Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

ảnh hưởng của mật độ trồng và các mức bón đạm khác nhau đến sinh trưởng phát triển và năng suất cây cỏ ngọt (Stevia rebaudiana Bertoni) giống M1 tại xã Nghi Kim, TP. Vinh, Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.37 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ PHI LONG
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ TRỒNG VÀ
CÁC MỨC BÓN ĐẠM KHÁC NHAU ĐẾN SINH
TRƯỞNG PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT
CÂY CỎ NGỌT (Stevia rebaudiana Bertoni) GIỐNG M1
TẠI XÃ NGHI KIM, TP.VINH, NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
NGHỆ AN – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ PHI LONG
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ TRỒNG VÀ
CÁC MỨC BÓN ĐẠM KHÁC NHAU ĐẾN
SINH TRƯỞNG PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT CÂY
CỎ NGỌT (Stevia rebaudiana Bertoni) GIỐNG M1
TẠI XÃ NGHI KIM, TP.VINH, NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: KHOA HỌC CÂY TRỒNG
Mã số : 60 62 01 10
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Kim Đường
NGHỆ AN - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và
chưa từng được sử dụng, được bảo vệ một học vị nào khác.
Mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và
các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.


Người viết cam đoan
Lê Phi Long
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt luận văn này tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn
tận tình của thầy giáo, cô giáo, các tổ chức và cá nhân nơi triển khai đề tài, nhân
dịp này tôi xin bày tỏ biết ơn tới:
- Thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Kim Đường là người hướng dẫn khoa học
đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo trong suốt quá trình làm đề tài.
- Khoa Sau Đại học Trường Đại học Vinh.
- Ban chủ nhiệm khoa và các thầy cô giáo trong Khoa Nông- Lâm- Ngư,
Trường Đại học Vinh đã góp ý để tôi làm đề tài thuận lợi hơn.
- Ban lãnh đạo, cán bộ, công nhân trong Công ty Cổ phần Đầu tư phát
triển Stevia Á Châu đã luôn giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
- Tất cả bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên giúp đỡ.
Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi
những thiếu sót, kính mong được sự đóng góp quý báu của tất cả thầy giáo, cô
giáo, cùng bạn bè, đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, ngày tháng 10 năm 2014
Tác giả
Lê Phi Long
ii
MỤC LỤC
Trang
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt Nội dung
NSCT

Năng suất cá thể
NSTT
Năng suất thực thu
NSLT
Năng suất lý thuyết
LSD
0,05
Sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa ở mức 0,05
FAO
Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc
FDA
Cục quản lý dược và thực phẩm Mỹ
VIR
Viện nghiên cứu cây trồng toàn Liên bang Nga
VSA
Hiệp hội giống cây trồng Việt Nam
NN & PTNT
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Cty CP
Công ty cổ phần
UBND
Ủy ban nhân dân
WHO
Tổ chức y tế Thế giới
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
v
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang

vi
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển thì vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân ngày càng được chú trọng hơn, các sản phẩm an toàn và có lợi cho sức
khỏe luôn được người tiêu dùng hướng đến. Trong đó nhu cầu về chất ngọt là
một trong những nhu cầu thiết yếu hàng ngày của con người. Tuy nhiên, trong
sản xuất thực phẩm ở quy mô công nghiệp việc sử dụng chất ngọt hoá học như
aspartame, acesulfame potasium, sodium cyclamate, sachet, saccharin, . . . thay
thế cho đường tự nhiên là tình trạng phổ biến xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng, mặc dù rẻ và tiện lợi, nhưng nếu sử dụng
thường xuyên, nó là nguyên nhân tiềm ẩn gây ra nhiều bệnh hiểm nghèo cho con
người như bệnh ung thư gan, ung thư phổi, béo phì, . . . Trong đó, hai vấn đề của
xã hội đang ngày càng nổi cộm và không ngừng tăng nhanh trong những năm
gần đây đó là béo phì và tiểu đường. Theo nhận định của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) thì vào những năm 20 của thế kỷ này, hàng năm thế giới phải chi khoảng
425 tỷ USD để phòng và trị bệnh tiểu đường. Tuy nhiên con người vẫn chưa tìm
ra cách nào hữu hiệu để chặn đứng căn bệnh này. Trước viễn cảnh không mấy
khả thi của các chất ngọt hóa học, tâm lý chung của người tiêu dùng là tìm về với
những sản phẩm thiên nhiên để thay thế cho các sản phẩm hóa học, bởi thế vị
ngọt thiên nhiên đã và đang thu hút các nghiên cứu và là mối quan tâm hàng đầu
của các công ty dược phẩm, thực phẩm, . . . Rất nhiều cuộc hội thảo quốc tế đã
được tổ chức, đặt ra những thách thức đối với các nhà khoa học nghiên cứu và khoa
học phương diện ứng dụng. Trong nhóm những chất tạo vị ngọt thiên nhiên, cây cỏ
ngọt (Stevia rebaudiana Bertoni) ngày càng được chú ý đến, vì từ lá cây cỏ ngọt
các nhà kỹ nghệ đã chế biến ra đường Rebaudiana (Reb-A), một sản phẩm có độ
ngọt gấp 300÷400 lần đường saccaroza nhưng lại không sinh năng lượng.
Cây cỏ ngọt xuất hiện tại Việt Nam từ năm 1989. Qua thử nghiệm trồng cho
thấy cỏ ngọt là loại cây khá dễ tính, thích ứng rộng trên nhiều loại đất và vùng
sinh thái khác nhau của nước ta như : Sông Bé, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Hà Nội,

Hòa Bình, Vĩnh Phú, Yên Bái, Bắc Giang, . . . Mặt khác, kỹ thuật nhân giống,
1
gieo trồng và chăm sóc cỏ ngọt đơn giản, vốn đầu tư không nhiều, việc thu hoạch
sản phẩm dễ dàng, sản phẩm là cành lá khô nên có thể làm nguyên liệu phục vụ
trong y học, công nghiệp thực phẩm hoặc trực tiếp làm thành phẩm như các loại
chè giải khát, chữa bệnh, . .v.v. Vì vậy, nó đã được các doanh nghiệp và chủ
trang trại quan tâm và trong vòng vài năm gần đây cây Cỏ ngọt bắt đầu phát triển
mạnh và được trồng rộng rãi.
Tác dụng của cỏ ngọt là bổ tim, lợi tiểu, làm giảm huyết áp và đặc biệt nhất là
đối với những người bị bệnh tiểu đường. Do không tạo calorie nên Cỏ ngọt rất thích
hợp để giúp giảm cân. Ngoài ra, nó cũng giúp vào việc làm lành các vết thương
ngoài da nên được dùng rộng rãi trong y học như sử dụng cho người bị đái tháo
đường, chống xơ cứng động mạch, lưu thông khí huyết, chống béo phì ở phụ nữ cao
huyết áp cũng như trong mỹ phẩm [13]
Với những tác dụng lớn như vậy, sản phẩm cỏ ngọt không chỉ tiêu thụ mạnh
trong thị trường nội địa mà còn được thị trường thế giới đặc biệt quan tâm.
Tại Nghệ An, với tổng diện tích tự nhiên 1.637.068 ha (bằng 1/20 diện tích
lãnh thổ Việt Nam). (dẫn theo Trần văn Quyền, 2008). Trong đó, diện tích đất
trồng hoa màu tương đối lớn (khoảng 280.000 ha), đã cho thấy tiềm năng phát
triển rộng rãi quy mô trồng. Cỏ ngọt được công ty CP đầu tư phát triển Stevia Á
Châu đưa vào khảo nghiệm từ tháng 11/2009 tại xóm 4-Nghi Đồng, Nghi Lộc-
Nghệ An. Qua hơn hai năm rưỡi nghiên cứu và khảo nghiệm, với tổng diện tích
trồng là 8,2 ha, cây Cỏ ngọt đã cho thấy nó rất phù hợp thổ nhưỡng của Nghệ An.
Với nhiều ưu điểm như là cây ngắn ngày, chu kỳ thu hoạch ngắn (1,5÷2
tháng/lứa), sản phẩm là cành lá nên chịu thâm canh, làm đất một lần cho thu
hoạch hai năm, kỹ thuật canh tác đơn giản, sản phẩm được bao tiêu ngay sau khi
thu hoạch nên cỏ ngọt đang từng bước khẳng định được vị thế của mình trong
việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng của tỉnh nhà. Hiện nay nhiều xã thuộc huyện
Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương, Đô Lương,
Yên Thành đã chuyển sang trồng cây Cỏ ngọt thay hoa màu và cho thu nhập

trung bình 150 triệu/ha/năm [14].
2
Năng suất và phẩm chất cây trồng được quyết định bởi rất nhiều yếu tố,
trong đó mật độ và phân bón là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng ảnh
hưởng đến sinh trưởng phát triển và năng suất của cây cỏ ngọt. Đạm là loại phân
đa lượng đóng vai trò rất lớn đối với sự sinh trưởng phát triển và nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm cây trồng, đặc biệt nếu sử dụng đạm hợp lý còn nâng
cao hiệu suất sử dụng các loại phân bón khác. Giữa việc bố trí mật độ trồng và
mức bón phân có mối liên hệ qua lại chặt chẽ đối với nhau trong sản xuất.
Cỏ ngọt là loại cây trồng mới đưa vào trồng ở Việt Nam, đặc biệt là ở Nghệ
An. Quy trình kỹ thuật áp dụng đối với các loại giống cây cỏ ngọt cũng khác nhau
và còn nhiều tranh luận về mật độ nào là phù hợp nhất, mức bón đạm nào là hợp lý
nhất và sự kết hợp nào là tối ưu nhất. Nhằm giải quyết bài toán thực tiễn đặt ra đó để
nâng cao năng suất và chất lượng cây cỏ ngọt, đồng thời góp phần vào việc hoàn
thiện kỹ thuật trồng cây cỏ ngọt.
Chúng tôi đã nghiên cứu đề tài: “Ảnh hưởng của mật độ trồng và các
mức bón đạm đến sinh trưởng phát triển và năng suất cây cỏ ngọt (Stevia
rebaudiana Bertoni) giống M1 tại xã Nghi Kim, TP Vinh, Nghệ An”.
2. Mục đích của nghiên cứu
- Xác định được ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng phát triển và
năng suất cây cỏ ngọt (Stevia rebaudiana Bertoni) giống M1 tại xã Nghi Kim,
thành phố Vinh, Nghệ An.
- Xác định được ảnh hưởng của các mức bón đạm đến sinh trưởng phát
triển và năng suất cây cỏ ngọt (Stevia rebaudiana Bertoni) giống M1 tại xã Nghi
Kim, thành phố Vinh, Nghệ An.
- Xác định được ảnh hưởng của các mật độ trồng và các mức bón đạm đến
sinh trưởng phát triển và năng suất cây cỏ ngọt (Stevia rebaudiana Bertoni)
giống M1 tại xã Nghi Kim, thành phố Vinh, Nghệ An.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
3.1. Ý nghĩa khoa học

Xác định cơ sở khoa học của mật độ trồng, việc sử dụng phân bón góp phần
hoàn thiện quy trình kỹ thuật sản xuất cỏ ngọt cho năng suất cao, chất lượng tốt.
3
Cung cấp các tài liệu khoa học phục vụ công tác nghiên cứu và giảng dạy về
cây cỏ ngọt.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
+ Tìm ra mật độ trồng, mức bón đạm và sự kết hợp có hiệu quả nhất giữa
mật độ trồng và mức bón đạm cho cây cỏ ngọt đem lại năng suất và hiệu quả
kinh tế khi mở rộng vùng trồng cây.
+ Góp phần vào việc xây dựng quy trình sản xuất cây cỏ ngọt hoàn chỉnh
mang lại thu nhập cao cho người dân.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu chung về cây cỏ ngọt
1.1.1. Nguồn gốc, phân bố của cây cỏ ngọt
Cỏ ngọt (Stevia Rebaudiana Bertoni) còn được gọi là cây cỏ đường, cỏ
mật, trạch lan hay cúc ngọt, có nguồn gốc từ thung lũng Rio Monday nằm về
phía Đông Bắc xứ Panama, Nam Mỹ (theo thông tin KHCN 4/1995). Tên khoa
học của cỏ ngọt lúc đầu là Eupatorium Rebaudianum vì O. Rebaudi là người đầu
tiên đã nói đến nó. Năm 1899, một nhà thực vật học người Paraguay,
M.C.Bertoni xác định nó là cây thuộc loại Stevia, họ Cúc. Năm 1905 ông miêu tả
rành mạch và chính thức đặt tên nó là Stevia Rebaudiana Bertoni. Năm 1915,
R.Robert tìm ra trong cây cỏ ngọt một chất là Eupatorin. Sau đó Bertoni đề nghị
sửa tên Eupatorin thành Estevina hay Stevin. Liên hợp hóa học quốc tế họp ở
Copenhagen năm 1924 chỉ định tên Steviosid cho chất này. Thổ dân Guarani ở
Paraguay còn gọi cỏ này là ka-ê-hê có nghĩa là cỏ ngọt (Brandle, J.E and Rosa,
N, 1992) [16].
1.1.2. Phân loại thực vật
Cây cỏ ngọt thuộc họ: Asteraceae (Compositae)

Chi : Stevia
Tên khoa học : Stevia Rebaudiana Bertoni
1.1.3. Đặc điểm thực vật học
Thân: Là cây bụi lâu năm, thân gỗ, dạng bụi, nhiều nhánh, thân cành tròn,
có nhiều nhánh, mọc thẳng, cao 80÷120 cm (cho đến khi ra hoa), thân chính có
đường kính từ 2,5÷8 mm. Trong sản xuất, cỏ ngọt được thu hoạch khi cây có độ
cao 30÷60 cm, trong điều kiện màu mỡ có thể cao tới 80 cm mới thu hoạch.
Thông thường cỏ ngọt cho từ 25÷30 cành cấp 1 [9].
5
Rễ: thuộc loại rễ chùm, hình nón, trong điều kiện tự nhiên phân nhánh
mạnh, có thể ăn sâu ở lớp đất 20÷30 cm và chịu ảnh hưởng bởi ẩm độ đất [9].
Lá: mọc đối, hình oval trứng ngược hoặc thuôn dài, nằm ngang hoặc hơi
nghiêng, phiến lá thường có 12÷16 răng cưa, chiều dài bản lá ở cây trưởng thành
có thể đạt 5÷10cm, rộng 1,5÷3cm, có 3 gân song song và các gân phụ phân nhánh.
Cây con từ gieo hạt có 2 lá mầm hình tròn, đến cặp lá thứ 4 mới xuất hiện răng
cưa, lá có màu xanh đậm hoặc xanh nhạt phụ thuộc vào các giống khác nhau [9].
Hoa: hoa tự nhóm họp dày đặc trên đế hoa, trong đó có 4÷6 hoa đơn,
lưỡng tính. Mỗi hoa đơn hình ống có cấu trúc gồm 1 đế tròn, với 5 dải màu
xanh, 5 cánh tràng hoa màu trắng dài khoảng 5mm, các lá bắc tiêu giảm
thành sợi để dễ phát tán, nhị 4÷5 dính trên tràng có màu vàng sáng, các chỉ
nhị rời còn bao phấn dính mép với nhau, đính gốc và kéo dài lên phía trên
bởi 1 phần của trung đới. Bầu hạ 1 ô, 1 noãn, vòi nhụy mảnh chẻ đôi, các
nhánh hình chỉ cao hơn bao phấn, do đó khả năng tự thụ phấn hoặc hầu như
không có [9].
Quả và hạt: quả cỏ ngọt nhỏ, thuộc loại quả bế, khi chín màu nâu sẫm, 5
cánh dài từ 2÷2,5mm. Hạt có 2 vỏ hạt, có phôi nhưng nội nhũ trần nên tỷ lệ nảy
mầm thấp, hạt dễ mất sức sống khi bảo quản [9].
1.1.4. Các chất chính trong lá cây cỏ ngọt
Từ năm 1908 Resenack, năm 1909 Dieterick đã phân ly được Glucoside từ
lá cỏ ngọt. Năm 1931 Bridel và Navieille tìm được Glucoside đó là Stevioside.

Bằng phương pháp sắc ký bản mỏng và một số phương pháp sắc ký khác người
ta đã tìm thấy các chất ngọt có trong lá cây Cỏ ngọt. Kết quả thu được 9 chất
khác nhau từ lá Cỏ ngọt, nhưng chủ yếu gồm bốn chất chính: stevioside
(5÷10%), rebaudioside A (2÷4%), rebaudioside C (1÷2%), và dulcoside A
(0,5÷1%). Hai loại phụ là rebaudioside D và E [2].
6
Bảng 1.1. Thành phần chính trong lá cây cỏ ngọt
TT Tên chất ngọt
Độ ngọt so với đường mía
(Saccarose =1)
1 Stevioside 1 100÷125
2 Rubuoside 100÷120
3 Stevioside 2 150÷300
4 Rebaudioside A 250÷450
5 Rebaudioside B 300÷350
6 Rebaudioside C 120÷500
7 Rebaudioside D 250÷450
8 Rebaudioside E 150÷300
9 Dulcoside A 50÷120
(Nguồn: Kết quả phân tích của tập đoàn PureCircle, năm 1983)
1.1.5. Giá trị của cây cỏ ngọt
Cây cỏ ngọt không chỉ có nhiều hữu ích trong ngành dược, mà còn là cây
trồng có giá trị kinh tế rất cao. Trên thị trường Pháp, giá cỏ ngọt rất cao khoảng
10÷15 EURO cho 50 gam bột tinh chất. Tuy nhiên, có dự đoán cho rằng chỉ
trong vòng 5 năm tới, stevia-cỏ ngọt sẽ có thể chiếm được từ 20÷25% thị phần
của đường thực phẩm [5]
Cỏ ngọt ở Việt Nam chỉ hái lá khô để bán, làm thuốc bắc, nấu chè, hay sơ
chế, nên giá trị thật của nó chưa cao. Trong khi, theo tính toán, 10 kg lá khô = 1
kg đường, bán ra với giá 130÷150 USD/kg. Như vậy, lợi nhuận từ lá cỏ ngọt chế
biến ra đường là rất cao. Cỏ ngọt cho thu hoạch 5÷6 lứa/năm, sau 4 năm mới

phải trồng lại cây mới. Hơn nữa, giống cây này ít sâu bệnh, việc sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật hạn chế nên chi phí sản xuất thấp. Theo tính toán, tổng chi phí
trồng cỏ ngọt năm thứ nhất là 85,3 triệu đồng/ha, năm thứ hai là 50,8 triệu
đồng/ha. Mỗi hecta cỏ ngọt thu được khoảng 7 tấn cây khô, doanh thu đạt 210
triệu đồng/ha, trừ chi phí đi cho thu 130÷150 triệu đồng/ha.
Thực tế ở Hải Dương, người dân đã thu được lợi nhuận từ cỏ ngọt hàng
chục năm nay rồi, ngay ở Hà Nội có nhà chỉ bán cây giống, thu hơn 500
7
triệu/năm. Chị Nguyễn Thị Dung (xóm Nam Hạ, thôn Đại Cát, xã Liên Mạc, Từ
Liêm, Hà Nội) có diện tích đất hơn 1 mẫu trước chỉ trồng đỗ, trồng ngô, nay
được gia đình tận dụng toàn bộ trồng cây giống cỏ ngọt. Với mức giá trung bình
300 đồng/cây, trung bình một tháng bán ra thị trường từ 5÷10 vạn giống, trừ các
chi phí gia đình cũng thu về 4÷5 triệu đồng/tháng.
Thay vì bán cây giống, nhiều người dân xã An Vĩ (Khoái Châu, Hưng yên)
lại chủ yếu bán sản phẩm cỏ ngọt dưới dạng khô cành và khô lá. Gia đình ông
Nguyễn Văn Lân thôn Thượng trồng 4 sào cỏ ngọt, trong 6 tháng đầu năm 2012
đã thu hoạch được gần 100 triệu đồng giá trị sản phẩm, trừ các khoản chi
phí: Giống, phân bón, thuốc BVTV còn lãi trên 60 triệu đồng. Từ mấy năm gần
đây diện tích cỏ ngọt của xã này ổn định khoảng 100 mẫu, trung bình mỗi năm
cung ứng ra thị trường hơn 500 tấn sản phẩm cỏ ngọt các loại, doanh thu trên 10
tỷ đồng, hiệu quả sản xuất cao gấp 3÷5 lần so với cây lúa hoặc trồng một số cây
màu trên cùng chân ruộng [5].
Tại Nghệ An, được sự hỗ trợ của Công ty CP Đầu tư phát triển Stevia Á
Châu, cuối năm 2011, gia đình ông Nguyễn Xuân Hùng xóm 3 xã Quỳnh Vinh,
huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đã đưa cây cỏ ngọt vào trồng trên diện tích 3
sào trước đây chuyên trồng ngô. Mỗi sào cỏ ngọt cho thu hoạch trên 10 triệu
đồng mỗi năm, cao hơn rất nhiều so với các loại cây trồng truyền thống trước đây
như ngô, lúa, lạc của gia đình. Loại cây này có đặc điểm là dễ trồng, ít sâu bệnh,
chi phí thấp, dễ chăm sóc, phù hợp với nhiều loại chân đất khác nhau, đồng thời
cũng cho năng suất và hiệu quả cao và đặc biệt có khả năng chống chịu tốt với

điều kiện thời tiết của vùng Quỳnh Lưu. Sau 3 tháng trồng cỏ ngọt bắt đầu cho
thu hoạch, trong thời gian 2 năm cho thu hoạch khoảng từ 5÷7 đợt. Sản phẩm thu
hoạch về được công ty Á Châu trực tiếp thu mua với giá bán khô 12,5 triệu
đồng/tấn, bán tươi 6,5 triệu đồng/tấn. Nếu được đầu tư chăm sóc tốt, 1 ha cỏ ngọt
có thể thu về từ 130÷150 triệu đồng [6].
Cây cỏ ngọt mới phát triển ở Nghệ An khoảng 2 năm, được trồng đầu tiên ở
xã Nghi Đồng (huyện Nghi Lộc). Nhận thấy đây là loại cây có thể phát triển
được ở địa phương, nhiều huyện đã chủ động liên hệ với Công ty Stevia Á Châu
8
để trồng thí điểm, hiệu quả của cây cỏ ngọt đã được khẳng định, từ chỗ chỉ có vài
hộ tham gia trồng sau đã được nhân rộng rất nhiều hộ trong các huyện. Dù trồng
trong điều kiện thời tiết không thuận lợi nhưng bình quân mỗi lần thu hoạch
khoảng 6 tạ/sào, thậm chí có hộ đạt 9÷10 tạ/sào, giá trị thu nhập đạt khoảng
3,5÷4,7 triệu đồng/sào/lần thu hoạch. Nếu chăm sóc đúng kỹ thuật và thời tiết
thuận lợi thì 2 tháng cho thu hoạch một lần, 1 năm có thể thu hoạch 4÷5 lần giá
trị kinh tế gấp 3÷4 lần so với trồng lạc, lúa [11]
Làm cỏ ngọt không khó nhưng lại đòi hỏi công nghệ cao, trong khi nông
dân của mình là nông dân theo công nghệ thấp, nên doanh nghiệp phải biến họ
thành công nhân, đào tạo bài bản về quy trình thực hiện thì ta mới có thể làm
được cỏ ngọt giá trị cao hơn nữa.
1.1.6. Sơ chế các sản phẩm từ cỏ ngọt
Cỏ ngọt có thể làm nguyên liệu và các thành phẩm sau:
- Lá khô (làm trà đơn hoặc phối hợp với atisô, . . .); làm xi rô, bột, hoặc
chiết xuất steviosid để tẩm vào trà Nhân sâm - Đương quy-Nhân trần, . . .
- Tinh thể hay bột steviosid (để cho vào cà phê, nước giải khát, chè ngọt,
bánh mứt kẹo, . . .).
- Với trà Cỏ ngọt bán trên thị trường là những gói cành lá cỏ ngọt khô, có
thể dùng để sắc uống với liều 3÷9 g/ngày. Có thể sắc lấy nước đặc hơn để cho vô
chè, cháo, cà phê, . . . thay đường.
- Xay nhuyễn lá cỏ khô thành bột, dùng thay thế cho đường kính.

- Xiro cỏ ngọt: Trong điều kiện gia đình có thể làm xiro bằng cách cho cỏ
ngọt tươi + ít nước (cỏ khô thì cho nước đảo đều cho cây ngấm nước) vào nồi áp
suất nấu khoảng 10÷15p. Chắt nước ra được dung dịch màu nâu, có mùi thơm
đặc trưng. Đun sôi nước cỏ ngọt thêm một lúc để cô đặc, làm nguội, lắng cặn,
cho vào chai. Nước xiro có vị ngọt đậm, dùng thay đường trong nêm các món ăn.
Do đặc tính không lên men, kháng khuẩn nên xiro cỏ ngọt có thể bảo quản được
khá lâu.
Phần xác cỏ (đã giảm ngọt) phơi khô (có màu đen) được dùng như cam thảo
hoặc một loại trà ngọt nhẹ, không còn mùi ngái như cỏ khô nguyên chất.
9
Bảo quản: Để nguyên cành lá khi thu hoạch cỏ, chất ngọt trong cỏ bị giảm
nếu: khi rửa làm giập cỏ ngọt tươi; rửa cỏ đã héo hoặc khô (tốt nhất không rửa).
Tuyệt đối không để bị ướt hay trúng mưa trong khi hong phơi, thành phần ngọt
trong lá sẽ tan ra ngoài, làm giảm chất lượng sản phẩm.
Để sản phẩm lá khô có chất lượng cao, cần đảm bảo các đặc điểm: lá khô có
một phần cành ngọn, có màu xanh tự nhiên của cây, có mùi cỏ khô mới và mùi
thơm đặc trưng.
Hình 1.1. Dây chuyền chế biến cỏ ngọt thành đường [10]
(Nguồn: Trần Đình Long, CT. Hiệp hội giống cây trồng Việt Nam, 2012).
Cách khử mùi ngái: Cỏ ngọt mới làm khô sau khi thu hoạch thường có mùi
ngái, gây khó chịu cho một số người. Phun nước vào cỏ ngọt khô để làm ẩm đều.
Cho vào túi kín, ủ 2÷3 ngày rồi đem phơi hoặc sấy khô sẽ hết mùi ngái mà không
giảm độ ngọt.
Mục tiêu tốt nhất của cây cỏ ngọt không chỉ là bán lá khô mà vừa làm lá
khô nhưng phải có dây chuyền chế biến cỏ ngọt thành đường. Tuy nhiên, dây
chuyền chủ yếu chỉ có ở Canada, Đức, Paraguay, Peru. Do vậy, Việt Nam cần
10
nhập dây chuyền chế biến tối thiểu từ 3-5 triệu USD (60÷100 tỷ đồng) mới có thể
chế ra 60 tấn đường/năm, như vậy sẽ đạt được lợi nhuận cao nhất.
1.1.7. Triển vọng sản xuất và đầu ra cho cây cỏ ngọt Việt Nam

Theo Hiệp hội Giống cây trồng Việt Nam (VSA) thuộc Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn (NN & PTNT), đầu ra cho sản phẩm cây cỏ ngọt là rất khả
quan và có thể không lâu trong thời gian tới, chế phẩm từ cỏ ngọt Việt Nam sẽ có
mặt tại thị trường Mỹ.
Giáo sư Trần Đình Long - Chủ tịch VSA khẳng định, hiện nay thị trường của
sản phẩm đường sản xuất từ cây cỏ ngọt tương đối khả quan, đặc biệt là hai thị
trường lớn là Mỹ và châu Âu (EU). Nhiều doanh nghiệp của Mỹ và EU đã đề xuất
mua toàn bộ các chế phẩm cỏ ngọt của Việt Nam nếu chúng ta sản xuất được.
Ngày 15/3, Bộ NN & PTNT đã có văn bản đề nghị VSA phối hợp với
các cơ quan chức năng của Bộ, xây dựng Đề án nghiên cứu, sản xuất, chế biến
và tiêu thụ cỏ ngọt theo hướng công nghệ cao tại Việt Nam. Theo Bộ NN &
PTNT, cỏ ngọt là loại cây trồng không tranh chấp với đất trồng lúa, có nhiều
công dụng quý. Quy trình nhân giống và kỹ thuật canh tác đơn giản, đầu tư
không cao, năng suất ổn định, dễ tiêu thụ và hiệu quả kinh tế cao. Hiện, cây cỏ
ngọt đã được trồng tại Cao Bằng, Hà Giang, Hà Nội, Hòa Bình, Hưng Yên,
Thái Bình, Nghệ An, Lâm Đồng, . . Việc nghiên cứu, khảo nghiệm, sản xuất
thử cho thấy: Cỏ ngọt phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu của nhiều vùng sinh
thái tại Việt Nam [3].
Ngày 4/1/2011, ông George Blankenbaker, đại diện Tập đoàn PurCircle đã
có buổi làm việc với UBND tỉnh Nghệ An. Ông này cho hay: Dự án chuyển đổi
cơ cấu mùa vụ, trồng cây cỏ ngọt Stevia làm nguyên liệu chiết xuất đường Reb-A
tại tỉnh Nghệ An quy mô dự kiến 5.000 ha nhằm hướng đến mục tiêu xây dựng
nhà máy chiết xuất đường Reb-A thương mại đầu tiên tại Việt Nam của Tập đoàn
PureCircle. Cty CP Á Châu là đối tác chiến lược duy nhất của Tập đoàn tại miền
Trung Việt Nam.
Trước mắt khi vùng nguyên liệu chưa ổn định 500 ha để xây dựng nhà
máy (năm 2013), Tập đoàn cam kết bao tiêu toàn bộ sản phẩm lá khô cỏ ngọt
11
mà người dân ký hợp đồng sản xuất với Cty CP Á Châu, . . . Chính vì vậy để
xúc tiến nhanh dự án này, ngày 8/3/2011, Sở NN và PTNT Nghệ An lại có

công văn số 291 về việc thực hiện thông báo của UBND tỉnh, trong đó Sở NN
và PTNT đã giao cho Đoàn quy hoạch Nông nghiệp và thủy lợi rà soát sơ bộ
tất cả các huyện trên nguyên tắc không chồng lấn với các quy hoạch khác đã
được UBND tỉnh phê duyệt và đưa ra diện tích dự kiến có thể chuyển đổi
trồng cỏ ngọt lên 5.000 ha.
Trong đó các huyện như Quỳnh Lưu và Nam Đàn, mỗi huyện 1.000 ha; 6
huyện còn lại là Diễn Châu, Yên Thành, Đô Lương, Hưng Nguyên, Nghi Lộc và
Thanh Chương mỗi huyện quy hoạch 500 ha để trình UBND tỉnh chấp nhận cho
nhà đầu tư thực hiện dự án, đồng thời yêu cầu Cty CP Á Châu phải ký hợp đồng
và bao tiêu sản phẩm cho dân trong vùng quy hoạch
Tháng 5/2011, UBND tỉnh Nghệ An đã đồng ý chủ trương cho Cty CP Á
Châu đầu tư dự án này và giao Sở NN và PTNT Nghệ An chủ trì phối hợp với các
Sở, ngành liên quan, căn cứ quy hoạch chung của tỉnh và các quy hoạch khác [4]
1.1.8. Yêu cầu ngoại cảnh cây Cỏ ngọt
+ Yêu cầu về nhiệt độ
Nhiệt độ ảnh hưởng lớn đến điều kiện sinh trưởng và phát triển của cây cỏ
ngọt. Cỏ ngọt có thể sinh trưởng ở nhiệt độ 10÷35 °C. Nhiệt độ tốt nhất từ 20÷30
°C cây sinh trưởng tốt, cho năng suất cao. Nếu nhiệt độ 30÷35 °C mà đảm bảo
ẩm độ tốt cây vẫn sinh trưởng và cho thu hoạch tốt. Tuy nhiên tùy từng giai đoạn
sinh trưởng và phát triển của cây mà yêu cầu nhiệt độ của từng thời kỳ cũng khác
nhau. Thời kỳ nảy mầm, nhiệt độ thích hợp cho việc nảy mầm từ 20÷25 °C, nhiệt
độ dưới 15 °C hạt không nảy mầm, trên 35 °C hạt sẽ chết, với giâm cành yêu cầu
nhiệt độ từ 25÷30 °C, với cây trưởng thành nhiệt độ thích hợp nhất cho cây phát
triển từ 25÷30 °C [9].
+ Yêu cầu về đất và dinh dưỡng
Cỏ ngọt có thể sinh trưởng và phát triển ở hầu hết các loại đất, nhưng cho
năng suất cao hơn trên nền đất có tầng canh tác dày, tơi xốp, màu mỡ, có mực
12
nước ngầm thấp, thành phần cơ giới nhẹ. Thích hợp là đất thịt pha cát, độ mùn
cao, độ pH 6÷7 [9].

+ Dinh dưỡng khoáng:
Cỏ ngọt là cây cho thu hoạch nhiều lứa và phần sử dụng chủ yếu là lá nên
cây yêu cầu về dinh dưỡng khoáng lớn. Cho nên việc bón phân là biện pháp tích
cực làm tăng năng suất cỏ ngọt. Đạm, lân, kali là 3 nguyên tố cơ bản xây dựng
nên chất hữu cơ và năng suất cỏ ngọt, đặc biệt là phân đạm [9].
+ Yêu cầu về nước và độ ẩm
- Nước: Cỏ ngọt là cây sợ úng nhưng lại ưa ẩm. Cung cấp đủ nước, đảm
bảo độ ẩm cây sẽ sinh trưởng tốt, khỏe, tuổi thọ kéo dài, nhiều cành và cho sản
lượng thu hoạch cao, ngoài ra còn tăng số lần thu hoạch trong năm. Nếu thiếu
nước cây sinh trưởng kém, còi cọc, lá nhỏ, khả năng ra cành yếu dẫn đến năng suất
thu hoạch giảm [9].
- Độ ẩm: Tuỳ từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây cỏ ngọt mà
yêu cầu về độ ẩm của cây cũng khác nhau. Thời kỳ nẩy mầm ẩm độ 60÷85%,
giai đoạn giâm cành yêu cầu độ ẩm từ 70÷80% thì cành giâm có tỷ lệ sống cao
và cây con có chất lượng tốt. Cây trưởng thành độ ẩm thích hợp nhất cho cây
phát triển từ 70÷75%. Thời kỳ thu hoạch yêu cầu độ ẩm đất 60÷70%.
+ Ánh sáng
Cỏ ngọt là cây ưa sáng và cường độ ánh sáng mạnh, do đó cỏ ngọt
sinh trưởng tốt và cho năng suất cao ở thời kỳ từ tháng 3÷10 dương lịch. Từ
tháng 10 cây ra hoa nhanh. Nếu thâm canh tốt cây vẫn cho thu hoạch trong
mùa đông [9].
1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu cỏ ngọt trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất và nghiên cứu cỏ ngọt trên thế giới
Ngày 4 tháng 7 năm 2008 Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên Hiệp
Quốc FAO phê chuẩn và Cục quản lý dược và thực phẩm Mỹ FDA cho phép vào
ngày 17 tháng 12 năm 2008 về việc sử dụng cây cỏ ngọt để chế xuất làm chất
ngọt. Đường chiết xuất từ cây cỏ ngọt đang trở thành mặt hàng thiết yếu và an
13
toàn, cụ thể các hãng thực phẩm lớn trên thế giới như Coca, Pepsi, . . . đang sử
dụng đường cỏ ngọt thay đường mía [25].

Ngày nay, cây cỏ ngọt được trồng tại rất nhiều quốc gia như: Brasil,
Argentina, Paraguay, Mexico, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái
Lan, Việt Nam, Israel và Mỹ, . . . Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có thống kê cụ thể
về tình hình sản xuất cây cỏ ngọt của các nước trên thế giới. Hiện nay, Trung
Quốc là quốc gia có diện tích trồng cỏ ngọt lớn nhất thế giới với diện tích trồng
lên tới 300.000 ha [12].
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất và sử dụng cỏ ngọt ở một số nước trên thế giới
Năm
Sản
lượng
Nguồn lá Cỏ ngọt (tấn)
Nhật Bản
Hàn
Quốc
Đài Loan
Trung
Quốc
Các nước
khác*
1982 700 200 30 200 200 70
1983 1000 300 30 150 450 70
1984 1400 200 0 200 1000 0
1985 1600 200 0 150 1200 50
1986 1500 200 0 150 1100 50
1987 1700 200 0 200 1300 100

*Các nước khác gồm: Paraguay, Braxin, Thái Lan, Malaixia
(Nguồn: Thống kê của phòng kế hoạch - công ty CP Stevia Ventures)
Theo các tài liệu mới nhất thì PureCircle là hãng sản xuất cỏ ngọt lớn nhất
thế giới hiện nay, chiếm khoảng 60% sản lượng cỏ ngọt trên toàn thế giới. Tập

đoàn này đã sản xuất cỏ ngọt tại Trung Quốc, Kenya, Paraguay và thông qua
công ty Growers Fresh Ptd Ltd, đang lập kế hoạch mở rộng sang Việt Nam.
PureCircle sản xuất ra 40.000 tấn đường chiết xuất từ cỏ ngọt trong những năm
qua, và dự kiến sẽ tăng sản lượng lên gấp 4 lần con số trên trong một vài năm tới.
14
Triển vọng này cũng đồng nghĩa với việc các quốc gia tiềm năng rồi đây sẽ dành
một diện tích canh tác khổng lồ để trồng cây Stevia bởi phần chất ngọt
Rebaudioside A có giá trị thương mại chỉ chiếm khoảng 8% trong mỗi chiếc lá
của nó [30].
Nhật Bản là quốc gia sử dụng nhiều nhất trên thế giới, mỗi năm kỹ nghệ Nhật
tiêu thụ từ 700 tấn đến 1.000 tấn lá cỏ ngọt. Hằng năm ở Nhật Bản người ta đã sử
dụng tới 45÷53 tấn Steviosid trong công nghiệp mứt kẹo, nước hoa quả, rượu màu.
Còn ở Paraguay, nơi đã sinh ra cây trồng này, người ta dùng pha với trà làm nước
giải khát. Hiện nay theo các tài liệu đã công bố, 3 nước dùng cỏ ngọt trong công
nghiệp thực phẩm nhiều nhất là Nhật Bản, Brasil và Paraguay [12].
Hiện nay trên thế giới, theo kết quả nghiên cứu về tính an toàn của các
chất phụ gia thực phẩm, người ta đã kiến nghị cấm dùng một số chất ngọt
có hại cho người như cyclamat và saccharin đang có lẫn trong các loại thực
phẩm, rượu và nước ngọt. Ở các nước phát triển và thành thị các nước đang
phát triển phải hạn chế sử dụng các chất ngọt có năng lượng cao như đường
mía, đường bắp, mật và bột ngũ cốc, . . . người ta đã đề nghị sử dụng chất
ngọt từ cỏ ngọt với mục đích thay thế cho các thức ăn giàu Calori, đáp ứng
nhu cầu cho người bị bệnh đái tháo đường, cao huyết áp, béo phì, . . . Từ
năm 1991 ở các nước này dự kiến giảm 30% đường có năng lượng cao bằng
các loại chất ngọt thay thế đường có năng lượng thấp, người ta sử dụng
steviosid từ cỏ ngọt để làm phụ gia trong công nghiệp thực phẩm. Ngoài ra
người ta còn dùng nó để chế biến các loại kem đánh răng, kem làm mềm da,
sữa làm mượt tóc, . . .[1].
Các nước trên thế giới đã nghiên cứu trồng và chọn tạo giống cỏ ngọt từ rất
lâu. Đặc biệt là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và Nga đã có nhiều

thành công trong việc chọn lọc và tạo ra được một số giống mới có năng suất và
hàm lượng stevioside cao hơn giống nguyên thủy.

Bảng 1.3. Một số giống mới được chọn lọc và phát triển trong trồng trọt
15
Năm Quốc gia Giống mới Đặc trưng
1979 Hàn Quốc Suweon 2
Năng suất tăng 22%,
Steviosides tăng 12%
1982 Hàn Quốc Suweon 1 Lá dày, tỷ lệ R-A cao
1989 Trung Quốc Yunri, Yunbing
1994 Đài Loan K1, K2, K3
Năng suất cao, tỷ lệ hàm lượng
R-A/Steviosides tăng
1994 Indonesia BPP72
1995 Trung Quốc Zongping 1 Tỷ lệ R-A và Steviosides cao
1996 Nga Ramonskaya Slastena
1996 Trung Quốc SM4
Năng suất tăng 1,5%, tỷ lệ R-
A/Steviosides tăng
(Nguồn: David J. Midmore v Andrew H. Rank, 2002à )[17]
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học hiện đại, đặc biệt là lĩnh
vực sinh học, con người đã và đang sử dụng phương pháp nuôi cấy mô tế bào
thực vật (in vitro) trong quá trình sản xuất giống cây trồng nhằm tăng nhanh số
lượng nhưng vẫn đáp ứng được chất lượng giống cây trồng [22]. Nhân giống cỏ
ngọt bằng nuôi cấy in vitro bước đầu cũng đã thành công trong việc nhân giống
vào vụ đông để kịp thời cung cấp giống cho việc trồng cây vào vụ xuân. Phương
pháp này cho cây ở thời gian đầu trên ruộng sản xuất sinh trưởng chậm hơn so
với cây cỏ ngọt tách từ thân. Tuy nhiên, chu kỳ sinh trưởng của cỏ ngọt nuôi cấy
in vitro kéo dài hơn, cây sạch bệnh [18]

Theo Shock (1982), điều kiện khí hậu lý tưởng cho cây cỏ ngọt phát triển là
khí hậu cận nhiệt đới với nhiệt độ trung bình hàng năm là khoảng 24°C, lượng
mưa 1400mm (Shock, C.C, 1982) [21].
Theo Madan và cs (2009) sản lượng lá cỏ ngọt tăng khi tăng mật độ trồng
từ 83.000 cây/ha lên 111.000 cây/ha đối với năm đầu tiên [15]
Theo Naghdi badi và cs (2004) các nhân tố nông học như mật độ và ngày
trồng có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và chất lượng của stevia; họ đã
nghiên cứu với các mật độ trồng 15 cm x 50 cm, 30 cm x 50 cm, 45 cm x 50
16
cm ở 3 giai đoạn thu hoạch kết quả họ thu được là ở mật độ trồng 15 cm x 50
cm và giai đoạn thu hoạch khi cây bắt đầu nở hoa cho sản lượng dầu và năng
suất đạt cao nhất [19].
Theo các nhà khoa học Ấn độ mức dinh dưỡng để đạt hiệu quả tối ưu về
kinh tế nhất cho việc trồng stevia là mức bón NPK với tỉ lệ 300:150:100
kg/ha/năm với 5 lần bón cho 5 lần thu hoạch trong một năm [22]
Theo kết quả nghiên cứu của khoa nông học, trường đại học nông nghiệp
Punjab, Ấn độ, họ đã nghiên cứu ảnh hưởng của 4 mức phân chuồng (0, 15, 30,
45 tấn/ha) và 4 mức bón đạm (0, 20, 40, 60 kg/ha), kết quả thu được là cây stevia
phát triển tốt nhất ở mức bón 45 tấn phân chuồng/ha và sản lượng lá khô đạt cao
nhất ở mức đạm 60 kg/ha (1080 kg/ha) [23]
1.2.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu cỏ ngọt ở Việt Nam
Stevia rebaudiana Bertoni đã được du nhập vào Việt Nam từ đầu những
năm 1990 bởi Trung tâm giống cây trồng Việt Nga do Giáo sư Viện sỹ Trần
Đình Long giới thiệu. Qua gần 20 năm, cũng giống tình trạng chung của cây Cỏ
ngọt trên thế giới, cây cỏ ngọt Việt Nam chủ yếu được trồng phân tán cục bộ
phục vụ mục đích tiêu thụ đông y và làm trà thảo mộc nội địa. Đầu ra chủ yếu là
các nhà máy sản xuất chế biến trà và các tổ hợp đông y truyền thống. Từ một vài
năm trở lại đây, do nhu cầu dần tăng cao, bán cho thương lái được giá, nông dân
các vùng đã mở rộng diện tích canh tác một cách tự phát. Tổng cộng diện tích
cây Cỏ ngọt toàn quốc hiện nay vào khoảng trên dưới 40 ha, phân bố rải rác tại

các địa phương như Hoà Bình, Bắc Kạn, Thái Bình và Hưng Yên. Đây cũng
chính là ngưỡng tới hạn của diện tích canh tác do tính hạn chế của đầu ra thị
trường nội địa. Chính vì lý do này mà mặc dù trong năm vừa qua, các địa phương
trồng cây cỏ ngọt có thu nhập rất cao (gấp 6 lần cây lúa và màu) nhưng cũng
không thể nhân rộng diện tích canh tác.
Kết quả của một số nghiên cứu về cây cỏ ngọt tại Việt Nam như sau:
Bảng 1.4. Ảnh hưởng của mật độ và khoảng cách trồng đến năng suất
Khoảng
cách
Mật độ
Năng suất
NS NS khô NS lá khô
17

×