 2 loại: BT luyện tập (ôn tập kiến thức, rèn luyện các
kỹ năng) và loại BT về sáng tạo về vật lý.
7

Nhìn từ góc độ lý luận và phương pháp dạy học thì việc phân loại BT vật lý còn
nhiều quan điểm khác nhau, như cách phân loại ở trên cũng chỉ có tính tương đối.
1.1.3.4 Phân loại theo yêu cầu rèn luyện kỹ năng, phát triển tư duy HS
Có thể phân loại BT luyện tập, BT sáng tạo, BT nghiên cứu, BT thiết kế.
- BT luyện tập: là loại BT mà việc giải chúng không đòi hỏi tư duy sáng tạo của
HS, chủ yếu chỉ yêu cầu HS nắm vững cách giải đối với 1 lại BT nhất định đã được
chỉ dẫn.
- BT sáng tạo: Trong loại BT này, ngoài việc vận dụng một số kiến thức đã học,
HS bắt buộc phải có những ý kiến độc lập, mới mẻ không thể suy ra một cách logic từ
những kiến thức đã học.
- BT nghiên cứu: là dạng BT trả lời những câu hỏi “tại sao”.

- BT thiết kế: dạng BT trả lời những câu hỏi “phải làm như thế nào”
1.1.3.5 Phân loại theo hình thức làm bài
a. BT trắc nghiệm tự luận: là loại BT yêu cầu HS giải thích, tính toán và hoàn
thành theo một logic cụ thể. Nó bao gồm những loại BT đã trình bày ở trên.
b. BT trắc nghiệm khách quan:
Là loại BT cho câu hỏi và đáp án. Các đáp án có thể đúng, gần đúng hoặc sai.
Nhiệm vụ của HS là tìm ra câu trả lời đúng nhất, cũng có khi là những câu bỏ lửng yêu
cầu điền và những chỗ trống để có câu trả lời đúng. BT loại này gồm:
+ Câu đúng-sai: câu hỏi là một phát biểu, câu trả lời là một trong hai lựa chọn
đúng hoặc sai.
+ Câu nhiều lựa chọn: Một câu hỏi, nhiều phương án lựa chọn, yêu cầu HS tìm
câu trả lời đúng nhất.
+ Câu điền khuyết: nội dung trong câu bị bỏ lửng, yêu cầu HS điền từ ngữ hoặc
công thức đúng vào chỗ bị bỏ trống.
+ Câu ghép hình thức: nội dung các câu được chia thành 2 phần phù hợp để ghép
thành câu đúng.
1.1.4. Các bước giải bài tập vật lý
Các BTVL có nội dung rất phong phú, đa dạng. Vì vậy phương pháp giải chúng
cũng rất muôn hình muôn vẻ. Không thể nói về một phương pháp chung, vạn năng có
thể áp dụng để giải mọi bài tập. Tuy nhiên, từ sự phân tích tư duy trong quá trình giải
BTVL ta có thể chỉ ra những nét khái quát về các bước chung của tiến trình giải
8

BTVL. Điều này có tác dụng định hướng đúng đắn các bước giải BTVL. Theo các
bước chung của tiến trình giải BTVL, giáo viên có thể kiểm tra hoạt động giải bài tập
của HS và cs thể hướng dẫn giúp đỡ HS giải bài tập có hiệu quả. Nói chung tiến trình
giải bài tập trải qua 4 bước: Tìm hiểu đề bài; xác lập mối liên hệ của các dữ kiện xuất
phát với cái phải tìm; rút ra kết quả cần tìm; kiểm tra xác nhận kết quả [19]
Dưới đây nêu các hoạt động chính trong từng bước nói trên.
Bước thứ 1: Tìm hiểu đề bài

- Đọc, ghi ngắn gọn các dữ kiện xuất phát và các cái phải tìm
- Mô tả lại tình huống được nêu trong bài tập, vẽ hình minh họa. Nếu đề bài yêu
cầu thì phải làm thí nghiệm hoặc vẽ đồ thị để thu được dữ kiện (trong trường hợp bài
tập thí nghiệm hoặc bài tập đồ thị)
Bước thứ 2: Xác lập mối liên hệ của các dữ kiện xuất phát với cái phải tìm.
- Đối chiếu các dữ kiện xuất phát và cái phải tìm, xem xét bản chất vật lý của tình
huống đã cho để nhận ra các định luật, công thức lý thuyết có liên quan.
- Xác lập các mối liên hệ cụ thể của các dữ kiện xuất phát và của cái phải tìm.
- Lựa chọn các mối liên hệ cơ bản, cho thấy sự liên hệ của cái phải tìm với các dữ
kiện xuất phát và từ đó có thể rút ra cái phải tìm.
Bước thứ 3: Rút ra kết quả cần tìm.
Từ các mối liên hệ cơ bản đã xác lập được tiếp tục luận giải, tính toán rút ra kết
quả cần tìm.
Bước thứ 4: Kiểm tra xác nhận kết quả.
Để có thể xác nhận kết quả vừa tìm được cần kiểm tra lại việc giải theo một hoặc
một số cách sau đây:
- Kiểm tra xem đã trả lời hết các câu hỏi chưa, đã xét hết các trường hợp chưa.
- Kiêm tra lại xem tính toán có đúng không.
- Kiểm tra thứ nguyên xem có phù hợp không.
- Kiểm tra bằng thực nghiệm xem có phù hợp không.
- Giải bài tập theo cách khác xem có cùng kết quả không.
1.1.5. Hướng dẫn HS giải bài tập vật lý
1.1.5.1 Hoạt động giải bài tập vật lý
Mục tiêu cần đạt tới khi giải một bài tập vật lý là tìm được câu trả lời đúng đắn,
giải quyết được vấn đề đặt ra một cách có căn cứ khoa học.
9

Quá trình giải một bài tập vật lý thực chất là quá trình tìm hiểu điều kiện của bài
tập, xem xét hiện tượng vật lý được đề cập và dựa trên kiến thức vật lý toán để nghĩ tới
những mỗi quan hệ có thể có của cái đã cho và cái phải tìm, sao cho có thể thấy được

cái phải tìm có liên hệ trực tiếp hặc gián tiếp với cái đã cho.Từ đó tìm ra mối liên hệ
tường minh giữa cái cần tìm với cái đã biết, tức là tìm được lời giải đáp.
1.1.5.2 Các kiểu hướng dẫn HS giải bài tập vật lý [19]
Muốn cho việc hướng dẫn giải bài tập được định hướng một cách đúng đắn GV
phải phân tích được phương pháp giải BT cụ thể bằng cách vận dụng những hiểu biết
về tư duy giải BT vật lý. Mặt khác phải xuất phát từ mục đích sư phạm cụ thể của việc
cho HS giải bài tập để xác định kiểu hướng dẫn phù hợp. Nội dung trên được minh họa
bằng sơ đồ sau:

Sau đây chúng ta sẽ đề cập đến các kiểu hướng dẫn giải bài tập vật lý theo các
mục đích sư phạm khác nhau.
Kiểu 1: Hướng dẫn theo mẫu (hướng dẫn angôrit)
Là sự hướng dẫn chỉ rõ cho HS những hành động cụ thể cần thực hiện và trình
tự thực hiện các hành động đó để đạt được kết quả mong muốn. Những hành động
này được coi là hành động sơ cấp HS phải hiểu một cách đơn giản, HS đã nắm
vững, nếu thực hiện theo các bước đã quy định theo con đường đó HS sẽ giải được
bài tập đã cho.
Kiểu dịnh hướng theo mẫu đòi hỏi GV phải phân tích một cách khoa học việc
giải bài toán, xây dựng hệ thống câu hỏi định hướng để xây dựng angôrit giải bài tập.
Kiểu hướng dẫn theo mẫu nhằm luyện tập cho HS kỹ năng giải một loại bài tập
nào đó. Khi xây dựng các angôrit giải cho từng loại bài tập cơ bản, điển hình nào đó
(ví dụ: bài tập động học, động lực học…) thông qua việc giải toán HS nắm được các
angôrit giải cho từng loại bài tập.
Tư duy giải bài tập
Phân tích phương pháp giải
BT cụ thể
Mục đích sư phạm
Xác định kiểu hướng dẫn
Phương
pháp

hướng
dẫn giải
BT cụ
thể
10

Kiểu 2: Hướng dẫn tìm tòi (hướng dẫn ơrixtic)
Là kiểu hướng dẫn mang tính chất gợi ý cho HS suy nghĩ tìm tòi phát hiện cách
giải quyết, không phải là GV chỉ dẫn cho HS hành động theo mẫu đã có mà GV gợi
mở để học sinh tự tìm cách giải quyết, HS tự xác định các hành động cần thực hiện để
đạt được kết quả. Kiểu định hướng này đảm bảo yêu cầu phát triển tư duy của học
sinh, tạo điều kiện để HS tự lực tìm tòi cách giải quyết.
Kiểu 3: Định hướng khái quát chương trình hóa.
Là kiểu hướng dẫn HS tự tìm tòi cách giải quyết. Nét đặc trưng của kiểu hướng
dẫn này là GV định hướng hoạt động tư duy của HS theo đường lối khái quát hóa giải
quyết vấn đề. Sự định hướng ban đầu đòi hỏi sự tự lực tìm tòi giải quyết của HS. Nếu
HS gặp trở ngại không vượt qua được để tìm cách giải quyết thì GV phát triển định
hướng khái quát ban đầu, cụ thể hóa thêm một bước bằng cách gợi ý thêm cho HS để
thu hẹp hơn phạm vi tìm tòi, giải quyết vấn đề. Nếu HS vẫn không giải quyết được thì
GV chuyển dần hướng dẫn theo mẫu giúp HS hoàn thành yêu cầu của một bước, sau
đó yêu cầu HS tự lực, tìm tòi giải quyết bước tiếp theo. Cứ như thế cho đến khi giải
quyết xong vấn đề đặt ra.
Kiểu hướng dẫn khái quát chương trình hóa trong hoạt động giải bài tập vật lý
của HS nhằn phát huy tính độc lập, tự lực thực hiện các hành động tư duy đồng thời
dạy cho HS cách tư duy.
Như vậy GV phải có kỹ thuật đặt ra hệ thống câu hỏi chuyển từ kiểu 3 đến kiểu 1
giúp đỡ HS trong quá trình giải một bài tập vật lý cụ thể.
1.2. Học sinh giỏi và công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường phổ thông
1.2.1. Quan niệm về HS giỏi
Ở nước ta, trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc phổ thông có hai khái niệm

HSG đó là HSG toàn diện và HSG môn học các cấp. HSG toàn diện là học sinh đạt
điểm trung bình chung học tập từ 8.0 trở lên trong đó môn Toán và Văn phải đạt 6.5
trở lên.
HSG môn học các cấp là học sinh đạt giải thi HSG cấp tương ứng môn học đó. Ví
dụ HSG cấp tỉnh vật lý năm 2012 là học sinh đạt giải trong kỳ thi chọn HSG cấp tỉnh
năm học 2012.
11

Thứ bậc đạt giải tương ứng với điểm thi của bài thi đạt giải. Như vậy HSG được
đánh giá qua điểm số của bài kiểm tra, bài thi qua các kỳ kiểm tra và thi. Học sinh đạt
điểm càng cao thì càng giỏi.
Vật lý là một môn khoa học thực nghiệm, HSG vật lý ngoài những tố chất cần
phải có như đã nêu trên còn phải bổ sung thêm một số năng lực cần thiết, đặc thù cho
bộ môn vật lý về vấn đề này có nhiều quan niện khác nhau, đặt trong phạm vi xem xét
với HS phổ thông, qua trao đổi với những GV có kinh nghiệm trong công tác bồi
dưỡng HSG, cùng những kinh nghiệm của bản thân, theo chúng tôi những phẩm chất
và năng lực cần có của một HSG vật lý là:
- Có năng lực tư duy vật lý hay sáng tạo trong vật lý.
Trước tiên HS phải nắm chắc lý thuyết, dù rằng đề thi HSG thường không có câu
hỏi lý thuyết nhưng bài làm của HSG đòi hỏi phải thể hiện sự hiểu biết về vật lý khi
giải quyết các bài toán đặt ra.
HS phải biết phân tích hiện tượng, sự kiện, biết vận dụng kiến thức đã học để đưa
bài toán phức tạp thành bài toán đơn giản, quy một hiện tượng mới lạ về hiện tượng đã
quen biết.
- Có năng lực toán học.
HS biết sử dụng công cụ là toán học (các phép tính véc tơ, khảo sát hàm số, đồ
thị, đạo hàm, vi phân, tích phân, lượng giác…) để giải bài tập vật lý.
- Có năng lực thực hành vật lý.
Trong đề thi HSG các cấp hiện nay luôn có một bài tập về lập phương án thí
nghiệm. Đây là vấn đề mới và cũng là một điểm yếu của HS. HS phải nắm được cách

sử dụng các dụng cụ thí nghiệm cơ bản, biết chọn dụng cụ cần thiết cho yêu cầu của
phép đo, nắm được nguyên tắc, nội dung lý thuyết để thiết kế phương pháp đo. Ngoài
ra HS cũng phải biết cách đánh giá sai số của phép đo.
- Có thói quen tự học, tự nghiên cứu qua tài liệu, sách, tạp chí bộ môn. Nếu
HS chỉ học và biết những gì GV dạy mà không có khả năng tự học, tự nghiên cứu
thêm qua tài iệu, sách tham khảo thì chưa đủ và khó có thể trở thành một HSG
thực thụ.
- Thông qua hoạt động giải BTVL giáo viên có thể phát hiện HS có năng khiếu
vật lý dựa vào 4 biểu hiện về năng lực nêu trên. Trong hoạt động giải bài tập các HS
này luôn là các HS có độ nhanh nhạy trong việc phát hiện vấn đề, nhanh chóng tìm ra
12

những dữ kiện ẩn (trong kho tàng kiến thức đã học) cần cho việc giải bài tập, tìm ra
mối quan hệ giữa các dữ kiện với nhau; tốc độ tính toán và đổi đơn vị. GV đánh giá
được độ linh hoạt trong tư duy, có thể tìm lời giải hay, ngắn gọn.
1.2.2. Tầm quan trọng của việc bồi dưỡng HSG
Khi một HS được phát hiện có năng khiếu ở một lĩnh vực nhất định nào đó thì
việc tạo ra một môi trường giáo dục đặc biệt để phát huy tối đa năng khiếu đó là hết
sức quan trọng và cần thiết. Bồi dưỡng HSG tức là tạo ra một môi trường giáo dục
đặc biệt phù hợp với khả năng đặc biệt của các em, ở đó các em được rèn luyện kỹ
năng để hoàn thành, phát triển tố chất năng khiếu của mình đồng thời nâng cao vốn
kiến thức sẵn có và tiếp thu kiến thức mới. Có năng khiếu và có hệ thống kiến thức
sâu rộng, vững chắc sẽ là tiền đề tốt để các em có thể đạt kết quả cao trong các kỳ
thi mang đậm tính chất tranh tài như kỳ thi chọn HSG cấp tỉnh/thành phố, xa hơn
nữa là cấp quốc gia, quốc tế. Và quan trọng hơn hết là trở thành những chuyên gia
thực sự trong tương lai.
Hơn thế nữa, hiện nay cuộc cạnh tranh về kinh tế, công nghệ giữa các quốc gia
ngày càng trở nên khốc liệt mà bản chất của cuộc cạnh tranh ấy là tri thức, là trí tuệ
con người. Chúng ta đang lạc hậu so với các nước tiên tiến trên thế giới hàng chục
năm, chúng ta muốn “sánh vai với các cường quốc năm châu” thì không có con đường

nào khác là phải làm chủ được tri thức, làm chủ công nghệ. Và như thế, chìa khóa
thành công đang cất giữ trong trường học. Đào tạo, bồi dưỡng HSG ngày hôm nay
chính là góp phần đào tạo, bồi dưỡng nhân tài - nguồn nhân lực chất lượng cao- cho
đất nước mai sau. Và chính họ sẽ góp phần rút ngắn khoảng cách giữa nước ta với các
nước phát triển trên thế giới.
1.2.3. Một số phương pháp phát hiện HSG ở bậc THPT
Căn cứ vào các phẩm chất, năng lực về HSG vật lý như đã nêu trên, để phát hiện
được HS có năng khiếu về vật lý, GV bồi dưỡng HSG cần phải xác định được:
- Mức độ nắm vững kiến thức, kỹ năng một cách đầy đủ, chính xác của HS so với
yêu cầu của chương trình vật lý phổ thông.
- Mức độ tư duy của từng HS và đặc biệt là đánh giá được khả năng vận dụng
kiến thức của HS một cách linh hoạt, sáng tạo.
13

Muốn vậy, GV phải kiểm tra kiến thức của HS ở nhiều phần của chương trình,
kiểm tra toàn diện các kiến thức về lý thuyết, bài tập và thực hành. Thông qua bài
kiểm tra, GV có thể phát hiện HSG vật lý theo các tiêu chí:
+ Mức độ đầy đủ, rõ ràng về mặt kiến thức.
+ Tính logic trong bài làm của HS đối với từng yêu cầu cụ thể.
+ Tính khoa học, chi tiết, độc đáo được thể hiện trong bài làm của HS.
+ Tính mới, tính sáng tạo (những đề xuất mới, những giải pháp có tính mới về
mặt bản chất, cách giải bài tập hay, ngắn gọn…)
+ Mức độ làm rõ nội dung chủ yếu phải đạt được của toàn bài kiểm tra.
+ Thời gian hoàn thành bài kiểm tra.
1.2.4. Một số biện pháp bồi dưỡng HSG ở trường phổ thông
1.2.4.1. Kích thích động cơ học tập của học sinh
Để việc bồi dưỡng HSG có hiệu quả cao thì không thể không chú ý tới việc kích
thích động cơ học tập của HS. GV tham gia bồi dưỡng HSG có thể tham khảo các đề
xuất sau:
a. Hoàn thiện những yêu cầu cơ bản

- Tạo môi trường dạy – học phù hợp.
- Giao các nhiệm vụ vừa sức cho HS và làm cho các nhiệm vụ đó trở nên thực sự
có ý nghĩa với bản thân họ.
b. Xây dựng niềm tin và những kỳ vọng tích cực trong mỗi HS.
- Bắt đầu công việc học tập, công việc nghiên cứu vừa sức đối với HS.
- Làm cho HS thấy mục tiêu học tập rõ ràng, cụ thể và có thể đạt tới được.
- Cho HS thấy rằng năng lực học tập của các em có thể được nâng cao hơn nữa
nếu các em cố gắng.
c. Làm cho HS tự nhận thức được lợi ích, giá trị của việc được chọn vào đội
tuyển HS giỏi
- Việc học trong đội tuyển trở thành niềm vui, niềm vinh dự.
14

- Tác dụng của phương pháp học tập, khối lượng kiến thức thu được khi tham gia
đội tuyển có tác dụng như thế nào đối với môn vật lý ở trên lớp, với các môn học khác
và với cuộc sống hằng ngày.
1.2.4.2. Soạn thảo nội dung dạy học và có phương pháp dạy học hợp lý
Nội dung dạy học gồm hệ thống lý thuyết và hệ thống bài tập tương ứng. Trong
đó, hệ thống lý thuyết phải được biên soạn đầy đủ, ngắn gọn, dễ hiểu, bám sát yêu cầu
của chương trình; soạn thảo, lựa chọn hệ thống bài tập phong phú, đa dạng giúp HS
nắm vững kiến thức, đào sâu kiến thức, rèn luyện kỹ năng, đồng thời phát triển được
tư duy cho HS.
Sử dụng phương pháp dạy học hợp lý sao cho HS không cảm thấy căng thẳng,
mệt mỏi và quá tải đồng thời phát huy được tối đa tính tích cực, tính sáng tạo và nội
lực tự học tiềm ẩn trong mỗi HS.
1.2.4.3. Kiểm tra, đánh giá
Trong quá trình dạy đội tuyển, GV có thể đánh giá khả năng, kết quả học tập của
HS thông qua việc quan sát hành động của từng em trong quá trình dạy học, kiểm tra,
hoặc phỏng vấn, trao đổi. Hiện nay, thường đánh giá kết quả học tập của HS trong đội
tuyển bằng các bài kiểm tra, bài thi (bài tự luận, trắc nghiệm hoặc bài thi hỗn hợp).

Tuy nhiên cần chú ý là các câu hỏi trong bài thi nên được biên soạn sao cho có nội
dung khuyến khích tư duy độc lập, sáng tạo của HS.
1.2.5. Thực trạng việc bồi dưỡng HSG ở trường THPT hiện nay.
1.2.5.1. Thực trạng bồi dưỡng học sinh giỏi Vật lý nước ta hiện nay
Từ năm 2008 đến nay Bộ GD-ĐT đã và đang thực hiện 9 chương trình nâng cao
chất lượng bồi dưỡng nhân tài, trọng tâm của các chương trình này là nâng cao chất
lượng và số lượng đội ngũ HSG, đồng thời đầu tư cơ sở vật chất, chương trình giảng
dạy cho các trường chuyên trên toàn quốc nhằm mục đích rút ngắn khoảng cách giữa
các trường chuyên thuộc tỉnh với các trường chuyên cấp thành phố và các trường
chuyên trọng điểm quốc gia. Bên cạnh đó thì việc khuyến khích và đầu tư vào các
trường THPT không chuyên cũng được chú trọng.
Các chương trình của Bộ GD-ĐT đầu tư cho việc bồi dưỡng HSG bước đầu đã
phát huy hiệu quả, chất lượng đào tạo và thành tích HSG đạt được trong các kỳ thi
trong nước và các kỳ thi khu vực, quốc tế ngày càng cao thường được xếp vào các
quốc gia thuộc tốp đầu (Bảng 1.1). Điều đó cho thấy rằng vấn đề bồi dưỡng nhân tài ở
15

nước ta hiện đặc biệt là ở một sồ trường chuyên trọng điểm quốc gia đã và đang đi
đúng hướng và bắt kịp với các nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới.
Bảng 1.1 Thành tích đội tuyển Olimpic khu vực và quốc tế
từ năm 2009 đến 2012. [20]
Năm
Lần thứ Địa điểm Số HS HCV HCB HCĐ Bằng khen
IPhO APhO IphO APhO
IphO APhO IPhO APhO IPhO APhO IPhO APhO IPhO AphO
2009 40 X Mêxicô Thái lan 5 8 5 2 2 4
2010 41 XI Croatia
Đài
Loan
5 8 1 3 1 1 4

2011 42 XII
Thái
Lan
Israel 5 8 1 2 2 2 3
2012 43 XIII Estonia Ấn Độ 5 8 2 1 1 5 2 2
Căn cứ vào kết quả đạt được ta có thể thấy rằng phần lớn các em trong đội tuyển
HSG cấp quốc gia thuộc học sinh các trường chuyên các tỉnh thuộc khu vực phía Bắc
như Hà Nội, Nghệ An, Thanh Hóa… là cái nôi đào tạo HSG quốc gia.
1.2.5.2. Thực trạng bồi dưỡng học sinh giỏi Vật lý ở tỉnh Nghệ An và một số
trườngTHPT thuộc tỉnh Nghệ An
Nghệ an là một trong những tỉnh có truyền thống hiếu học. Sở GD-ĐT Nghệ An
trong những năm gần đây đã có những kế hoạch chú trọng hơn về việc bồi dưỡng HSG
trong tỉnh và đầu tư cơ sở vật chất, nguồn nhân lực cho trường THPT Chuyên và một
số trường trọng điểm trong tỉnh.
a) Tình hình học sinh
Đa số các trường trong tỉnh chương trình học thuộc ban cơ bản nên ảnh hưởng rất
nhiều đến việc phát hiện và bồi dưỡng HSG. Về kỹ năng thực hành và hiện nay còn rất
hạn chế, yếu tố này do nhiều nguyên nhân như dụng cụ thí nghiệm còn thiếu, các tiết
dạy thực hành thiếu đầu tư…
Mặt khác các em thường chú trọng vào luyện thi đại học nên không chú tâm vào
việc học môn chuyên để đi thi HSG.
b) Đội ngũ giáo viên bồi dưỡng HSG Vật lý
Nhìn chung đội ngũ giáo viên phục vụ cho công tác bồi dưỡng HSG của tỉnh ở
trường THPT Chuyên và các trường THPT trong tỉnh hiện nay vừa thiếu lại vừa chưa
có đầu tư nhiều. Phương pháp giảng dạy hiện nay đã bắt đầu có sự thay đổi như đi sâu
16

vào bài tập nâng cao phát triển tư duy, mở rộng sang hướng thực nghiệm nhưng chỉ ở
mức các bài thực hành ở SGK.
Qũy thời gian dành cho việc bồi dưỡng HSG ở các trường còn eo hẹp, khối lượng

công việc của giáo viên nhiều nên thời gian dành cho việc nghiên cứu, tự bồi dưỡng
còn hạn chế.
c) Tài liệu bồi dưỡng HSG Vật lý
Tài liệu dùng cho việc bồi dưỡng HSG trong tỉnh mà giáo viên sử dụng đa số là
các sách được xuất bản từ NXB Giáo dục, một số chuyên đề bồi dưỡng HSG, một số
chuyên đề nâng cao cho học sinh phổ thông. Hiện nay tài liệu về thực hành và thí
nghiệm dùng để bồi dưỡng HSG còn thiếu, chỉ tập chung vào các dạng bài tập có mức
độ khó và nâng cao và cũng chưa chú trọng vào dạng bài tập sáng tạo. Một số tài liệu
giáo viên tham khảo trong quá trình bồi dưỡng như Tuyển tập đề thi Olypic 30 tháng
4 vật lí, Tuyển tập bài tập vật lí nâng cao THPT, Bồi dưỡng HSG vật lí THPT….
Như vậy có thể thấy rằng việc bồi dưỡng HSG ở bậc THPT hiện nay đang gặp rất
nhiều khó khăn khi mà không nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ phía gia đình và bản
thân HS, thêm vào đó, một số giáo viên cũng không thiết tha với công việc này. Khó
khăn càng được nhân lên gấp bội đố với các giáo viên, HS vùng trung du, miền núi-
bởi chính việc đi học hằng ngày của các em cũng đã cần một sự cố gắng, nỗ lực rất
lớn- thì vấn đề tham gia đội tuyển HSG, bồi dưỡng HSG lại càng chưa được chú trọng
đúng mức. Nhưng dù khó khăn thế nào thì việc bồi dưỡng HSG- ý nghĩa và tầm quan
trọng của nó – cũng cần được phát triển. Hiện nay công việc ấy đang được thực hiên
bởi những giáo viên đầy tâm huyết, những HS có năng khiếu và có niềm đam mê thực
sự, rất cần được sự cổ vũ mạnh mẽ của gia đình, nhà trường và cộng đồng.
1.3. Bài tập vật lý với việc bồi dưỡng HSG
Trong quá trình bồi dưỡng HSG vật lý thì BTVL là một phương tiện tuyệt vời
giúp HS có thể phát huy được các năng lực sau đây: [21]
- Năng lực kết quả hóa các dữ kiện riêng lẻ để đề xuất một phương án giải quyết
vấn đề nêu ra (qua các thao tác phân tích, so sánh, tổng hợp các dấu hiệu của hiện
tượng vật lý)
- Năng lực tính toán, xử lý số liệu để suy ra kết quả (năng lực tính toán toán học,
tư duy logic, lập luận có căn cứ )
17


- Năng lực tổ chức và tiến hành thí nghiệm để phát hiện và kiểm tra, đề xuất các
hiệu ứng vật lý vào kỹ thuật (năng lực thực nghiệm).
Qua những vấn đề đã trình bày ở trên cho thấy BTVL có tác dụng rất to lớn trong
việc phát hiện và bồi dưỡng HSG vật lý, giúp người giáo viên nhận định đúng đối
tượng HS có năng khiếu và định hướng tiếp tục bồi dưỡng để tạo nguồn nhân tài cho
đất nước.
1.3.1. Phân loại bài tập Vật lý theo mục đích bồi dưỡng học sinh giỏi
BTVL rất đa dạng và phong phú cho nên có nhiều cách phân loại khác nhau. Dựa
vào mục đích dạy học, về tiêu chí giải mà người ta phân loại các dạng BTVL như phân
loại theo nội dung, theo mục đích dạy học, theo độ khó, theo đặc điểm, phương pháp
nghiên cứu vấn đề, theo phương thức giải hay phương thức cho điều kiện và theo hình
thức lập luận logic. [21]
Với mục đích bồi dưỡng HSG chúng tôi chia BTVL theo các loại sau:
*Loại 1. Bài tập luyện tập nâng cao
- Mục tiêu: Rèn luyện kỹ năng sử dụng các phương pháp quen thuộc để giải các
bài tập tổng hợp nhiều kiến thức, phải vận dụng nhiều khái niệm, định luật Những
bài tập được dùng để rèn luyện cho học sinh kỹ năng áp dụng được những kiến thức
xác định để giải bài tập theo một khuôn mẫu đã có, loại bài tập này không đòi hỏi
nhiều về tư duy sáng tạo của học sinh. Tính chất tái hiện của tư duy thể hiện ở chỗ:
Học sinh so sánh bài tập cần giải với các dạng bài tập đã biết, trong đề bài các dữ kiện
đã hàm chứa angôrit giải. Bồi dưỡng loại bài tập này cho học sinh sẽ giúp học sinh rèn
luyện kỹ năng tính toán, lập luận lôgic tính cẩn thận kiên trì, tự lực và có khả năng
chịu áp lực cao.
*Loại 2. Bài tập sáng tạo
Mục tiêu: Bồi dưỡng tư duy sáng tạo và đòi hỏi trả lời câu hỏi “Làm thế nào”
tương tự với “Sáng chế” trong sáng tạo khoa học kỹ thuật. Có nhiều BTVL không chỉ
dừng lại ở phạm vi vận dụng những kiến thức đã học mà còn giúp bồi dưỡng cho học
sinh tư duy sáng tạo. Đặc biệt là những bài tập giải thích hiện tựơng, bài tập thí
nghiệm, bài tập thiết kế dụng cụ nó rất có ích cho mặt này. Đây là loại bài tập rất đặc
trưng của môn vật lý đòi hỏi người giải cần có tính nhạy bén sáng tạo, óc quan sát, trí

tưởng tượng, trực giác kỹ thuật; bồi dưỡng niềm đam mê tìm tồi sáng tạo và hứng thú
với môm học.
18

*Loại 3. Bài tập nâng cao kiến thức
- Khái niệm: Là loại bài tập dùng để nâng cao kiến thức cho học sinh, mở rộng
các kiến thức dựa trên cơ sở các kiến thức đã được học
- Đặc điểm: Bổ túc thêm kiến thức cho học sinh để có thể thi Olympic các cấp
hoặc quốc gia. Thông qua các loại bài tập này giáo viên bổ sung cho học sinh một số
kiến thức có tính chất nâng cao và mở rộng
- Cách sử dụng: để giải các bài tập này học sinh cần có sự tập trung cao độ và
đồng thời phải huy động kiến thức vật lý cũng như toán học ở mức độ cao và phức tạp
như vi phân, tích phân… Bên cạnh đó học sinh khi giải cần phải có tư duy, tổng hợp
và khái quát hóa vấn đề ở mức độ cao. Vì vậy trong quá trình bồi dưỡng loại bài tập
này ta cần chú trọng và ưu tiên về thời gian, số lượng để học sinh tiếp cận và rèn
luyện.
1.3.2 . Bài tập Vật lý với việc bồi dưỡng học sinh giỏi
Sử dụng BTVL trong việc bồi dưỡng HSG là một trong những quá trình cá
biệt hóa học sinh với mức độ nội dung của bài tập nâng cao và sáng tạo, vấn đề giải
quyết, phạm vi và tính phức hợp trong bài rộng. Các thao tác tư duy lôgic đều được
huy động ở mức độ cao, về số lượng bài tập cần giải và tự lực giải của học sinh
phải đảm bảo đủ lớn. Bài tập bồi dưỡng HSG vật lý phải gồm được 3 loại nói trên
và đạt được tiêu chí sau.
1.3.2.1. Tiêu chí bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi
Ngoài các yêu cầu chung của hệ thống bài tập dùng trong dạy học một chương,
một phần thì bài tập bồi dưỡng HSG phải đạt được các tiêu chí sau: [21]
Tiêu chí 1: Hệ thống bài tập được chọn theo chủ đề, các bài tập trong cùng một
chủ đề phải đảm bảo đủ 3 loại: Bài tập nâng cao kiến thức, Bài tập luyện tập nâng cao,
Bài tập sáng tạo.
Tiêu chí 2: Bài tập nâng cao kiến thức phải bổ túc cho học sinh phổ thông kiến

thức nằm ngoài chuẩn kiến thức kỹ năng nhưng trong phạm vi mà trong các đề thi
HSG các cấp tương ứng đề cập đến.
Tiêu chí 3:

Bài tập luyện tập nâng cao phải là những bài tập tổng hợp sử
dụng từ 3 đơn vị kiến thức trở lên ở cấp thấp nhất (cấp trường), từ HSG cấp tỉnh
trở lên loại bài tập này phải sử dụng tối thiểu 4 đơn vị kiến thức cơ bản. Bài tập
19

luyện tập nâng cao phải đa dạng: Bài tập định tính, Bài tập định lượng, Bài tập đồ
thị, BT thí nghiệm
Tiêu chí 4: Bài tập sáng tạo là những bài tập gắn với tình huống thực tế nhằm bồi
dưỡng cho học sinh năng lực sáng tạo và niềm đam mê yêu thích vật lý học.
Với những tiêu chí như trên hệ thống bài tập được xây dựng gồm: Bài tập nâng
cao kiến thức, Bài tập luyện tập nâng cao, Bài tập có nội dung thực tế, lịch sử, kỹ thuật
trong đó có một số thuộc dạng BTST.
1.3.2.2. Bài tập luyện tập bồi dưỡng học sinh giỏi
Những bài tập được dùng để rèn luyện cho học sinh kỹ năng áp dụng được những
kiến thức xác định để giải theo mẫu đã có. Loại bài tập này không đòi hỏi tư duy sáng
tạo của học sinh mà chủ yếu rèn luyện cho học sinh nắm vững cách giải đối với từng
loại bài tập nhất định. Tính chất tái hiện của tư duy được thể hiện ở chỗ học sinh so
sánh bài tập cần giải với các dạng bài tập đã biết, trong đề bài các dữ kiện đã hàm chứa
angôrit giải. Loại bài tập này có tác dụng đặc biệt giúp học sinh đào sâu kiến thức, rèn
luyện kỹ năng áp dụng phương pháp đã biết cho bài tập tương tự. [15]
1.3.2.3. Bài tập sáng tạo bồi dưỡng học sinh giỏi
Sáng tạo là hoạt động tạo ra bất kì cái gì có đồng thời tính mới và tính lợi ích.
“Tính mới” là bất kì sự khác biệt nào của đối tượng tìm ra so với đối tượng ban đầu.
*BT sáng tạo vật lý: Theo V.G Razumôpxki (Nga) thì đó là bài tập mà giả thuyết
không có thông tin đầy đủ liên quan đến hiện tượng quá trình vật lý được ẩn dấu, điều
kiện bài toán không chứa đựng chỉ dẫn trực tiếp và giáng tiếp về angôrit giải hay kiến

thức vật lý cần sử dụng.
Loại bài tập dùng cho việc bồi dưỡng các phẩm chất của tư duy sáng tạo: tính
linh hoạt, mềm dẻo, độc đáo, nhạy cảm. Tính chất sáng tạo thể hiện ở chỗ không có
angôrit cho việc giải bài tập, đề bài che dấu dữ kiện khiến người giải không thể liên hệ
tới một angôrit đã có. Với BTST, người giải phải vận dụng kiến thức linh hoạt trong
tình huống mới (chưa biết), phát hiện điều mới (về kiến thức, kĩ năng hoạt động hoặc
thái độ ứng xử mới), phải có những đề xuất độc lập mới mẻ, không thể suy luận một
cách đơn thuần từ kiến thức đã học.
20

Giải BTST không những đòi hỏi học sinh phải có kiến thức sâu rộng mà còn phải
biết vận dụng kiến thức một cách linh hoạt, việc đề xuất ra các phương án và các hình
thức thực hiện các phương án phải có tính sáng tạo. BTST là một trong những phương
tiện giúp giáo viên phát hiện và bồi dưỡng HSG vật lí, loại bài tập này còn bồi dưỡng
cho học sinh niềm yêu thích khoa học vật lý.
1.4.3. Quy trình xây dựng hệ thống bài tập Vật lý bồi dưỡng HSG
Mục đích cơ bản đặt ra khi hướng dẫn học sinh giải BTVL là làm cho học sinh
hiểu sâu sắc hơn những quy luật vật lý, biết phân tích và ứng dụng chúng vào những
vấn đề thực tiễn, vào tính toán kỹ thuật và cuối cùng là phát triển được năng lực tư duy
và năng lực giải quyết vấn đề [21].
Dựa trên tiêu chí hệ thống bài tập bồi dưỡng HSG, chúng tôi sử dụng qui trình
xây dựng bài tập bồi dưỡng HSG vật lý cho mỗi phần, mỗi chương, mỗi chủ đề :
1. Xác định chuẩn kiến thức, kỹ năng của chủ đề (Đây là mức độ tối thiểu của
học sinh đại trà, HSG phải đạt vượt chuẩn này ở mức độ khá trở lên).
2. Khảo sát đề thi HSG cấp tương ứng trong 5 năm gần đây của địa phương và
của một vài địa phương khác (Cấp tương ứng nghĩa là bồi dưỡng HSG cấp nào thì
khảo sát đề thi HSG cấp đó: Đội tuyển HSG Tỉnh thì khảo sát đề thi HSG Tỉnh, ).
Việc khảo sát đề thi HSG nhằm:
- Xác định phổ kiến thức của chủ đề được sử dụng trong các đề thi, mức độ vượt
khỏi chuẩn của kiến thức và kỹ năng làm cơ sở xác định kiến thức cần bổ túc cho HSG

thông qua bài tập nâng cao kiến thức
-Xác định mức độ phức tạp của bài tập luyện tập nâng cao làm cơ sở thiết kế các
kỹ năng cần rèn luyện cho học sinh trong các bài tập luyện tập nâng cao.
- Xác định tần suất và dấu hiệu bài tập sáng tạo được sử dụng.
3. Đánh giá kiến thức kỹ năng và năng lực tư duy của đội tuyển HSG (Xác định
trình độ hiện thời, đầu vào của đối tượng HSG) nhằm xây dựng bài tập phù hợp với
vùng phát triển gần nhất của học sinh được bồi dưỡng.
4. Xây dựng mục tiêu dạy học của hệ thống bài tập bồi dưỡng HSG trên cơ sở các
kết quả của các bước 1,2,3 trong quá trình.
5. Xây dựng hệ thống bài tập thỏa mãn các tiêu chí bài tập bồi dưỡng HSG nhằm
đạt mục tiêu ở bước 4.
21

×