Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Ảnh hưởng của phân bón viên nén nhả chậm đến một số giống lúa vụ xuân tại huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.47 KB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM TIẾN NAM
ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN BÓN VIÊN NÉN NHẢ
CHẬM ĐẾN MỘT SỐ GIỐNG LÚA VỤ XUÂN
TẠI HUYỆN THẠCH HÀ, HÀ TĨNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
NGHỆ AN, 2014
i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM TIẾN NAM
ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN BÓN VIÊN NÉN NHẢ
CHẬM ĐẾN MỘT SỐ GIỐNG LÚA
VỤ XUÂN TẠI HUYỆN THẠCH HÀ, HÀ TĨNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 60 62 01 10
Người hướng dẫn khoa học: TS Trương Xuân Sinh

ii
NGHỆ AN, 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn
này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được
chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả



Phạm Tiến Nam
iii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, trước hết tôi xin trân trọng và bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo - Tiến sỹ Trương Xuân Sinh - Khoa Nông
Lâm Ngư, Trường Đại học Vinh đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, đóng góp
nhiều ý kiến quý báu trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể các Thầy Cô giáo khoa Nông Lâm
Ngư - Trường Đại học Vinh, Lãnh đạo Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện
Thạch Hà, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trung tâm ứng dụng
và bảo vệ cây trồng vật nuôi huyện Thạch Hà – Hà Tĩnh và các đồng nghiệp
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và thực
hiện đề tài.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự động viên, hỗ trợ rất
lớn về mặt vật chất và tinh thần của gia đình, bạn bè.
Tôi xin trân trọng những tình cảm cao quý đó!
Nghệ An, ngày 09 tháng 9 năm 2014
Tác giả luận văn
Phạm Tiến Nam
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TGST : Thời gian sinh trưởng
S.E.S : Hệ thống đánh giá tiêu chuẩn trên cây lúa
FAO : Tổ chức Nông lương thế giới
IRRI : Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế
NS : Năng suất
NSLT : Năng suất lý thuyết
NSTT : Năng suất thực thu
TLHC : Tỷ lệ hạt chắc

P1000 : Khối lượng 1000 hạt
CCCC : Chiều cao cuối cùng
NHH : Nhánh hữu hiệu
TSC : Tuần sau cấy
LA : Diện tích lá
LAI : Chỉ số diện tích lá
KTT : Kết thúc trỗ
ĐNHH : Đẻ nhánh hữu hiệu
v
MỤC LỤC
* Khí hậu 18
Kết luận: 71
vi
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đã từ lâu, cây lúa trở thành cây lương thực chủ yếu, có ý nghĩa đáng kể trong
nền kinh tế và xã hội nước ta. Với địa bàn trải dài trên 15 vĩ độ Bắc bán cầu, từ Bắc
vào Nam đã hình thành những vùng đồng bằng châu thổ trồng lúa phì nhiêu.
Trong những năm qua, chính phủ đã quan tâm cải tạo cơ sở hạ tầng cho
các công trình thuỷ lợi, diện tích gieo trồng lúa đã mở rộng hơn và hệ số luân
canh tăng theo. Nhiều vùng trước đây chỉ trồng một vụ lúa nay đã trồng được 2-3
vụ. Từ 1989 Việt Nam đã tự túc được lương thực và duy trì lượng gạo xuất khẩu
ngày một tăng. Cộng đồng quốc tế đánh giá cao những thành tựu của Việt Nam
trong việc giải quyết các vấn đề an ninh lương thực. Sản lượng lúa của Việt Nam
từ 24,9 triệu tấn năm 1995 đã tăng lên 35,9 triệu tấn năm 2007, bình quân tăng
1,1 triệu tấn/năm, đạt mức tăng trưởng cao nhất khu vực và trên thế giới.
Điều đáng chú ý là trong khi diện tích lúa giảm từ 7.666 nghìn ha năm
2000 xuống 7.201 nghìn ha năm 2007, nhưng sản lượng lúa vẫn tăng từ 32.529
nghìn tấn năm 2000 lên 35.927 nghìn tấn năm 2007 (Niên giám thống kê, 2007).
Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, xu hướng đô thị hoá, công nghiệp hoá đang

diễn ra mạnh, dân số liên tục tăng làm cho diện tích đất nông nghiệp nói chung
và diện tích đất trồng lúa nói riêng ngày càng bị thu hẹp. Vì vậy, vấn đề cấp thiết
đặt ra ở đây là cần phải nâng cao hơn nữa năng suất và chất lượng lúa, nhằm đáp
ứng được nhu cầu lương thực cho người dân và cho xuất khẩu.
Cây lúa cũng giống như nhiều loại cây trồng khác yêu cầu nhiều loại
nguyên tố dinh dưỡng, trong đó gồm những nguyên tố không thể thiếu là C, H,
O, N, P, K, S, Ca, Mg, Zn, Fe, Cu, Mo, Bo, Mn và các nguyên tố vi lượng khác.
Khi có đầy đủ các chất dinh dưỡng cây lúa mới có thể sinh trưởng, phát triển
bình thường và cho năng suất. Lúa là cây trồng cần tương đối nhiều phân, phải
bón nhiều phân một cách hợp lý mới có thể đạt năng suất cao. Nếu bón phân
không cân đối, không hợp lý làm cho lúa sinh trưởng, phát triển không bình
thường và làm giảm năng suất.
1
Do vậy quan hệ giữa lượng phân bón và năng suất là mối quan hệ có tính
chất quy luật nhất định. Khi căn cứ vào các chỉ tiêu sản xuất để xác định mức độ
phân bón cần xem xét toàn diện, kết hợp giữa giống, đất đai, mật độ cấy, các biện
pháp trồng trọt khác với điều kiện ngoại cảnh bên ngoài. Tuy nhiên hậu quả của việc
bón phân hoá học quá nhiều là làm cho chất lượng nông sản ngày càng giảm sút.
Phân bón là cơ sở cho việc tăng năng suất lúa. Từ lâu các nhà khoa học
trong và ngoài nước có nhiều công trình nghiên cứu về phân bón cho lúa.
Trong các loại phân đa lượng thì đạm, lân, kali đều rất quan trọng cho cây lúa
do vậy các công trình nghiên cứu cho việc bón phân NPK hợp lý là điều
không thể thiếu để tăng năng suất lúa.
Từ trước tới nay có rất nhiều nghiên cứu về bón phân cho lúa và các
nghiên cứu này đều khẳng định là hiệu quả sử dụng phân đạm đối với lúa nước
không cao. Nguyên nhân của hiệu quả sử dụng phân bón thấp là do đạm trong đất
lúa bị mất đi qua các con đường sau: Do bốc hơi dưới dạng NH
3
, do rửa trôi bề
mặt khi nước tràn bờ, do rửa trôi theo chiều sâu nhất là dạng nitrat (NO

3
-
), bay
hơi dưới dạng N
2
do hiện tượng phản nitrat hoá.
Theo kết quả nghiên cứu của trung tâm phát triển phân bón quốc tế
(IFDC) thì cây lúa chỉ hút được 30% lượng đạm được bón cho lúa nếu bón theo
phương pháp vãi trên mặt ruộng. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu về dinh dưỡng đạm
cho cây lúa, người nông dân phải bón lượng đạm gấp 3 lần lượng đạm cây lúa
cần hút. Điều đó dẫn đến tăng chi phí, tăng giá thành trong sản xuất lúa. Hơn
nữa, nó có thể gây ô nhiễm nước ngầm bởi NO
3
-
bị rửa trôi theo chiều sâu. Quá
trình mất đạm xảy ra mạnh hay yếu chủ yếu phụ thuộc vào loại hệ thống nông
nghiệp, đặc điểm đất đai, phương thức canh tác, biện pháp bón phân và điều kiện
thời tiết. Đối với đất ngập nước, việc mất đạm dưới dạng khí NH
3
và phản đạm
hoá là hai quá trình chủ yếu.
Ở lúa cấy, lượng NH
3
mất đi do bay hơi có thể từ 20% đến trên 80% tổng
lượng đạm mất từ phân bón. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc mất NH
3
là nồng độ
amôn, nhiệt độ và pH của dung dịch đất hoặc nước tưới. Ở nước ta hầu hết phân
đạm bón được sử dụng là dạng phân amôn, do vậy việc giải phóng đạm dưới
2

dạng khí từ quá trình nitrat - phản nitrat hoá cần được chú ý. Nitrat hoá là quá
trình oxy hóa nitrat, trong đất quá trình này còn có sự tham gia của các vi khuẩn
tự dưỡng và dị dưỡng. Trong đất lúa ngập nước, quá trình nitrat hoá xảy ra ở lớp
đất mặt và xung quanh bộ rễ lúa, tưới tiêu luân phiên sẽ thúc đẩy quá trình này,
khi tiêu nước quá trình nitrat hoá sẽ được tăng cường. Quá trình phản nitrat hoá
là một quá trình dị hoá nitrat và nitrit thành NO, N
2
O và N
2
, quá trình này chỉ xảy
ra khi độ ẩm trong đất lớn hơn 60%. Nhìn chung lượng đạm bị mất đi do quá
trình phản nitrat hoá đạt lớn nhất khi đất bị ngập nước, bón lượng đạm cao và
hàm lượng các chất hữu cơ trong đất cao.
Nông nghiệp thế kỷ XXI phát triển trên cơ sở đảm bảo an toàn dinh dưỡng
cho cây và đất trồng. Nhiệm vụ của loài người là phải cải tạo một mức nông nghiệp
bền vững trong đó giảm đến mức tối đa việc mất chất dinh dưỡng để không làm ô
nhiễm môi sinh ngăn chặn thải NH4
+
và N03
-
vào nguồn nước sinh hoạt.
Ở Việt Nam, lượng phân hoá học bón cho lúa ngày càng tăng cao qua các
năm thì việc nghiên cứu cách bón phân hợp lý nhằm giảm bớt lượng phân hoá
học bón vào đất, nâng cao năng suất lúa, góp phần bảo vệ môi trường là việc làm
cần thiết và có ý nghĩa nhằm giảm bớt đầu vào cho nông dân canh tác lúa và
giảm ngoại tệ nhập phân bón cho Nhà nước.
Huyện Thạch Hà nói riêng và Tỉnh Hà Tĩnh nói chung cây lúa được xác
định là cây trồng chính, diện tích sản xuất lúa hàng năm của huyện gần 14.000
ha, năng suất bình quân hàng năm đạt từ 47 – 53 tạ/ha, hiệu quả kinh tế trên đơn
vị diện tích trồng lúa đạt còn rất thấp.

Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi đề xuất thực hiện đề tài “Ảnh
hưởng của phân bón viên nén nhả chậm đến một số giống lúa vụ Xuân tại
huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá được tác dụng của phân viên nén nhả chậm đến sự sinh trưởng,
phát triển và năng suất lúa trồng ở vụ xuân 2014 của huyện Thạch Hà;
3
- So sánh hiệu quả kinh tế và năng suất của một số giống lúa vụ Xuân tại
Thạch Hà, Hà Tĩnh được bón phân viên nén nhả chậm so với việc bón các loại
phân thông thường.
- Đồng thời chọn ra được giống lúa thích hợp với bón phân viên nén cho
địa phương.
3. Nội dung nghiên cứu
- Ảnh hưởng của phân viên nén nhả chậm đến sinh trưởng, phát triển và
năng suất của một số giống lúa vụ Xuân ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa khoa học
Đưa ra những dẫn liệu khoa học về ảnh hưởng của phân viên nén nhả
chậm đến sinh trưởng và phát triển của các giống lúa nghiên cứu trồng trên địa
bàn huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh.
Bổ sung những kiến thức mới trong sử dụng phân viên nén bón cho cây
lúa tại Hà Tĩnh cho cán bộ nghiên cứu, giảng dạy và chỉ đạo sản xuất.
* Ý nghĩa thực tiễn.
Khẳng định hiệu quả của phân bón viên nén nhả chậm đến sinh trưởng,
phát triển, năng suất của cây lúa trên địa bàn huyện Thạch Hà nói riêng và Hà
Tĩnh nói chung; Làm cơ sở để nhân rộng phương pháp bón phân viên nén trong
thâm canh lúa áp dụng cho địa bàn huyện Thạch Hà - Hà Tĩnh.
Góp phần thực hiện Đề án tái cấu trúc ngành nông nghiệp của UBND
Tỉnh, Đề án phát triển sản xuất trong xây dựng nông thôn mới. Thực hiện thắng
lợi Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện khóa XXVIII về phát triển nông

nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đề xuất đưa phương pháp bón
phân viên nén nhả chậm vào thâm canh lúa nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trên
một đơn vị diện tích.
4
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở lý luận
Phân bón là thức ăn của cây trồng, nguồn dinh dưỡng chủ yếu cho cây
phát triển. Trên từng loại đất, từng loại cây trồng cũng như ở các giai đoạn
sinh truởng và phát triển mà cây cần những số lượng và chất lượng khác nhau.
Theo khối lượng, chất dinh dưỡng có 2 nhóm, đa lượng: nitơ, photpho, kali và
vi lượng: Mg, Mn, Bo, Zn…. Theo nguồn gốc, phân bón chia thành hai loại:
Phân bón hữu cơ có nguồn gốc từ động thực vật và phân vô cơ được tổng hợp
từ các loại hóa chất hoặc khoáng chất phân rã.
Đối với sản xuất nông nghiệp, phân bón đã góp phần đáng kể làm tăng
năng suất cây trồng, chất lượng nông sản. Theo đánh giá của Viện Dinh dưỡng
Cây trồng Quốc tế (IPNI), phân bón đóng góp khoảng 30-35% tổng sản lượng
cây trồng. Như vậy cho thấy vai trò của phân bón có ảnh hưởng đến năng suất,
sản lượng quốc gia và thu nhập của nông dân thật là to lớn.
Trong các loại phân bón thì phân hoá học có chứa nồng độ các chất
khoáng cao hơn cả. Từ ngày có kỹ nghệ phân hoá học ra đời, năng suất cây trồng
trên thế giới cũng như ở nước ta ngày càng được tăng lên rõ rệt.
Lượng phân bón vô cơ đã sử dụng ở Việt Nam theo Cổng thông tin điện
tử của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn từ năm 2000 đến 2007 của phân
đạm (N), phân lân (P
2
O
5
), phân Kali (K
2
O) và phân hỗn hợp NPK như sau:

Bảng 1.1. Lượng phân bón vô cơ đã sử dụng ở Việt Nam
Đơn vị tính: nghìn tấn
Năm N P
2
O
5
K
2
O NPK N+P
2
O
5
+K
2
O
2000 1332,0 501,0 450,0 180,0 2283,0
2005 1155,1 554,1 354,4 115,9 2063,6
2007 1357,5 551,2 516,5 179,7 2425,2
(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn)
Tuy nhiên không phải cứ bón nhiều phân hoá học thì năng suất cây trồng
5
cứ tăng lên mãi và càng không phải là tất cả lượng phân bón được cho vào đất,
được phun trên lá….cây sẽ hấp thụ hết để nuôi cây lớn lên từng ngày.
Bảng 1.2. Lượng dinh dưỡng cây lúa cần để tạo ra 1 tấn thóc
Yếu tố dinh dưỡng Lượng dinh dưỡng cần để tạo ra 1 tấn thóc (kg)
Tổng cộng Hạt Rơm rạ
N 22,2 14,6 7,6
P
2
O

5
7,1 6,0 1,1
K
2
O 31,6 3,2 28,4
CaO 3,9 0,1 3,8
MgO 4,0 2,3 1,7
S 0,9 0,6 0,3
(Nguồn: Trung tâm TTKHKT hoá chất 1998 - Dẫn theo Nguyễn Như Hà)
Theo số liệu tính toán của các chuyên gia trong lĩnh vực nông hóa học ở
Việt Nam, hiện nay hiệu suất sử dụng phân đạm mới chỉ đạt từ 30-45%, lân từ
40-45% và kali từ 40-50%, tùy theo chân đất, giống cây trồng, thời vụ, phương
pháp bón, loại phân bón… Như vậy, còn 60-65% lượng đạm tương đương với
1,77 triệu tấn urê, 55-60% lượng lân tương đương với 2,07 triệu tấn supe lân và
55-60% lượng kali tương đương với 344 nghìn tấn Kali Clorua (KCl) được bón
vào đất nhưng chưa được cây trồng sử dụng.
Trong số phân bón cây không sử dụng được, một phần còn được giữ lại
trong các keo đất là nguồn dinh dưỡng dự trữ cho vụ sau; một phần bị rửa trôi theo
nước mặt và chảy vào các ao, hồ, sông suối gây ô nhiễm nguồn nước mặt; một
phần bị trực di (thấm rút theo chiều dọc) xuống tầng nước ngầm và một phần bị
bay hơi do tác động của nhiệt độ hay quá trình phản nitrat hóa gây ô nhiễm không
khí….Như vậy gây ô nhiễm môi trường của phân bón trên diện rộng và lâu dài của
phân bó là việc xẩy ra hàng ngày hàng giờ của vùng sản xuất nông nghiệp.
Phân bón đi vào nguồn nước mặt gây ảnh hưởng xấu như: Gây phì hóa
nước và tăng nồng độ nitrat trong nước. Hiện tượng tăng độ phì trong nước (còn
gọi là phú dưỡng) làm cho tảo và thực vật cấp thấp sống trong nước phát triển
6
với tốc độ nhanh trong toàn bộ chiều sâu nhận ánh sáng mặt trời của nước. Lớp
thực vật trôi nổi này làm giảm trầm trọng năng lượng ánh sáng đi tới các lớp nước
phía dưới, vì vậy hiện tượng quang hợp trong các lớp nước phía dưới bị ngăn cản,

lượng oxy được giải phóng ra trong nước bị giảm, các lớp nước này trở nên thiếu
oxy. Mặt khác, khi tảo và thực vật bậc thấp bị chết, xác của chúng bị phân hủy
yếm khí, tạo nên các chất độc hại, có mùi hôi, gây ô nhiễm nguồn nước.
Nồng độ Nitrat trong nước cao (do phân đạm chứa Nitrat) làm ảnh hưởng
đến sức khỏe con người, đặc biệt đối với trẻ em dưới 4 tháng tuổi. Trong đường
ruột, các Nitrat bị khử thành Nitrit, các Nitrit được tạo ra được hấp thụ vào máu
kết hợp với hemoglobin làm khả năng chuyên chở oxy của máu bị giảm. Nitrit
còn là nguyên nhân gây ung thư tiềm tàng.
Phân bón bị rửa trôi theo chiều dọc xuống tầng nước ngầm chủ yếu là phân
đạm vì các loại phân lân và kali dễ dàng được giữ lại trong keo đất. Ngoài phân
đạm đi vào nguồn nước ngầm còn có các loại hóa chất cải tạo đất như vôi, thạch
cao, hợp chất lưu huỳnh, Nếu như phân đạm làm tăng nồng độ nitrat trong nước
ngầm thì các loại hóa chất cải tạo đất làm tăng độ mặn, độ cứng nguồn nước.
Phân bón trong quá trình bảo quản hoặc bón vãi trên bề mặt gây ô nhiễm
không khí do bị nhiệt làm bay hơi khí amoniac có mùi khai, là hợp chất độc hại
cho người và động vật. Mức độ gây ô nhiễm không khí trường hợp này nhỏ, hẹp
không đáng kể so với mức độ gây ô nhiễm của các nhà máy sản xuất phân đạm
nếu như không xử lý triệt để.
Phân bón gây ô nhiễm môi trường là do lượng dư thừa các chất dinh
dưỡng do cây trồng chưa sử dụng được hoặc do bón không đúng cách… Nguyên
nhân chính là do chưa nắm bắt được số lượng, chất lượng và cách bón phân đúng
cách để cây cối hấp thụ.
Phần lớn bà con nông dân sử dụng phân đạm (urê) là chính với số lượng
lớn mà không cân đối với kali, lân… nên hiện tượng lúa lốp, cây dễ nhiễm sâu
bệnh, dễ bị đổ ngã, mía dể đỗ ngã
Cách bón phân hiện nay chủ yếu là bón vãi trên mặt đất, phân bón ít được vùi
7
vào trong đất. Xét về mặt hoá học đất, các keo đất là những keo âm (-) còn các yếu
tố dinh dưỡng hầu hết là mang điện tích dương (+). Khi bón phân vào đất, được vùi
lấp cẩn thận thì các keo đất sẽ giữ lại các chất dinh dưỡng và nhả ra từ từ tuỳ theo

yêu cầu của cây trồng theo từng thời kỳ sinh trưởng của cây. Như vậy, bón phân có
vùi lấp không chỉ có tác dụng hạn chế sự mất dinh dưỡng, tăng hiệu suất sử dụng
phân bón mà còn làm giảm bớt ô nhiễm môi trường.
Tóm lại, bón phân đầy đủ, cân đối và để có năng suất cây trồng cao, chất
lượng sản phẩm tốt, không làm ô nhiễm môi trường, đồng thời đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm cho người sử dụng và sản xuất có lãi là mục tiêu của nền nông
nghiệp sạch và bền vững.
1.2. Nghiên cứu phân bón trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình và kết quả nghiên cứu phân bón trên thế giới
Ở những ruộng lúa năng suất cao, lượng chất dinh dưỡng cây trồng lấy đi
nhiều, vì vậy cần phải bổ sung các nguyên tố đa lượng và vi lượng. Lúa yêu cầu
một lượng dinh dưỡng khá cao, để đạt được 1 tấn thóc cần từ 15 - 24 kg N; 2 - 11
kg P2O5 và 16 - 50 kg K2O [40]. Điều đó cho thấy muốn tái sản xuất lúa cần bón
lượng phân không những bù đắp phần dinh dưỡng do con người lấy mà còn bù đắp
lượng dinh dưỡng bị mất qua quá trình thẩm lậu tự nhiên như rửa trôi, xói mòn.
Các thí nghiệm của Patrick - 1968 [35] đều cho thấy kali có vai trò quan
trọng trong giai đoạn trước và sau làm đòng, thiếu kali ở giai đoạn này năng suất
lúa giảm mạnh.
Theo Koyama – 1981 [34], Sarker - 2002 [37]: “Đạm là yếu tố xúc tiến
quá trình đẻ nhánh của cây, lượng đạm càng cao thì lúa đẻ nhánh càng nhiều, tốc
độ đẻ nhánh lớn nhưng lụi đi cũng nhiều”.
Trên thế giới, vai trò của kali đã được nghiên cứu và khẳng định. Theo
Gia-côp khi nghiên cứu về vai trò của kali cho thấy: cường độ quang hợp càng
mạnh khi hàm lượng kali trong tế bào càng lớn. Song muốn có cường độ quang
hợp cao cần phải có đủ ánh sáng. Khi thiếu kali nồng độ sắt trong tế bào hạ thấp,
quá trình tổng hợp tinh bột, protein chậm… Do quá trình sinh trưởng chậm lại,
nếu thiếu kali sẽ làm giảm sự tổng hợp tinh bột và các hợp chất cấu tạo lên màng
8
tế bào như xenlulô, làm độ cứng của thân .
Sự ra đời của các giống lúa mới, giống lúa cao sản, đặc biệt là các giống

lúa lai có tiềm năng năng suất cao đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng rất cao, gấp 3 lần
các giống lúa cũ (DeDatta, 1984) [33]. Những giống lúa có năng suất đạt 5 tấn/ha
và lượng rơm rạ tương đương lấy đi 110 kg N, 45 kg P
2
O
5
, 130 kg K
2
O, 14 kg
Ca, 12 kg Mg, 5 kg S, 1 kg Fe, 2 kg Mn, 0,2 kg Zn, 0,15 kg Cu, 0,15 kg Bo, 250
kg Si và 25 kg Cl từ đất (Pillai, 1996) trích dẫn qua [27]. Bón phân không cân
đối là nguyên nhân chính dẫn đến không phát huy hết tiềm năng năng suất của
các giống lúa.
Nhu cầu dinh dưỡng của lúa không chỉ phụ thuộc vào giống mà còn phụ
thuộc vào các giai đoạn sinh trưởng. Giai đoạn mạ cần nhiều lân và kali, đặc biệt
là mạ Xuân. Giai đoạn đẻ nhánh, lúa cần nhiều đạm, lân và kali. Phân tích hàm
lượng đạm và lân trong cây cho thấy: Khi hàm lượng đạm > 3% khối lượng chất
khô thì lúa đẻ nhánh mạnh; < 2,5% lúa không đẻ nhánh; < 1,6% thì các nhánh
nhỏ bắt đầu chết lụi. Hàm lượng lân trong lá > 0,25% thì lúa đẻ nhánh và <
0,25% thì lúa không đẻ nhánh (Matsushima,1995) trích dẫn qua [27]. Giai đoạn
lúa làm đòng là giai đoạn tạo nên các yếu tố cấu thành năng suất như số
bông/khóm, số hạt chắc/bông và khối lượng 1000 hạt vì vậy lúa cần đầy đủ 3
nguyên tố đa lượng NPK. Giai đoạn lúa trỗ, hạt lớn nhanh, các chất hữu cơ mà
cây quang hợp và tích lũy trước thời kỳ trỗ bông đều được chuyển về hạt (De
Datta, 1984) [33]. Do nhu cầu dinh dưỡng của lúa khác nhau qua các giai đoạn
sinh trưởng nên cần có chế độ dinh dưỡng phù hợp yêu cầu dinh dưỡng của các
giai đoạn đó
Lúa có 2 thời kỳ khủng hoảng dinh dưỡng là thời kỳ đẻ nhánh và làm
đòng. Lúa hút dinh dưỡng mạnh nhất vào thời kỳ làm đòng đến trỗ, còn thời kỳ
đầu lúa hấp thu dinh dưỡng rất kém (Hung, 2006); Kim, 2004; Yanagisawa và

cs., 1967 trích dẫn qua [27]. Nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Nông
nghiệp Hồ Nam Trung Quốc chỉ rõ, nếu áp dụng bón phân theo kiểu truyền thống
là nặng đầu nhẹ cuối thì khó đạt được năng suất tối đa. Kết luận này rút ra từ kết
quả nghiên cứu của Zheng Shengxian và cs., (1992) trích dẫn qua [27]: Trong
9
giai đoạn đầu cây lúa chỉ sử dụng 16,8% N, 12,9 % P, 12% K, giai đoạn giữa (từ
phân hóa đòng đến trỗ) nhu cầu dinh dưỡng lại tăng rất nhanh: 75,9% N; 81,9%
P; 78,8% K so với tổng lượng hút. Trên cơ sở đó các nhà khoa học Trung Quốc,
Hàn Quốc đã đề xuất phương pháp bón nhiều vào thời kỳ phân hóa đòng.
Thời kỳ bón phân đạt hiệu quả cao còn phụ thuộc vào bản chất của phân
bón… Đạm và kali được khuyến cáo là bón làm nhiều lần vào các giai đoạn trước
khi cấy, đẻ nhánh và làm đòng. Bón lân tốt nhất ở thời kỳ trước khi cấy vì lân là
nguyên tố ít di động trong đất nên bị thiếu sớm hơn các nguyên tố khác. Robert H.
Wells, (2007) trích dẫn qua [27] nghiên cứu thí nghiệm với 3 mức lân 99,8; 69,6 và
39,1 kg P2O5/ha, bón làm 4 lần: trước nảy mầm, 5 - 10 ngày sau nảy mầm, giữa
thời kỳ sinh trưởng và trước khi trỗ ở bang Arkansas Mỹ cho thấy: Năng suất tăng
rõ ràng khi được bón lân và đạt cao nhất là bón 69,6 kg P2O5 (năng suất tăng từ
24 - 41%). Bón lân trước và sau nảy mầm 5 - 10 ngày tốt hơn bón giữa thời gian
sinh trưởng.
Theo Shi, 1986 [38] và cộng sự cho rằng: phân bón có tác dụng thúc đẩy
hoạt động quang hợp. Kết quả nghiên cứu các giống lúa Indica có phản ứng với
phân bón là tăng diện tích lá lớn hơn so với giống lúa Japonica nhưng lại phản
ứng yếu hơn khi hàm lượng phân bón tăng. Khi bàn về năng suất tác giả cho biết:
năng suất là kết quả của những giống có phản ứng tốt với phân bón và biện pháp
kỹ thuật. Ở vùng ôn đới, giống Japonica thường cho năng suất cao vì nó phản
ứng tốt với phân bón.
Theo kết quả nghiên cứu của Sinclair, 1989 [39]: Hiệu suất bón đạm cho
lúa rất khác nhau: 1kg N cho từ 3,1 - 23 kg thóc.
Theo Sarker, 2002 [37] khi nghiên cứu ảnh hưởng lâu dài của lân đối với
lúa được đánh giá: “Hiệu suất của lân đối với hạt ở giai đoạn đầu cao hơn giai

đoạn cuối và lượng lân hút ở giai đoạn đầu chủ yếu phân phối ở các cơ quan sinh
trưởng. Do đó, phải bón lót để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho cây lúa”.
1.2.2. Tình hình và kết quả nghiên cứu phân bón ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của phân đạm đến sự sinh trưởng và phát
triển của cây lúa, Bùi Huy Đáp cho biết: “Phân hoá học cung cấp từ 1/3 đến 1/2
10
lượng phân đạm cho lúa”. Những năm gần đây việc bón phân chuồng cho lúa
không đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng cho cây nên con người đã sử dụng phân
đạm hoá học để bón. Mỗi giống lúa khác nhau cần một lượng phân bón nhất định
vào các thời kỳ cây đẻ nhánh, đẻ nhánh rộ và giảm dần khi lúa đứng cái [5].
Theo Lê Văn Căn (1964) trích dẫn qua [27]: Nếu cứ bón đơn thuần đạm
thì sau 3 - 4 vụ việc phối hợp bón lân và kali sẽ làm tăng năng suất một cách
đáng kể. Cũng theo tác giả khi bón một lượng đạm lớn là 50 - 60 kg, nhất là các
giống lúa mới thì hiện tượng thiếu kali xảy ra chủ yếu là khô đầu lá và hạt bị lép.
Nếu bón kali trên nền đạm cao kết hợp kỹ thuật bón lót và bón thúc kali lúc lúa
sắp đứng cái sẽ cho hiệu quá tốt hơn rất nhiều. Tại hội nghị khoa học về nghiên
cứu phân bón toàn miền Bắc tháng 12/1959 tổng kết nhìn chung đất Việt Nam
giàu kali và sự phục hồi kali khá nhanh chóng. Trừ đất bạc màu nghèo kali còn
các loại đất khác hiệu suất sử dụng kali 3 - 5 kg thóc/1kg K
2
O.
Khi cây lúa được bón đủ đạm thì nhu cầu tất cả các chất dinh dưỡng khác
như lân và kali đều tăng - Nguyễn Hữu Tề và cộng sự (1997) [23]. Theo Bùi Huy
Đáp [5] , đạm là yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng suất lúa, cây có đủ đạm thì
các yếu tố khác mới phát huy hết được tác dụng.
Hiện nay ở Việt Nam, bón phân kali đã cho mùa màng bội thu, có trường
hợp vượt cả đạm và lân. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Bộ (2003) [1]
cho thấy: Bội thu do có đạm và lân trên đất phù sa là 11,7 tạ/ha trên đất bạc màu
với lượng tương tự chỉ cho 1,2 tạ/ha. Nguyên nhân ở đây là do trong đất phù sa
giàu kali, cây trồng khi đã đủ đạm và lân tự cân đối nhu cầu về kali trong đất nên

có bón thêm kali bội thu không cao. Ngược lại trên đất bạc màu dự trữ kali ít nếu
không bổ sung kali từ phân bón thì cây trồng không sử dụng đạm được dẫn đến
năng suất thấp. Từ kết quả trên ông đưa ra khuyến cáo, trên đất phù sa nếu bón
dưới 150 N + 4 tấn phân chuồng thì bón kali không có hiệu quả, song nếu lượng
bón trên 12 kg đạm/sào Bắc Bộ thì nhất thiết phải bón kali. Trên đất bạc màu,
nếu không bón kali chỉ nên bón tối đa 7 - 9 kg đạm/sào Bắc Bộ.
Theo Phạm Văn Cường (2005) [8] trong giai đoạn từ đẻ nhánh đến đẻ
nhánh rộ, hàm lượng đạm trong thân lá luôn cao, sau đó giảm dần. Như vậy, cần
11
bón tập trung đạm vào giai đoạn này.
Khi cây lúa được cung cấp lân thoả đáng sẽ tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển
tốt, tăng khả năng chống hạn, tạo điều kiện cho sinh trưởng, phát triển, thúc đẩy sự
chín của hạt và cuối cùng là tăng năng suất lúa - Nguyến Hữu Tề (2004) [24].
Đào Thế Tuấn, 1963 [28] cho biết: bón lân có ảnh hưởng đến phẩm chất
hạt giống rõ rệt, làm tăng trọng lượng nghìn hạt, tăng tỉ lệ lân trong hạt, tăng số
hạt trên bông và cuối cùng là cho năng suất lúa cao hơn.
Bùi Huy Đáp, 1980 [4] cho rằng: lân có vai trò quan trọng đối với quá trình tổng
hợp đường, tinh bột trong cây lúa và có ảnh hưởng rõ rệt đến năng suất.
Theo Vũ Hữu Yêm, 1995 [30], cây non rất mẫn cảm với việc thiếu lân.
Thiếu lân trong thời kỳ cây non cho hiệu quả rất xấu, sau này dù có bón nhiều lân
thì cây cũng trỗ không đều hoặc không thoát. Do vậy, cần bón đủ lân ngay từ giai
đoạn đầu và bón lót phân lân là rất có hiệu quả.
Kali là một trong ba yếu tố quan trọng cần thiết cho cây trồng. Khác
với đạm và lân, kali không phải là phần tử cơ cấu của các sinh chất chính
nhưng kali cũng rất cần cho quá trình tổng hợp protit, cần thiết khi cây tổng
hợp đường thành tinh bột, thông qua ảnh hưởng đến quá trình quang hợp mà
xúc tiến sự hình thành gluxit, hydratcacbon tổng số và sự vận chuyển các chất
vào cơ quan dự trữ - Bùi Huy Đáp (1980) [4].
Cây lúa cần kali trong suốt thời kỳ sinh trưởng và cần kali nhiều hơn các
yếu tố dinh dưỡng khác: gấp 1.5 lần so với đạm , gấp 3.5 lần so với lân (Vũ Hữu

Yêm - 1995) [30]. Thiếu kali lá có màu xanh đậm, cây thấp, lúa trỗ sớm hơn,
năng suất giảm. Thiếu kali quá trình tổng hợp protein bị trở ngại, đạm amin và
đạm hoà tan trong cây tăng lên, sức chống chịu của cây bị giảm.
Võ Minh Kha (1996) [12] khi nghiên cứu quan hệ giữa năng suất với lượng kali
bón cho thấy: hiệu lực của kali còn phụ thuộc rất lớn vào năng suất, trên đất phù
sa Sông Hồng khi năng suất dưới 2.5 tấn/ha hiệu lực của kali thường không rõ;
năng suất từ 2,5 - 4,5 tấn/ha, bón 20 - 30 kg K
2
O có hiệu lực rõ; năng suất lớn
hơn 4,5 tấn/ha nhất thiết phải bón kali.
Cũng theo Võ Minh Kha [12], trên ruộng lúa năng suất 8 tấn/ha số
12
lượng kali lấy đi trong hạt thóc khoảng 40 - 45 K
2
O. Nếu vùi trả lại rơm rạ và
bón 10 tấn phân chuồng thì sự thâm hụt về kali không lớn, vì vậy nước tưới có
thể là nguồn kali chính cho lúa. Hàm lượng kali trong nước tưới đạt 40 ppm
có thể đáp ứng nhu cầu kali cho lúa ở mức năng suất 10 tấn/ha. Nguyễn Như
Hà, 1999 [9] đưa ra kết luận: khi năng suất lúa vượt trên 5 tấn/ha (vụ mùa) và
trên 6 tấn/ha (vụ xuân), lượng kali cây hút vượt quá khả năng tối đa của đất có
thể cung cấp, nhất thiết phải bón kali sẽ có hiệu quả cao.
Khi nghiên cứu về lúa lai các nhà khoa học Trung Quốc kết luận rằng: Với
cùng một mức năng suất, lúa lai hấp thu lượng đạm và lân thấp hơn lúa thuần, ở
mức 75 tạ/ha lúa lai hấp thu thấp hơn lúa thuần 4,8% về đạm, hấp thu P
2
O
5
thấp hơn
18,2% nhưng hấp thu K
2

O cao hơn 4,5 % - dẫn theo Trần Thúc Sơn, (1999) [21].
Thực tế sản xuất đã có nhiều khuyến cáo về mức bón phân kali cho lúa. Ở
Việt Nam liều lượng phân kali khuyến cáo sử dụng cho lúa ở Đồng bằng sông
Hồng còn chưa được thống nhất, thường dao động từ 60 - 120 K
2
O/ha đối với lúa
thường, 90 - 120 K
2
O/ha đối với lúa lai, tùy theo mức độ đạm bón và lượng phân
chuồng được sử dụng - Nguyễn Văn Luật (1998) [17], Nguyễn Văn Bộ (2003)
[1], Võ Minh Kha (1996) [12].
Như vậy muốn tăng năng suất cây trồng, đặc biệt là cây lúa thì cần phải
có một lượng phân bón thích hợp trên từng loại đất. Phải biết phối hợp cân đối
giữa các loại phân bón theo đúng tỷ lệ để cho hiệu quả kinh tế cao nhất.
Theo Lê Văn Căn (1964) trích dẫn qua [27], ở đất phù sa Sông Hồng nếu
bón đơn thuần phân đạm mà không kết hợp với phân lân và kali vẫn phát huy
được hiệu quả của phân đạm, lượng phân lân và kali bón thêm không làm tăng
năng suất đáng kể, nhưng nếu cứ bón liên tục sau 3 - 4 năm thì việc phối hợp bón
lân và kali sẽ làm tăng năng suất rõ rệt trên tất cả các loại đất. Phân đạm là nguyên
tố dinh dưỡng cần thiết nhất nên việc sử dụng phân đạm đã làm tăng năng suất rất
lớn. Tuy nhiên phân đạm có thể tạo lập độ phì nhiêu cho đất nên khi sử dụng không
cân đối giữa đạm với nguyên tố khác sẽ làm suy thoái đất. Qua nghiên cứu về phân
bón cho thấy: ở Việt Nam, trên đất phèn nếu không bón lân, cây trồng chỉ hút được
40 - 50 kg N/ha, nếu bón lân cây trồng sẽ hút 120 - 130 kg N/ha. Do vậy, để đảm
13
bảo đất không bị suy thoái thì về nguyên tắc phải bón trả lại cho đất một lượng dinh
dưỡng tương tự lượng dinh dưỡng mà cây trồng đã lấy đi. Tuy nhiên, việc bón phân
cho cây trồng lại không chỉ hoàn toàn dựa vào dinh dưỡng cây trồng hút từ đất và
phân bón, mà phải dựa vào lượng dinh dưỡng dự trữ trong đất và khả năng hấp
thu dinh dưỡng của cây.

Lúa yêu cầu đạm ngay từ lúc nảy mầm và gần như đến cuối cùng của thời
kỳ sinh trưởng sinh thực. Tỷ lệ đạm trong cây so với trọng lượng chất khô ở các
thời kỳ như sau: thời kỳ mạ 1,54%, đẻ nhánh 3,65%, làm đòng 3.06%, cuối làm
đòng 1,95%, trổ bông 1,17% và chín 0,4% [6].
Đối với nhiều loại đất, ngay từ đầu cần phải bón đạm kết hợp với lân mới
cho năng suất cao. Cũng theo nghiên cứu của Lê Văn Căn (1964) trích dẫn qua
[27]: Sự tích luỹ đạm, lân, kali ở các cơ quan trên mặt đất không kết thúc ở thời
kỳ trỗ mà còn được tiến hành ở giai đoạn tiếp theo của cây. Tuy nhiên, từ khi cây
bắt đầu đẻ nhánh đến làm đòng, cây lúa phản ứng mạnh với dinh dưỡng N, K
2
O
ở mức độ cao.
Theo Đào Thế Tuấn, 1980 [29], trong thí nghiệm 3 vụ liền ở đất phù sa
Sông Hồng đã rút ra kết luận: “Vụ lúa chiêm cũng như vụ lúa mùa, chia đạm ra
bón nhiều lần để bón thúc đẻ nhánh, nếu bón tập trung vào thời kỳ đầu đẻ nhánh
thì số nhánh tăng lên rất nhiều về sau lụi đi cũng nhiều và thiếu dinh dưỡng. Nếu
bón tập trung vào cuối thời kỳ đẻ nhánh thì số nhánh lụi đi ít nhưng tổng số
nhánh cũng ít vì vậy cần chú ý cả ai mặt. Trong trường hợp đạm bón tương đối ít
thì nên bón tập trung vào thời kỳ đẻ nhánh rộ.
Theo các công trình đã nghiên cứu, muốn đạt năng suất 50 tạ/ha/vụ
cần bón 100 - 120 kg N/ha. Lượng đạm này lấy từ các loại phân vô cơ và
hữu cơ bón cho lúa.
Cây lúa cần đạm ở tất cả các thời kỳ sinh trưởng, nhưng chủ yếu bón vào
thời kỳ bón lót, bón thúc khi đẻ nhánh và bón khi lúa bước vào thời kỳ đòng. Tuỳ
theo thời kỳ sinh trưởng của cây lúa mà bón, khi bón phải dựa vào thời tiết, khí
hậu, mùa vụ. Cần tập trung lượng đạm vào thời kỳ đẻ nhánh vì đây là thời kỳ
khủng hoảng đạm lớn nhất của cây lúa. Nếu bón đạm tập trung vào thời kỳ đẻ
14
nhánh sẽ kích thích cây lúa đẻ nhiều và tập trung, do đó số nhánh hữu hiệu tăng
lên. Đây chính là yếu tố quyết định năng suất của lúa [9].

Hầu hết các công trình nghiên cứu cho thấy: Nếu chỉ bón đơn độc đạm
cho cây lúa thì cây sinh trưởng quá mạnh và chỉ đạt được năng suất khá trong vài
vụ đầu, dần dần năng suất sẽ bị giảm, nếu bón kết hợp với lân và kali thì cây lúa
sinh trưởng cân đối, cho năng suất cao và ổn định. Trong bón phân, phương pháp
bón cũng rất quan trọng. Cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong khi bón phân
thì hiệu quả mới cao, cây lúa mới hút được dinh dưỡng tối đa – theo Phạm Văn
Cường (2005) [8 ], Phạm Quang Duy (2004) [32].
Theo Bùi Huy Đáp (1980) [4]: Lân được hút chậm hơn đạm trong thời kỳ
dinh dưỡng đầu và được hút nhanh từ khi phân hoá đòng đến lúa vươn lóng.
Phần lớn lân trong gạo là tích luỹ trong thân và lá trước khi trỗ rồi chuyển về
bông vì sau khi trỗ lúa thường không hút nhiều lân nữa, Khi bón quá nhiều lân,
đất sẽ giữ lân lại, do đó ruộng ít bị xẩy ra hiện tượng thừa lân. Ruộng lúa ngập
nước sẽ làm tăng độ dễ tiêu của lân, tăng hiệu quả của phân bón cho cây lúa. Cây
lúa hút lân trong suốt thời kỳ sinh trưởng vì vậy có thể bón lót hết lượng lân dành
cho cả vụ.
Theo Nguyễn Vy (2006) [31], khi bón phân lân với lượng không cao và
không bón đạm sẽ xúc tiến quá trình đẻ nhánh ban đầu nhưng lại kìm hãm quá
trình đẻ nhánh về sau. Vì vậy, khi bón phân lân đơn độc, số nhánh không tăng
mà lại lụi đi nhiều, do đó cần bón kết hợp đạm, lân và kali.
15
1.3. Tình hình sử dụng phân bón trên thế giới và ở Việt Nam.
1.3.1. Tình hình sử dụng phân bón trên thế giới.
Bảng 1.3. Các nước thâm canh phân bón cao nhất trên thế giới
(kg N, P2O5, K2O/ha đất canh tác kể cả cây lưu niên)
TT
Nước 1980/1981 1990/1991 1997/1998
TB Thế giới 82 92 91
1 Hà Lan 826 615 536
2 Băng Đảo 541 554 501
3 Hàn Quốc 366 434 471

4 Bỉ-Luxumboug 577 492 408
5 Costa Rica 145 213 402
6 Nhật Bản 372 400 352
7 Moritus 249 262 344
8 Liên hiệp Anh 294 356 328
9 Ai cập 271 364 306
10 Israel 192 235 274
(Nguồn: FAO Fertilizer Yearbook Vol. 48 – 1998)
Theo FAO Fertilizer Yearbook: Trong thời gian từ 1990 đến 1998 việc sử
dụng phân bón ở Châu Phi ít biến động, tăng giảm không đáng kể; so với 1990,
lượng phân bón năm 1998 giảm 1,4%. Việc dùng phân ở Châu Phi rất không đều
nhau, có nước bón rất cao đã bắt đầu giảm xuống (Algerie), có nước trong những
năm 1960 không bón phân nhưng đến thập kỷ 80 vào cuộc rất nhanh (Saudi
Arabica), năm 1990 nước này bón trên 500kg NPK/ha.
Châu Âu đến thời kỳ 1996-1998 lượng phân bón đi vào ổn định, so với thời kỳ
1990 giảm 5,3%. Bắc Mỹ thì tăng đều nhưng không nhiều, so với năm 1990 thì niên
độ 1997-1998 tăng 7,3%. Tăng mạnh là các nước khu vực đang phát triển: Châu Đại
Dương tăng 91%. Nam Mỹ tăng 64,5%, Châu Á tăng 27,8%.
1.3.2. Tình hình sử dụng phân bón ở Việt Nam
Trong những năm gần đây Việt Nam là nước sử dụng phân bón tương đối
cao so với những năm trước đây, một mặt do vốn đầu tư ngày càng cao, mặt khác
do người dân tiếp thu và áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật trong thâm canh. Theo
Vũ Hữu Yêm, 1995 [30], Việt Nam hiện đang là một trong 20 quốc gia sử dụng
phân bón cao nhất thế giới.
Bảng 1.4. Nhu cầu và cân đối phân bón ở Việt Nam đến năm 2020
16
ĐVT: nghìn tấn
Các loại phân bón
Năm
2005 2010 2015 2020

Urê
Tổng số 1.900 2.100 2.100 2.100
Sản xuất trong nước 750 1.600 1.800 2.100
Nhập khẩu 1150 500 300 0.0
KCL
Tổng số 500 500 500 500
Sản xuất trong nước 0 0 0 0
Nhập khẩu 500 500 500 500
(Nguồn: Phòng Quản lý đất và phân bón, Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn 5/2007)
Theo Nguyễn Văn Bộ, 2003 [1]: mỗi năm nước ta sử dụng 1.202.140 tấn
đạm, 456.000 tấn lân và 402.000 tấn kali, trong đó sản xuất lúa chiếm 62%. Điều
kiện khí hậu ở nước ta còn gặp nhiều bất lợi, mặt khác kỹ thuật bón phân của
người dân chua cao nên mới chỉ phát huy được 30% hiệu quả đối với đạm và
50% hiệu quả đối với lân và kali. Tuy nhiên hiệu quả của việc bón phân đối với
cây trồng tương đối cao, vì vậy người dân ngày càng mạnh dạn áp dụng khoa học
kỹ thuật vào sản xuất. Trong tương lai, nước ta vẫn là nước sử dụng một lượng
phân bón rất lớn trong sản xuất nông nghiệp, mặc dù chủ yếu vẫn phải nhập khẩu
phân bón.
1.4. Điều kiện tự nhiên và thực trạng sản xuất lúa trên địa bàn huyện Thạch
Hà, Hà Tĩnh.
1.4.1. Điều kiện tự nhiên ở Thạch Hà – Hà Tĩnh.
Diện tích đất tự nhiên của tỉnh Hà Tĩnh hiện nay là 605.574 ha, trong đó đất
sản xuất nông nghiệp là 98.171ha chiếm 70%, đồng bằng nhỏ, hẹp, thời tiết, khí hậu
khắc nghiệt ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp.
Tại Thạch Hà theo báo cáo Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của
UBND huyện năm 2013 thì tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện là 35.503,78 ha
trong đó diện tích đất nông nghiệp là 23.040,47 ha, chiếm 64,9% diện tích tự
nhiên, cơ cấu sử dụng như sau:
- Đất sản xuất nông nghiệp:

Đất sản xuất nông nghiệp là 13.809,84 ha, chiếm 39,96% tổng diện tích
17
đất tự nhiên và 63,48% đất nông nghiệp. Trong đó:
Quỹ đất trồng cây hàng năm là 10.779,04 ha, chiếm 93,38% diện tích đất
sản xuất nông nghiệp, trong đó: Đất có khả năng trồng lúa 9.373,75 ha.
Đất trồng cây lâu năm là 3.030,8 ha, chiếm 14,39% diện tích đất nông
nghiệp, những năm gần đây có một số hộ đã có xu hướng cải tạo đất cây lâu năm
để phát triển các loại cây ăn quả, cây có giá trị kinh tế cao.
- Đất lâm nghiệp:
Hiện nay toàn huyện có 8.313,0 ha đất lâm nghiệp, chiếm 27,25% diện
tích đất tự nhiên, trong đó: Diện tích đất rừng sản xuất là 4.974,44 ha, diện tích
đất rừng trồng phòng hộ 3.338,56 ha, chủ yếu là rừng trồng; rừng tự nhiên còn lại
rất thấp, là loại rừng phục hồi sau khi khai thác.
- Đất nuôi trồng thủy sản:
Diện tích là 824,95 ha, chiếm 2,57% diện tích đất tự nhiên, chiếm 0,011%
diện tích đất nông nghiệp toàn huyện. Trong thời gian tới với mục tiêu phát triển
nuôi trồng thủy sản, chuyển đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá, nâng
cao thu nhập trên 1 đơn vị diện tích, huyện cần phải có các chính sách mở rộng
diện tích nuôi thuỷ sản.
- Đất làm muối 87,57 ha.
- Đất nông nghiệp khác 5,11 ha.
* Khí hậu
Thạch Hà là một huyện có khí hậu đặc trưng của khu vực nhiệt đới gió
mùa, chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của loại khí hậu giao thoa, chuyển tiếp giữa hai
miền Bắc – Nam, có gió mùa Tây Nam vào mùa khô và gió mùa Đông Bắc về
mùa mưa. Do vậy, khí hậu có một số đặc điểm như sau:
Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình cả năm khoảng 23,5-25
0
C, chênh lệch nhiệt độ giữa

mùa hè và mùa đông khá lớn (trung bình mùa hè là 29-38
0
C; mùa đông từ 13-
16
0
C) nhiệt độ trong năm cao nhất vào tháng 6,7,8; thấp nhất vào tháng 12, tháng
1 và 2 của năm sau.
Nhiệt độ giữa vùng đồng bằng và vùng bán sơn địa chênh lệch nhau
18
không nhiều, từ 3- 5
0
C.
Lượng mưa
Lượng mưa tập trung nhiều vào các tháng 9, 10, 11 chiếm tỷ lệ từ 40 –
60% lượng mưa cả năm. Lượng mưa phân bố khá đồng đều giữa các vùng trong
các mùa, tuy nhiên lại không đồng đều giữa các mùa nên dễ gây hạn hán về mùa
khô và gây ngập úng về mùa mưa.
Số ngày mưa trong năm khoảng từ 150-160 ngày, lượng nước bốc hơi
bình quân hàng năm đạt 900mm.
Độ ẩm
Độ ẩm không khí hàng năm ở Thạch Hà trung bình 83,8%. Độ ẩm cao nhất
xuất hiện vào những tháng mùa đông, khoảng 92%, độ ẩm thấp nhất vào tháng 6,7
khoảng 75%, ứng với thời kỳ gió Tây Nam khô nóng hoạt động mạnh nhất.
Độ ẩm vùng bán sơn địa cao hơn vùng đồng bằng do có rừng và không khí
ẩm ướt, bình quân độ ẩm vùng đồi núi là 86%; vùng đồng bằng và ven biển là 78%.
Số giờ nắng
Bình quân hàng năm ở Thạch Hà có khoảng 235 ngày nắng với 1.600 giờ,
mặc dù bình quân theo năm cao nhưng giữa các tháng lại chênh lệch nhau rất
nhiều, thường các tháng có số giờ nắng cao là các tháng mùa hè, thấp là các
tháng cuối mùa đông. Số giờ nắng như vậy vẫn đủ lượng bức xạ cho cây trồng

theo mùa vụ, tuy nhiên mùa đông phải bố trí cây trồng chịu hạn, chịu rét.
Chế độ gió
Chế độ gió biến đổi theo mùa trong năm và có 2 loại gió chính:
- Gió mùa Đông Bắc, hình thành từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau
- Gió Tây Nam (gió Lào) thịnh hành từ tháng 4 đến tháng 8 với đặc điểm
khô, nóng làm nền nhiệt độ trong ngày tăng cao.
Ngoài ra, mùa hè còn có gió Đông Nam thổi từ biển vào thịnh hành từ
tháng 5 đến tháng 10.
Tốc độ thổi trung bình từ 3-5m/s, có khi 7-10m/s có đặc trưng rất nóng và
khô. Từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau có gió Đông Bắc thổi mang theo hơi lạnh
19

×