Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nữ ở các trường trung học cơ sở huyện hóc môn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.01 KB, 139 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THỤY MỴ CHÂU
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ NỮ Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN HÓC MÔN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số : 60.14.01.14
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS THÁI VĂN THÀNH
NGHỆ AN - 2013
2
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Giáo dục đào tạo có sứ mạng nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài đồng thời cũng chính là nhân tố quan trọng hàng đầu tạo ra
những giá trị và hoàn thiện nhân cách con người. Sinh thời Bác Hồ đã từng dạy:
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” do đó giáo dục - đào tạo luôn được coi là
“quốc sách hàng đầu”, là sự nghiệp của toàn Đảng và của toàn dân. Đầu tư thỏa
đáng cho giáo dục là một động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu,
vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới và là điều kiện cơ bản đảm bảo cho việc
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của nước ta, nhất là trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng ta luôn khẳng định cách mạng khoa học – kỹ thuật giữ vai trò then
chốt, giáo dục – đào tạo là nền tảng văn hóa dân tộc. Do vậy, Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định một trong ba khâu đột phá của Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 là: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với


phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ”.
Theo đó để định hướng cho giáo dục - đào tạo nước ta phát triển cần phải
có chiến lược cụ thể như Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020. Tại Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI: Hội nghị lần thứ sáu với Kết
luận số 51-KL/TW ngày 29 tháng 10 năm 2012, Hội nghị lần thứ tám với Nghị
quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
3
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, trong
đó đã xác định một trong sáu nhiệm vụ, giải pháp là: “phát triển đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo”[3].
Để thực hiện thành công sự nghiệp giáo dục đào tạo nhằm đáp ứng yêu
cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo mà Đảng ta đã đề ra, thì đòi
hỏi phải có đội ngũ cán bộ tổ chức thực hiện. Như Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói “Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong. Muốn việc thành công hoặc thất bại
đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý là yếu tố
quyết định chất lượng giáo dục đào tạo như trong Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15
tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư về việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục, đã xác định “phát triển giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng”[1].
Cùng với đội ngũ cán bộ, cán bộ lãnh đạo nói chung và cán bộ nữ lãnh đạo
nói riêng đã giữ một vị trí, vai trò to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước. Không dừng lại trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ, ngày nay có nhiều
phụ nữ tham gia vào các hoạt động của xã hội, đảm nhiệm các chức vụ cao trong
các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. So với nam giới, mặc dù
có nhiều khó khăn, thách thức nhưng cán bộ nữ đã nỗ lực vừa đảm việc nhà, vừa
đảm việc nước hoặc định kiến về giới nữ vẫn còn, nhất là những vùng nông thôn,

vùng ven thành phố (như ở huyện Hóc Môn).
4
Trong những năm qua, Huyện Hóc Môn đã tích cực triển khai nhiều
chương trình, kế hoạch nhằm lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng của đội ngũ
cán bộ quản lý nữ ở các trường Trung học cơ sở. Tuy nhiên trước những yêu cầu,
đòi hỏi ngày càng cao của xã hội trong công cuộc đổi mới và bảo vệ đất nước thì
chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý nữ trên địa bàn huyện nói chung và đội
ngũ cán bộ quản lý nữ ở các trường Trung học cơ sở nói riêng vẫn còn nhiều bất
cập về chất lượng, số lượng và điều này đã ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng
và hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Theo đó, xây dựng đội ngũ cán
bộ quản lý nữ có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ là vấn đề cốt lõi, mang tính cấp thiết mà địa phương cần tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, nhất là cán
bộ nữ. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất
lượng cán bộ quản lý nữ ở các trường Trung học cơ sở huyện Hóc Môn,
thành phố Hồ Chí Minh”.
II. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu và làm rõ một số lý luận, đánh giá đúng thực trạng
chất lượng cán bộ quản lý nữ ở các trường Trung học cơ sở huyện Hóc Môn, từ
đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nữ ở các
trường Trung học cơ sở huyện Hóc Môn.
III. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề quản lý nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nữ ở các
trường Trung học cơ sở.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
5
Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nữ ở các trường
Trung học cơ sở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.
IV. Giả thuyết khoa học

Nếu chúng ta xây dựng được các giải pháp đảm bảo tính khoa học, khả thi
thì sẽ nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nữ ở các trường Trung học cơ
sở ở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.
V. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nữ ở
các trường Trung học cơ sở
5.2. Nghiên cứu thực trạng công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý nữ ở các trường Trung học cơ sở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí
Minh
5.3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
nữ ở các trường Trung học cơ sở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.
VI. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: nghiên cứu quan điểm của C.Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội Đảng, các văn bản quy phạm
pháp luật, các văn bản lãnh đạo và quản lý, các công trình và các tài liệu khoa
học, các tài liệu liên quan về giáo dục, quản lý giáo dục, về chính sách, đào tạo,
về giới nữ, cán bộ nữ, Nhóm các phương pháp này được sử dụng nhằm xây
dựng hoặc chuẩn hóa các khái niệm, thuật ngữ qua đó chỉ ra các cơ sở lý luận,
thực hiện các suy luận, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa các tri thức, đặc biệt là
6
các yếu tố có ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nữ
ở trường Trung học cơ sở.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát: nghiên cứu tiếp cận và tìm hiểu thực trạng
chất lượng các mặt hoạt động quản lý theo chức năng và nhiệm vụ của cán bộ
quản lý nữ trường THCS.
6.2.2. Phương pháp điều tra: thu thập các số liệu nhằm minh chứng thực
trạng đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường Trung học cơ sở và thực trạng công tác
quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nữ trường Trung học
cơ sở.

6.2.3. Phương pháp chuyên gia: xin ý kiến các chuyên gia (cán bộ quản lý
các trường THCS, lãnh đạo và các tổ bộ môn thuộc Phòng Giáo dục – Đào tạo
huyện) về tính hợp lý và tính khả thi của các giải pháp quản lý được đề xuất tại
luận văn này.
6.3. Phương pháp thống kê toán học: phương pháp này được sử dụng với
mục đích xử lý các kết quả điều tra, phân tích nghiên cứu đồng thời để đánh giá
mức độ tin cậy của phương pháp điều tra.
VII. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn làm sáng tỏ một số khái niệm về quản lý, quản lý giáo dục,
quản lý nhà trường, người cán bộ quản lý giáo dục, cán bộ quản lý nữ và nữ cán
bộ quản lý giáo dục, yêu cầu phẩm chất năng lực của cán bộ quản lý nữ.
7
- Xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nữ ở
các trường Trung học cơ sở để từ đó có cơ sở vững chắc cho việc đánh giá thực
trạng.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý nữ ở các trường Trung học cơ sở trong những năm qua.
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
nữ ở các trường Trung học cơ sở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.
VIII. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 03 chương
Chương 1. Cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nữ ở các
trường Trung học cơ sở
Chương 2. Thực trạng công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản
lý nữ ở các trường Trung học cơ sở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
nữ ở các trường Trung học cơ sở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh.
8
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
QUẢN LÝ NỮ Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Lịch sử nghiên cứu
Qua nghiên cứu các tài liệu, công trình khoa học, đề tài, luận án trong và
ngoài nước của nhiều tác giả, chúng tôi nhận thấy mỗi tác giả, mỗi công trình
tiếp cận ở các góc độ và cấp độ khác nhau về đội ngũ CBQL nữ, song đã nổi lên
có một số công trình của các tác giả tiêu biểu như sau:
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Qua các công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục của các tác giả như:
“Những vấn đề về quản lý trường học” (P.Vzimin, MIKôndakốp), “Quản lý vấn
đề quốc dân trên địa bàn huyện” (MIKôndakốp). Nhà giáo dục học Xô Viết V.A
9
Xukhomlinxki khi tổng kết những kinh nghiệm quản lý chuyên môn trong vai trò
hiệu trưởng nhà trường đã cho rằng: “Kết quả hoạt động của trường phụ thuộc
rất nhiều vào công việc tổ chức đúng đắn các hoạt động dạy học”. Ông cũng
khẳng định những thành công hay thất bại qua kinh nghiệm thực tiễn làm công
tác quản lý của một hiệu trưởng. Cùng với nhiều tác giả khác, ông đã nhấn mạnh
đến sự phân công, sự phối hợp chặt chẽ, sự thống nhất quản lý giữa hiệu trưởng
và phó hiệu trưởng để đạt được mục tiêu đề ra. Trong cuốn “Vấn đề quản lý và
lãnh đạo nhà trường” V.A Xukhomlinxki đã nêu rất cụ thể cách tiến hành phân
tích và khảo sát đội ngũ CBQL nhằm thực hiện tốt và có hiệu quả giải pháp nâng
cao chất lượng đội ngũ CBQL. Do đó yêu cầu về đào tạo, cơ cấu và phát triển
đội ngũ CBQL để thích ứng với sự thay đổi đã trở thành áp lực thường xuyên
của ngành giáo dục.
Ngoài ra, đứng ở góc độ nghiên cứu lý luận giáo dục học, hầu hết các công
trình nghiên cứu của các tác giả Liên Xô (cũ) đã đề cập tới lực lượng giáo dục;
trong đó có nêu lên vai trò, vị trí, chức năng của CBQL nhà trường. Đó là các
công trình tiêu biểu như: Ilina.T.A. với tác phẩm Giáo dục học (tại tập 3: Những
cơ sở của công tác giáo dục); Savin N.V với tác phẩm Giáo dục học. Theo nghiên
cứu của tác giả Jquelyn A mattfesd (2008), “Woman in Higher Education” [53].

1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Trong những năm 1970, có các giáo sư Nguyễn Minh Đức, Hà Thế Ngữ,
Hà Sĩ Hồ,… đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục, quản lý
trường học phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam. Từ những sau năm 1990 cho đến
nay, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu có giá trị: “Giáo trình khoa học
quản lý” của Phạm Trọng Mạnh (NXB ĐHQG Hà Nội - Năm 2001), “Khoa học
10
tổ chức và quản lý - Một vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trung tâm Nghiên cứu
Khoa học tổ chức quản lý (NXB Thống kê Hà Nội năm 1999), “Quản lý giáo
dục và quản lý nhà trường” của tác giả Thái Văn Thành (NXB Đại học Huế -
Năm 2004).
Đi sâu vào nghiên cứu về cán bộ quản lý và chất lượng cán bộ giáo dục
gần đây có các công trình nghiên cứu “cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo trước
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của cố Thứ
trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo Lê Vũ Hùng đăng trên Tạp chí giáo dục số 60
(tháng 6/2003), “Đánh giá người Hiệu trưởng nhà trường phổ thông theo hướng
chuẩn hóa” của TS Đặng Xuân Hải đăng trên Tạp chí Giáo dục số 119 (tháng
8/2005), “Năng lực của người quản lý giáo dục” của PGS.TS Nguyễn Lộc đăng
trên Tạp chí Giáo dục số 207 (tháng 2/2009), “Hoạt động của các cơ sở đào tạo
bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục ở Việt Nam” của PGS.TS Hà Thế Truyền
đăng trên Tạp chí Giáo dục số 209 (tháng 3/2009), “Bồi dưỡng, phát triển đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục trong thời kỳ hội nhập” của ThS. Thân
Văn Quân đăng trên Tạp chí Giáo dục số 209 (tháng 3/2009), “Một số giải pháp
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học cơ sở huyện Lang
Chánh, tỉnh Thanh Hóa” của PGS.TS Thái Văn Thành - Hà Thị Tuyết, trường
Đại học Vinh đăng trên Tạp chí Giáo dục số 56 - tháng 12/2011), K.B. Everard,
Geoffrey Morris, Ian Wilson “Quản trị hiệu quả trường học”. Nhà xuất bản Hà
Nội - 2009: với những nội dung đề cập trong công trình nghiên cứu của tác giả
về quản lý con người; quản lý tổ chức; quản lý sự thay đổi, được dự án SREM
(Dự án hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục) do cộng đồng châu Âu tài trợ đã triển

khai đến tất cả hiệu trưởng các trường THCS trong những năm vừa qua… Một
số các giáo trình, công trình của các nhà nghiên cứu khoa học như PGS.TS
11
Nguyễn Ngọc Hợi, PGS.TS Phạm Minh Hùng, PGS.TS Thái Văn Thành,
PGS.TS Trần Hữu Cát, PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Trinh, đã có đề tài đi sâu vào
việc nghiên cứu từng lĩnh vực của công tác quản lý trường học.
Một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, bài viết chuyên ngành QLGD của
nhiều tác giả đã nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ quản lý giáo dục bậc THCS như: “Các giải pháp nâng cao chất lượng cán
bộ quản lý trường THCS thị xã Hà Tĩnh” của tác giả Nguyễn Văn Tư; “Một số
giải pháp bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực quản lý cho hiệu trưởng trường
THCS huyện Châu Thành – tỉnh Đồng Tháp” của tác giả Lê Quang Trung; “Một
số giải pháp quy hoạch phát triển đội ngũ CBQL các trường THCS huyện Lộc Hà,
tỉnh Hà Tĩnh, giai đoạn 2012 - 2020” của tác giả Trần Hữu Thuần, “Một số giải
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý các trường THCS huyện Hóc
Môn – thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015” của tác giả Huỳnh Thị
Ngọc Mai. Các tác giả đã nghiên cứu về thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý trường
THCS và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng CBQL trường THCS như giải
pháp tổ chức, xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, nội dung, hình thức và
phương pháp đào tạo bồi dưỡng. Đề tài “Phát triển đội ngũ lãnh đạo và quản lý
nhà nước về giáo dục các cấp” của PGS.TS Trần Ngọc Giao, điểm mới của đề tài
là đề xuất khung năng lực và các giải pháp phát triển đội ngũ lãnh đạo và quản lý
nhà nước về giáo dục các cấp của Việt Nam trong cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. TS. Nguyễn Văn Đệ với đề tài “đào tạo bồi
dưỡng giảng viên trẻ ở các trường đại học vùng Đồng bằng sông Cửu Long”, tác
giả nhận thấy đề tài này đã nêu bốn cách để đào tạo, bồi dưỡng giảng viên là tự
học, tự rèn luyện; qua nhà trường; qua tham dự các lớp học chuyên đề và qua
truyền thông đồng thời đề tài đã phân tích sâu về thực trạng đội ngũ giảng viên trẻ
12
ở các trường đại học vùng Đồng bằng sông Cửu Long và đưa ra một số giải pháp,

khuyến nghị trong thời gian tới [25].
Như vậy từ trước đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
quản lý giáo dục, quản lý nhà trường hết sức công phu, có tính lý luận và thực
tiễn cao, đã đóng góp vào việc nghiên cứu nâng cao chất lượng QLGD. Song vấn
đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nói chung, đội ngũ cán bộ quản lý
nữ nói riêng chưa được đề cập sâu rộng, chưa mang tính toàn diện để có thể ứng
dụng vào điều kiện thực tế ở từng địa phương. Trên địa bàn huyện Hóc Môn,
chưa có đề tài nào đi sâu vào nghiên cứu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý nữ. Chính vì lẽ đó, việc đề ra các giải pháp khoa học để nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ quản lý nữ ở các trường Trung học cơ sở huyện Hóc Môn,
thành phố Hồ Chí Minh là nội dung nghiên cứu cần được tiếp tục quan tâm.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.1.1. Quản lý
Trong xã hội loài người, khi xuất hiện sự phân công lao động thì đồng thời
cũng xuất hiện sự hợp tác lao động, do đó cần có sự điều hành chung chính là
quản lý. Quản lý là một chức năng xuất hiện cùng với sự hình thành và phát triển
xã hội loài người, quản lý là một hoạt động bao trùm lên mọi mặt đời sống xã
hội. Trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và
phát triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của cá nhân, của mọi tổ chức, từ một nhóm
nhỏ đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và tất cả đều phải thừa
nhận và chịu sự quản lý nào đó.
13
Trong sự tồn tại và phát triển của quản lý, đặc biệt trong quá trình xây
dựng lý luận quản lý, nhiều nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn, từ nhiều góc độ
và bằng nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau nhưng đều thống nhất công tác
quản lý chính là tính tự giác, tính mục đích và sự tác động qua lại trong công tác
quản lý. Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Quản lý là hành động đưa
các cá nhân trong tổ chức làm việc cùng nhau để thực hiện, hoàn thành mục tiêu
chung. Do vậy có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý như:

- Theo từ điển tiếng Việt, “Quản lý là trông coi và giữ gìn theo những yêu
cầu nhất định” [52,tr.28]. Thuật ngữ quản lý lột tả được bản chất hoạt động này
trong thực tiễn, nó gồm hai quá trình tổng hợp: quá trình “quản” gồm sự coi sóc,
giữ gìn duy trì ở trạng thái ổn định; quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi
mới đưa họ vào thế phát triển.
- Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “Quản lý là chức năng và hoạt động
của hệ thống có tổ chức thuộc các giới khác nhau (sinh học, kĩ thuật, xã hội),
bảo đảm giữ gìn một cơ cấu ổn định nhất định, duy trì sự hoạt động tối ưu và
bảo đảm thực hiện những chương trình và mục tiêu của hệ thống đó”.
- Quản lý (thuật ngữ tiếng Anh là Management [ˈmænɪdʒmənt], tiếng lat.
manum agere - điều khiển bằng tay) đặc trưng cho quá trình điều khiển và dẫn
hướng tất cả các bộ phận của một tổ chức, thường là tổ chức kinh tế, thông qua
việc thành lập và thay đổi các nguồn tài nguyên (nhân lực, tài chính, vật tư, trí
lực và giá trị vô hình) do đó quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo
quy định.
- Đầu thế kỷ 20, nhà văn quản lý Mary Parker Follett định nghĩa “quản lý
là nghệ thuật khiến công việc được làm bởi người khác”. Theo F.W.Taylor cho
14
rằng: “Quản lý là phải biết chính xác điều muốn người khác làm và sau đó thấy
rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” [19]. Còn
H.Koonz lại khẳng định:“Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối
hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm (tổ
chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó con
người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và
sự bất mãn cá nhân ít nhất. Quản lý là một trong những loại hình quan trọng
nhất trong các hoạt động con người. Quản lý đúng tức là con người đã nhận
thức được quy luật, vận động theo quy luật và sẽ đạt được những thành công to
lớn” [20].
- Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Quản lý là
tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến

khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức đó
vận hành và đạt được mục đích của mình”.
Mặt khác, quản lý có 4 chức năng cơ bản: Kế hoạch hoá (lập kế hoạch), tổ
chức, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá. Lập kế hoạch: bao gồm xác định được mục
tiêu của tổ chức, thiết lập chiến lược tổng thể để đạt được mục tiêu đó và phát
triển một hệ thống thứ tự rõ ràng của kế hoạch để gắn kết và đan xen các hoạt
động. Cụ thể là: xác định sứ mệnh chức năng nhiệm vụ; dự báo, đánh giá triển
vọng; xác định mục tiêu (xa và gần); tính toán các nguồn lực, các giải pháp. Tổ
chức (công việc và các nguồn lực): là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc,
quyền hành và nguồn lực cho các bộ phận, các thành viên của tổ chức để họ có
thể hoạt động và đạt được mục tiêu của tổ chức một cách có hiệu quả. Các nội
dung của tổ chức gồm: phân tích công việc bằng nhiệm vụ; lựa chọn người vào
việc; phân bố các nguồn lực khác; xây dựng cơ chế làm việc. Chỉ đạo: là quá
15
trình tác động đến các thành viên của tổ chức, làm cho họ gắn kết, nhiệt tình tự
giác và nỗ lực phấn đấu đạt được mục tiêu của tổ chức. Kiểm tra, đánh giá: là
các hoạt động của chủ thể quản lý nhằm tìm ra mặt ưu điểm, mặt hạn chế, qua đó
đánh giá điều chỉnh và xử lý các kết quả của quá trình vận hành trong tổ chức,
làm cho mục tiêu của quản lý được thực hiện đúng hướng và có hiệu quả. Nội
dung chức năng kiểm tra: là xác định tiêu chí (chuẩn mực, đạo đức); sử dụng
phương pháp phù hợp, thu thập thông tin, phân tích thông tin và đánh giá, sử
dụng kết quả đánh giá sao cho có lợi.
Theo đó chức năng quản lý làm nên bản chất quản lý. Nó nâng cao hiệu
quả hoạt động của bộ máy và là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của tổ chức. Các
chức năng này của hoạt động quản lý được thực hiện liên tiếp, đan xen vào nhau,
phối hợp và bổ sung cho nhau tạo thành chu trình quản lý. Trong chu trình quản
lý có một yếu tố không thể thiếu được, nó có mặt trong tất cả các giai đoạn, nó
vừa là điều kiện, vừa là phương tiện cho nhà quản lý thực hiện các chức năng
quản lý và ra quyết định quản lý đó là thông tin. Mối liên hệ giữa các chức năng
quản lý được thể hiện thông qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 1. Mối liên hệ các chức năng quản lý
16
(Nguồn: Tập bài giảng cao học quản lý giáo dục, ĐHQG Hà Nội, 2007)
Qua xem xét khái niệm, quan điểm và chức năng của quản lý, theo tác giả,
Quản lý có thể hiểu là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý
tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Theo Từ điển Tiếng Việt, “giáo” có nghĩa là dạy, “dục” có nghĩa là nuôi;
giáo dục là dạy dỗ gây nuôi đủ cả trí – dục, đức – dục, thể – dục. Giáo dục (tiếng
Anh: education) là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng và thói quen của
một nhóm người được trao quyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng
dạy, đào tạo hay nghiên cứu. Nói cách khác, theo nghĩa rộng, giáo dục là mọi
vấn đề liên quan đến đời sống và sự hình thành nhân cách con người. Còn theo
nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự
phát triển trí tuệ, tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng
ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra [50,tr.5]. Do
vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về giáo dục như:
Kế hoạch
Kiểm tra
đánh giá
Chỉ đạo
Tổ chức
Thông tin
17
- Theo quan điểm Nho giáo, coi giáo dục hình thành với hệ thống đạo đức
lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nhân, trí, tín, dũng. Thiên chúa giáo và Đạo Tin lành, coi giáo
dục là dạy lòng bác ái, yêu tự do… C.Mác coi giáo dục là dạy sự bình đẳng, yêu
thương, bênh vực người cô thế, đứng về phía quyền lợi người nghèo khó…
- Chủ tịch Hồ Chí Minh có nội dung tư tưởng về giáo dục rất rộng lớn, bao
quát trên nhiều lĩnh vực, đó là giáo dục đạo đức làm người, là quan điểm giáo

dục con người nói chung về lý tưởng, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ, đạo đức trong
toàn bộ các quan hệ xã hội. Hồ Chí Minh coi giáo dục là một vũ khí sắc bén,
phải thông qua giáo dục, mở mang dân trí mới lấy lại được tinh thần phấn chấn
của dân tộc.
Từ nhiều cách hiểu khác nhau về giáo dục và xuất phát từ thực tế của nền
giáo dục nước ta hiện nay, có thể hiểu: Giáo dục là quá trình đào tạo con người
một cách có mục đích, theo kế hoạch và chương trình do thực tiễn đòi hỏi nhằm
trang bị cho người học những kỹ năng cần thiết, chuẩn bị cho họ tham gia vào
đời sống xã hội, lao động sản xuất. Giáo dục là hoạt động đặc trưng của xã hội
loài người, được sinh ra cùng với con người và tồn tại song song cùng với quá
trình phát triển xã hội. Giáo dục là một hiện tượng mang tính lịch sử và tính thời
đại. Mục đích của giáo dục là yếu tố tương đối ổn định, nhưng phương pháp
giáo dục và chương trình giáo dục luôn biến đổi theo chế độ chính trị và hoàn
cảnh kinh tế - xã hội. Giáo dục là một thành quả quan trọng của văn hóa dân tộc
[50,tr.183]. Theo tác giả, giáo dục là sự tương quan giữa thầy và trò trong việc
dạy và học. Người thầy phải là người có kiến thức, tư duy sáng tạo, có tâm với
nghề, luôn tìm ra cái mới, cái tích cực hơn trong dạy học. Còn trò là chủ thể của
việc tiếp thu kiến thức, nên đòi hỏi trò phải là người có ý thức chủ động, tích cực
học tập.
18
Quản lý giáo dục là một bộ phận quan trọng của hệ thống quản lý xã hội,
đã xuất hiện từ lâu và tồn tại dưới mọi chế độ xã hội. Với nhiều cách tiếp cận
khác nhau nên có các khái niệm như sau:
- Theo M.I.Koonđacốp:“Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất
cả mắt xích của hệ thống (Từ bộ đến Trường) nhằm mục đích đảm bảo việc hình
thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật
của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lý của trẻ em”.
- Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác
động có mục đích, kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục)

nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực
hiện được tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm là
hội tụ của quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu
dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [42,tr.21]. Cho nên quản lý giáo dục là
một bộ phận trong hệ thống quản lý Nhà nước về lĩnh vực giáo dục, là sự tác
động và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục -
đào tạo do các cơ quan quản lý giáo dục từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để
thực hiện những chức năng và nhiệm vụ về giáo dục - đào tạo.
- Theo tác giả Thái Văn Thành: “Quản lý giáo dục nằm trong quản lý văn
hoá - tinh thần. Quản lý giáo dục có thể xác định là tác động của hệ thống có kế
hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất
cả các mắt xích của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân
cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của
xã hội cũng như các quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và
19
tâm lý trẻ em” [47,tr.26]. Tác giả cho rằng quản lý giáo dục bao gồm một số vấn
đề cơ bản đó là xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách phát triển giáo dục; ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật về giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo, tiêu chuẩn cơ sở vật chất thiết
bị trường học; tổ chức bộ máy quản lý giáo dục; tổ chức chỉ đạo việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên, huy động quản lý sử dụng các nguồn lực…
Cũng như các hoạt động kinh tế xã hội, quản lý giáo dục có hai chức năng tổng
quát sau: chức năng ổn định, duy trì quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu hiện hành
của nền kinh tế - xã hội; chức năng đổi mới, phát triển quá trình đào tạo đón đầu
tiến độ kinh tế - xã hội. Như vậy quản lý giáo dục là hoạt động điều hành các nhà
trường để giáo dục vừa là sức mạnh, vừa là mục tiêu của nền kinh tế. Từ hai
chức năng tổng quát trên, quản lý giáo dục phải quán triệt và gắn bó với các chức
năng quản lý, cụ thể là: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra. Quản lý giáo
dục theo 2 cấp độ chủ yếu là cấp vĩ mô và cấp vi mô.
Tóm lại, quản lý giáo dục là sự tác động có mục đích, có hệ thống và có ý

thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý theo những quy luật khách quan
nhằm đảm bảo sự vận hành của các cơ quan trong hệ thống giáo dục đạt đến hiệu
quả mong muốn. Qua đó, khái niệm quản lý giáo dục có thể hiểu một cách chung
nhất là một quá trình mà trong đó luôn luôn diễn ra những tác động quản lý của
nhà quản lý. Quản lý giáo dục là quản lý một lĩnh vực cụ thể trong đời sống xã
hội.
1.2.1.3. Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường là quản lý vi mô, nó là một hệ thống con của quản lý
vĩ mô: Quản lý giáo dục; quản lý nhà trường có thể hiểu là một chuỗi tác động
20
hợp lý (có mục đích, tự giác, hệ thống, có kế hoạch) mang tính tổ chức – sư
phạm của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và học sinh, đến những lực lượng
giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng cộng tác, phối hợp,
tham gia vào mọi hoạt động của nhà trường nhằm làm cho quá trình này vận
hành tối ưu để đạt được những mục tiêu dự kiến [47]. Vì nhà trường là thực thể
trung tâm của bất kỳ sự biến đổi nào trong hệ thống giáo dục. Nhà trường là đơn
vị cấu trúc cơ bản của hệ thống giáo dục quốc dân, là cơ quan Nhà nước thành
lập nên hoặc cho phép thành lập để chuyên trách việc đào tạo con người theo yêu
cầu của nền kinh tế - xã hội của đất nước theo từng giai đoạn lịch sử.
Quản lý nhà trường là một bộ phận trong quản lý giáo dục và phải vận
dụng tất cả các nguyên lý chung của quản lý giáo dục để đẩy mạnh hoạt động
của nhà trường theo mục tiêu giáo dục đề ra. Tác giả Nguyễn Ngọc Quang đã
đưa ra nội dung khái quát về quản lý nhà trường: “Quản lý trường học là thực
hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là
đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục,
mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”
[42,tr.19].
- Theo GS.TSKH Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo
dục là tổ chức hoạt động dạy học. Có tổ chức được hoạt động dạy học, thực hiện
được các tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới

quản lí được giáo dục, tức là cụ thể hoá đường lối giáo dục của Đảng và biến
đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước”
[26,tr.10]. Quản lý nhà trường gồm 2 loại: tác động của những chủ thể quản lý
bên trên và bên ngoài nhà trường, trong đó quản lý nhà trường là những tác động
quản lý của cơ quan quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều điều
21
kiện cho hoạt động giảng dạy, học tập của nhà trường. Quản lý nhà trường do
chủ thể quản lý bên trong nhà trường tác động bao gồm các hoạt động: quản lý
giáo viên, quản lý học sinh, quản lý quá trình dạy học – giáo dục, quản lý cơ sở
vật chất, trang thiết bị nhà trường, quản lý tài chính trường học, quản lý mối
quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng. Như vậy, quản lý nhà trường thực chất là
quản lý quá trình lao động sư phạm của thầy, hoạt động học tập và tự giáo dục
của trò diễn ra chủ yếu trong quá trình dạy học. Tuy nhiên, do tính chất quản lý
nhà trường vừa mang tính Nhà nước, vừa mang tính xã hội nên trong quản lý nhà
trường còn bao hàm quản lý đội ngũ, CSVC, tài chính, hành chính, quản trị… và
quản lý các hoạt động phối kết hợp với các lực lượng xã hội để thực hiện mục
tiêu giáo dục.
Mặt khác, quản lý nhà trường chính là quản lý quá trình giáo dục bao gồm
các thành tố: Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp - Giáo viên (Người dạy) - Học
sinh (Người học) - Kết quả. Các thành tố này có mối quan hệ gắn bó mật thiết
với nhau dưới sự tác động của người quản lý trường học, chúng vận hành theo
một quỹ đạo nhất định nhằm đạt mục tiêu, kế hoạch đề ra và được thể hiện bởi
sơ đồ sau:
Sơ đồ 2. Mối quan hệ giữa các thành tố của quá trình giáo dục
Mục
tiêu
Giáo
viên
Phương
pháp

Kết quả
Nội
dung
Học
sinh
Quản lí
22
Theo đó chúng tôi cho rằng: Quản lý nhà trường là những tác động hợp
quy luật của chủ thể quản lý nhà trường (hiệu trưởng) đến khách thể quản lý
nhà trường (giáo viên, nhân viên và học sinh, ) nhằm đưa các hoạt động giáo
dục và dạy học của nhà trường đạt tới mục tiêu phát triển giáo dục của nhà
trường.
1.2.2. Cán bộ quản lý, cán bộ quản lý nữ
Theo từ điển tiếng Việt, cán bộ quản lý là “người làm công tác có chức vụ
trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ”
[50,tr.105]. Thuật ngữ cán bộ còn chỉ chung cho những người mang trọng trách,
công vụ và có những quyền hạn nhất định. Cán bộ cũng là danh xưng thường
được những người dân chỉ về những người có quyền hành (cán bộ lãnh đạo, cán
bộ cao cấp, cán bộ quản lý, cán bộ nguồn ) hay đang thụ lý giải quyết một vụ
việc cho người dân (cán bộ thuộc dịch vụ công cộng). Theo đó, CBQL là chủ thể
quản lý, là người có chức vụ trong tổ chức, được cấp trên ra quyết định bổ nhiệm,
là người chỉ huy, giữ vai trò lãnh đạo, dẫn dắt, tác động, ra lệnh, kiểm tra đối
tượng quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu của đơn vị; người quản lý vừa là
người lãnh đạo, quản lý của cơ quan, đơn vị, vừa chịu sự chỉ đạo, quản lý của cấp
23
trên. Cán bộ quản lý có thể là cấp trưởng hoặc cấp phó của một tổ chức được cơ
quan cấp trên bổ nhiệm bằng quyết định hành chính nhà nước. Cấp phó giúp việc
cho cấp trưởng, chịu trách nhiệm trước cấp trưởng và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về công việc được phân công.
Theo Điều 1, Pháp lệnh Cán bộ công chức sửa đổi năm 2003 quy định cán

bộ, công chức như sau:“Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công
dân Việt Nam, trong biên chế, bao gồm:
a) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);
b) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường
xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương,
cấp tỉnh, cấp huyện;
c) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức
hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
d) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao
giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức
chính trị và tổ chức chính trị - xã hội; …”
Như vậy, Pháp lệnh Cán bộ, công chức chưa phân biệt cán bộ, công chức
và viên chức. Tại điểm d khoản 1 còn quy định những người được tuyển dụng,
bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên
24
trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã
hội thì vẫn được xem là cán bộ, công chức.
Ngày 13 tháng 11 năm 2008, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua Luật cán bộ, công chức và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010, mới quy định rõ khái niệm cán bộ và
công chức. Điều 4 Luật Cán bộ, công chức quy định:
“ 1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ

ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công
lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được
bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp
luật” [44].
25
Ngày 15 tháng 11 năm 2010, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua Luật Viên chức và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2012. Theo đó, tại Điều 2 Luật Viên chức quy
định: “Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm
việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương
từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. Và
Điều 3: “Viên chức quản lý là người được bổ nhiệm giữ chức vụ quản lý có thời
hạn, chịu trách nhiệm điều hành, tổ chức thực hiện một hoặc một số công việc
trong đơn vị sự nghiệp công lập nhưng không phải là công chức và được hưởng
phụ cấp chức vụ quản lý” [46]. Theo đó, sau khi Luật Viên chức ra đời thì khái
niệm Viên chức, Viên chức quản lý được quy định và xác lập địa vị pháp lý của
họ.
Như vậy, từ khái niệm cán bộ, công chức của Pháp lệnh Cán bộ, công
chức đến khái niệm cán bộ, công chức của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và
Luật Viên chức năm 2010 là một quá trình có tính lịch sử. Do vậy, trong phạm vi
luận văn này, chúng tôi sử dụng khái niệm cán bộ, cán bộ quản lý xin được hiểu

như viên chức, viên chức quản lý để nói đội ngũ cán bộ quản lý ở nhà trường.
Vai trò của CBQL ngày càng cao, thực chất là đòi hỏi người cán bộ cần có
bản lĩnh, tri thức, quyết đoán, năng động, nhạy bén và vận dụng linh hoạt trên cơ
sở các quan điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh tế – xã hội trong công
cuộc đổi mới đất nước. Người CBQL là nhân vật có trách nhiệm phân bổ nhân
lực và các nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành của một bộ phận hay toàn bộ tổ
chức để tổ chức hoạt động có hiệu quả và đạt mục đích. Và vai trò của CBQL
còn có sức ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động của một tập thể, một tổ chức nào
đó, như câu nói: “Cán bộ quản lý là đội ngũ sĩ quan của ngành, nếu được đào

×