Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận trồng rừng KỸ THUẬT TRỒNG CÂY BẠC HÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 22 trang )

1. KỸ THUẬT TRỒNG CÂY BẠC HÀ
Đặc điểm:
Bạc hà còn gọi là Bạc hà nam, Nạt nặm, Cha piac
bom (Tày) Mentha arvensis L. Họ Hoa môi
(Laminaceae)
Mô tả cây: Cỏ thân mềm hình vuông, mọc đứng hay mọc bò. Khi phân cành có thể cao
khong 30-80 cm. Lá mọc đối, mép khía răng, hoa nhỏ màu trắng hoặc tím hồng mọc ở
kẽ lá (Bạc hà Âu thì hoa mọc đầu cành). Toàn cây có lông và có tinh dầu thơm.
Phân loại:
Bạc hà Âu (mentha piperita L.) di thực của Nga, Đức; sản lượng kém hơn bạc hà Nam,
nhưng mùi vị thơm mát.
Bạc hà Nam thường mọc hoang ở nhiều nơi, chỗ ẩm ướt, và mọc thành vùng tập trung
ở Sơn La, Lai Châu, Vĩnh Phú (Tam Đảo), Lào Cai và thường trồng ở vườn nhà từng
khóm với các thứ rau thơm.
Gần đây ta đã nhập một loại Bạc hà Nhật Bản cũng thuộc loại Mentha arvensis L. có
sản lượng tinh dầu và menthol khá cao. Các vùng sản xuất hiện nay chủ yếu là loại Bạc
hà này. Bạc hà là loại cỏ sống lâu năm, mùa đông cây lụi đi nhưng sang xuân lại đâm
mầm, mọc lại. Tuy vậy, muốn có sản lượng cao thì cần trồng lại hàng năm, thu hoạch
trước mùa nước.
Đất trồng:
Bạc hà ưa đất nhiều màu, ẩm nhưng thoát nước: khô thì rụng lá, úng thì thối lá, chỗ
trũng lá phủ kín ẩm quá thì sinh nấm bệnh.
- Ở rừng tốt nhất là đất mới khai phá, có nhiều mùn và độ ẩm cao. Đất rừng sườn đồi
nên san luống có bờ theo bậc thang không dốc quá 15-20 độ C, tránh mưa trôi phân và
xói đất.
- Ở đồng bằng cần luân canh, trồng vào đất mới ở chân ruộng vụ trước trồng đậu hay
trồng lúa. ở ruộng lúa thì dọn rạ đến đâu, cày ngay đến đấy, phơi ải nhằm diệt cỏ dại và
trứng sâu. Sau vài ngày, bừa, vơ sạch cỏ. Nếu đất khô thì cày vỡ rồi bừa luôn để giữ
ẩm. Lần sau thì cày bừa rồi lên luống ngay, để phòng mưa ướt đất. Đất cần đập nhỏ,
mặt luống phải phẳng để dễ thoát nước.
Trường hợp chân ruộng thấp thì phải lên luống cao 10-15 cm, rộng 0,9-1 m, rãnh luống


rộng 20 cm. Thời vụ trồng Bạc hà tốt nhất là tháng 2-3. Trồng Bạc hà với quy mô lớn
đòi hỏi mấy điều kiện sau đây:
1. Cần gần nguồn nước tưới, xa mương phải đào giếng.
2. Cần có tổ chức cất tinh dầu ở liền, tránh vận chuyển cồng kềnh và hư hỏng nguyên
liệu.
3. Cần chuẩn bị phân bón đầy đủ, với cách thức chăm bón thích hợp.
Phân bón:
Lượng phân cần thiết cho một hecta như sau: 15-20 tấn phân chuồng hay 5-7 tấn phân
bắc, phân phải được ủ hoai mục, nhất thiết không được dùng phân tươi, vì phân tươi
toả nhiệt làm chết cây. 2/3 phân chuồng hoai mục trộn với phân lân dùng để bón lót,
còn 1/3 cần ủ thêm cho thật hoai để sau khi thu hoạch lần thứ nhất sẽ bón thêm. - Phân
hoá học chỉ cần ít: - 200-300 kg supe phosphat trộn với phân chuồng để bón lót và bón
thúc. - 200-250 kg phân amon sunfat dùng để tưới thúc. Sau mỗi lứa cắt tưới thúc 2-3
lần. Mỗi lần 15-20 kg/ha pha loãng tưới, tiếp sau tưới nước lã để rửa đạm cho khỏi táp
lá. - 150kg kali sunfat chia theo tỉ lệ như trên hoà cùng phân đạm tưới thúc.
Gieo trồng:
Sau khi làm đất nhỏ thành luống và bón lót phân như đã nói trên, rạch hàng ngang
luống sâu 8-10cm, hàng cách nhau độ 25-30cm, để trồng. Có thể trồng bằng cành để
nguyên không cắt thì rải đều theo rãnh, lấp đất để ngọn thò độ 3 cm và ấn chặt gốc,
tưới nước. Hoặc dùng thân rễ cắt thành đoạn 8-10cm, đặt vào rãnh nối đuôi nhau, lấp
đất ấn chặt, tưới ngay nước để chóng bén rễ.
Làm cỏ và tưới nước:
Ở giai đoạn cây chưa bò lan ra thì dùng cuốc xới phá váng đất. Nhưng sau khi cây bò
rộng ra và thân rễ đã phát triển mạnh thì nhổ cỏ bằng tay và xáo xới ở chỗ đất hở và
má luống. Bạc hà gặp hạn thì khô cằn, nếu thiếu nước nghiêm trọng thì lá sẽ rụng trụi.
Vậy cần phải tưới nước kịp thời. Mùa hè đất quá khô thì nên tưới nước qua các rãnh
để ngấm sâu vào thân rễ, hoặc bơm tháo nước vào ruộng qua một đêm, hôm sau tháo
kiệt. Nếu gặp mưa to cần tháo nước nhanh chóng cho khỏi thối lá.
Phòng trừ sâu bệnh:
Cần chú ý phòng bệnh và trừ sâu cho cây:

- Khi cây phân cành nhiều, lá che kín đất, thiếu ánh sáng, ở chỗ trũng độ ẩm chênh
lệch nhiều với độ ẩm không khí là cơ hội để bệnh gỉ sắt lan nhanh. Dùng dung dịch
Boocđô hoặc hợp tễ Diêm sinh với Vôi phun định kỳ 7 ngày 1 lần để hạn chế bệnh.
- Bệnh thối lá dễ phát hiện. Hễ thấy một đám nhỏ bị nhũn tựa như bị đổ nước nóng vào,
thì cũng phòng trừ như trên, hoặc nặng thì nhổ đám cây bị bệnh và rắc vôi bột vào.
- Vào tháng 1-2-3, để phòng sâu xám cắn ngang cây khi mầm lá mới mọc: dùng thuốc
trừ sâu trộn với đất bột và cỏ non rắc lên trên mặt luống vào chiều tối để đêm sâu ra ăn
sẽ chết. Sâu ít thì bắt bằng tay. - Có loại sâu khoang ăn lá rất hại. Cần xử lý kịp thời,
dùng thuốc trừ sâu pha loãng phun vào buổi chiều mát, phun liên tục, cách nhau 3
ngày, vài lần thì hết sâu.
Thu hái và nhân giống:
Sau khi trồng khoảng 4-5 tháng, khi thấy khối lượng thân lá cao nhất, hoa nở rộ,
thường vào tháng 5-6 thì thu hái lần đầu. Cắt phần thân cành có mang lá là chính, phần
còn lại phải cắt bỏ đi để cho mặt luống bằng phẳng, sạch cỏ. Bừa qua để xới sơ đất và
vơ sạch cỏ. Bấy giờ lấy số phân còn lại 1/3 đánh tơi rải đều trên mặt luống, hót đất phủ
lên, rồi tưới nước để cây tái sinh. Sau khoảng 2 tháng thân cành phát triển mạnh, có
thể thu hoạch được lần thứ 2; lần thứ 3 thường thu hoạch sau đấy 3 tháng, kỳ này sản
lượng giảm sút. Nếu ruộng quá cao không ngập nước thì chăm sóc cho cây sống qua
mùa đông. Sang màu xuân nhờ có mưa phùn, cây ra nhiều mầm non, đánh đem trồng
nơi khác.
Nếu trường hợp ở chân ruộng trũng, mùa mưa hay bị ngập thì cuốc cây lên chuyển
trồng tạm sang ruộng khác để lấy giống trồng năm sau. Đây là cách để giống. Cách thu
hái Bạc hà rất đơn giản: chọn ngày nắng ráo, vào buổi sáng lúc đã ráo sương, dùng
liềm cắt phần thân cành có lá, để từng nắm nhỏ nơi râm mát qua một ngày cho héo
bớt, đến chiều thu dọn vào nơi chứa. Cắt đến đâu thì cất tinh dầu đến đó. Khi vận
chuyển cần tránh làm lá nhàu nát, hao hụt mất tinh dầu. Nếu chưa cất kịp không nên để
đống to, phơi rải san ra hóng nơi thoáng gió. Cây Bạc hà rất dễ thối mốc, trường hợp
thiếu điều kiện cất tinh dầu kịp thời phải phơi khô trong râm để cất tinh dầu sau, hoặc
dùng vào thuốc thang. Trung bình mỗi hecta có thể thu được 15-20 tấn lá tươi và cất
được 70-100 lít tinh dầu. Nhu cầu tinh dầu Bạc hà rất lớn: làm thuốc, làm dầu xoa, chế

dầu cù là, cao sao vàng, thuốc đánh răng, kẹo ngậm ho
Cất tinh dầu:
Sau khi trồng khoảng 4-5 tháng, đến lúc thấy trên ruộng Bạc hà hoa đã nở 100% số cây
và trong mỗi cây hoa nở 70% trên cụm hoa, định lượng tinh dầu lúc đó khoảng 5/1000
là có thể thu hoạch được. Cắt thân phần có mang lá đem về xưởng cất tinh dầu, xếp rải
ra trên nền nhà, không xếp đống. Cắt từ lúc 9 giờ sáng đến 15 giờ chiều là thời gian
Bạc hà có tinh dầu cao nhất, không nên cắt sớm quá và cũng không nên cắt vào lúc
chiều tối, vì lúc này có sương xuống làm giảm hàm lượng tinh dầu. Cất tinh dầu Bạc hà
dùng lối kéo bằng hơi nước, nguyên liệu xếp ở chõ đặt trên nồi nước đáy, mà không
nên dùng kiểu nồi luộc trực tiếp, làm giảm hiệu suất và phẩm chất tinh dầu. Về cách
cất, đợi lúc sôi nước mới cho Bạc hà vào lèn chặt nồi chõ, đậy kín, thúc lửa to 15-20
phút, sau dầu bắt đầu chảy ra từ ống ruột gà. Hứng dầu bằng bình phân ly (séparator)
sẽ được tinh dầu. Ngoài tinh dầu, bình phân ly còn cho nước cất (gọi là nước thơm).
Nước này còn chứa một lượng tinh dầu tan trong nước không nên bỏ đi. Có thể lại
dùng nước này cho ngay vào nồi để cất mẻ sau cùng với lá mới, hoặc dùng để chế biến
nước súc miệng hoặc làm nước sirô Bạc hà giải khát cũng tốt.
Công dụng:
Bạc hà vị cay tính mát, vào Phế Can, có tác dụng tán phong nhiệt, làm ta mồ hôi, giải
cảm sốt nhức đầu và nôn mửa không tiêu.
Liều dùng như sau:
- Tinh dầu dùng giải cảm sốt nóng không có mồ hôi, mỗi lần uống 8-15 giọt với nước
nóng; dùng chữa nôn mửa, không tiêu, mỗi lần uống 4-8 giọt chiêu với nước nguội. Rót
tinh dầu vào chén hay thìa nước, chiêu vào họng rồi uống tiếp nước tráng miệng.
- Lá tươi hay khô (bằng nhau) mỗi lần hay mỗi thang thuốc dùng 8-15g. - Chữa các
chứng cảm sốt nóng (không gai rét) nhức đầu, mắt đau sưng đỏ, nôn oẹ, hoặc trẻ sốt
nóng, lên sởi lúc mới bắt đầu mọc, dùng Bạc hà và Sắn dây, mỗi vị 10-15g, đổ 1/3 lít
nước, bịt kín ấm, đun sôi vài dạo bắc ấm xuống để xông, rồi rót một chén uống. Sau
sắc uống thêm 1-2 nước. Nếu cảm có mồ hôi thì không xông và uống thuốc nguội.
- Chữa dị ứng mề đay, dùng lá Bạc hà tươi vò xát đỡ ngứa.
2. KỸ THUẬT TRỒNG NHÃN

Mùa vụ
Nếu có đủ nước tưới thì nên trồng vào cuối
mùa mưa, khoảng tháng 10-11dl vì đến mùa nắng
cây có đầy đủ ánh sáng cây sẽ phát triền tốt hơn.
Nếu trồng vào mùa mưa, khoảng tháng 5-6 dl thì cần
chú ý thoát nước vì nếu mưa nhiều thì đất bị
lèn nhãn bị chết do nghẹt rễ.
Đất trồng và chuẩn bị líp trồng
- Cây nhãn Xuồng phát triển tốt trên đất cát
pha, cát giồng, và đất có độ pH từ 6-7, nhưng
không thích hợp trên đất sét nặng. Tuy nhiên, nếu
ghép giống nhãn Xuồng lên cành hoặc gốc giống nhãn khác thì sự sinh trưởng của
nhãn xuồng phụ thuộc vào cây làm gốc ghép.
- Líp rộng trung bình 8m, mương rộng 3-4m, sâu 1-1,2m. Mô đất đắp thành hình
tròn, rộng 0,6- 0,8m, cao 0,5-0,7m. Mỗi mô đất trộn 200-300g super lân, 10kg
phân chuồng hoai và tro trấu, chuẩn bị trước khi trồng khoảng 15 ngày.
Cách trồng
- Khoảng cách trồng tuỳ đất đai và mô hình trồng, có thể chọn khoảng cách thích
hợp là 6x5m, 6x6m (tương đương khoảng 300-350cây/ha ).
- Khoét lỗ trên mô, đặt bầu vào, lấp đất vừa quá mặt bầu, ém đất chung quanh gốc,
cắm cọc để giữ cây con (tránh rễ bị lung lay), tưới đẫm nước. Dùng rơm rạ hay cỏ khô
đậy mô lại.
Chăm sóc
Đắp mô, bồi líp
Trong 2 năm đầu, hàng năm cần đắp thêm đất khô vào chân mô, giúp mô
cao hơn, rộng hơn. Từ năm thứ 3 trở đi, hàng năm nên vét bùn non ở đáy mương
để bồi líp một lớp mỏng 2-3cm ngay sau khi xới gốc, bón phân. Trong trường hợp
trồng nhãn trên đất thịt ít cát có thể bồi cát hàng năm để giúp hệ thống rễ phát triển
tốt.
Rào chắn gió

Thân nhãn Xuồng tương đối giòn, dễ gãy. Do đó, cần phải trồng cây chắn
gió để hạn chế, gãy cành, rụng hoa, trái trong mùa mưa bão.
Làm cỏ, xới đất, phủ líp
Giai đoạn cây con cần làm cỏ theo mô, cần thường xuyên làm cỏ để tránh
cạnh tranh dinh dưỡng, dùng cuốc 3 răng xới xáo đất giúp thông thoáng, không
dùng cuốc lưỡi và không xới sâu vì làm tổn thương bộ rễ. Tuyệt đối không diệt cỏ
trong vườn nhãn bằng các hoá chất, tốt nhất nên quản lý cỏ trong vườn nhằm giữ
ẩm cho đất trong mùa nắng và chống xói mòn đất trong mùa mưa.
Tưới tiêu
Cần cung cấp nước thường xuyên trong mùa nắng khi cây còn nhỏ, nhất là
trên đất pha cát rất dễ bị thiếu nước. Cây trưởng thành chịu khô hạn khá hơn,
nhưng phải cung cấp đủ nước vào các giai đoạn cần thiết như: khi cây bắt đầu ra
hoa, phát triển trái và sau thu hoạch. Tuy nhãn có thể chịu ngập trong thời gian
ngắn nhưng cây phát triển kém, do đó cần thoát nước kịp thời.
Bao trái
Để tránh thiệt hại do dơi và côn trùng đục trái, đồng thời giúp trái đẹp màu hơn nên
dùng bao trái hay bao giấy để bao trái giai đoạn 1 tháng trước khi thu hoạch.
Tỉa cành và tạo tán
Tạo tán: Giai đoạn cây còn nhỏ hoặc mới phát triển từ cành ghép, gốc ghép cần tạo
tán để cây có bộ tán phân bố đều, nhiều cành sẽ cho năng suất cao sau này.
Sau khi trồng, cây cần được tưới nước đầy đủ để phục hồi sinh trưởng. Khi cây
xuất hiện tượt non đầu tiên thì tiến hành bấm ngọn.
- Từ gốc lên khoảng 60-80 cm (đối với nhánh chiết) hoặc từ vị trí mắt ghép lên
khoảng 40-60 cm (trên gốc ghép) thì bấm bỏ phần ngọn, mục đích để các mầm ngủ và
cành bên phát triển.
- Chọn 3 cành khỏe, thẳng mọc từ thân chính và phát triển theo ba hướng
tương đối đồng đều nhau làm cành cấp 1. Dùng tre cột giữ cành cấp 1 tạo với thân
chính một góc 35-40
o
.

- Sau khi cành cấp 1 phát triển dài khoảng 50-80 cm thì cắt đọt để các mầm ngủ
trên cành cấp 1 phát triển hình thành cành cấp 2 và chỉ giữ lại 2-3 cành.
- Cành cấp 2 này cách cành cấp 2 khác khoảng 15 - 20cm và tạo với cành cấp
1 một góc 30- 35
0
. Sau đó cũng tiến hành cắt đọt cành cấp 2 như cách làm ở cành cấp
1. Từ cành cấp 2 sẽ hình thành những cành cấp 3.
- Cành cấp 3 không hạn chế về số lượng và chiều dài nhưng cần loại bỏ các
chỗ cành mọc quá dày hoặc quá yếu. Sau 3 năm cây sẽ có bộ tán cân đối, thuận lợi
trong chăm sóc, phòng ngừa sâu bệnh và thu hoạch .
Tỉa cành: Sau thu hoạch cần tiến hành tỉa bỏ những cành sâu bệnh, cành bị che khuất
trong tán cây, cành vượt đồng thời cắt tỉa đoạn cành mang trái và sửa tán nếu cành
quá dài để giúp cây ra tược non đồng loạt. Tỉa cành kết hợp với sửa tán thường được
thực hiện trong mùa khô.
Phân bón:
việc sử dụng phân hoá học một cách lạm dụng trong nhiều năm đã đưa lại một
hậu quả là: đất đai ngày càng bị chai cứng, mất khả năng sản xuất, bệnh hại rễ
ngày càng phát triển và khó phòng ngừa. vì vậy, xu hướng hiện nay là sử dụng
phân hữu cơ càng nhiều càng tốt. phân hữu cơ có thể là phân có nguồn gốc thực
vật (rơm rạ, cỏ khô, rác) hay động vật (phân trâu, bò, heo, gà…), được ủ hoai trước
khi bón cho cây.
việc sử dụng phân hữu cơ có tác dụng như:
- Cung cấp chất dinh dưỡng cho cây, trong phân hữu cơ có đầy đủ các
nguyên tố cần thiết cho cây, từ đa lượng đến vi lượng giúp sự sinh trưởng và phát
triển của cây.
- Phân hữu cơ không làm cháy lá, hỏng rễ do nồng độ dinh dưỡng trong
phân hữu cơ thấp.
- Giúp quả có phẩm chất ngon, kéo dài thời gian bảo quản sau thu hoạch.
- Tạo môi trường tốt cho sự phát triển vi sinh vật đất, giúp quá trình phân
hủy chất hữu cơ xảy ra nhanh hơn, cung cấp cho rễ cây được nhiều chất dinh

dưỡng.
- Tăng hiệu lực của phân hoá học
- Làm cho đất tơi xốp, thoáng khí, giữ nước và giữ phân tốt hơn, cải tạo và nâng
cao độ phì của đất.
Tùy theo loại đất, giai đoạn sinh trưởng mà lượng phân cung cấp cho cây thích hợp.
Trên cây nhãn được chia làm hai thời kỳ bón như sau:
Thời kỳ kiến thiết cơ bản:
- Cây từ 1 – 3 năm tuổi: Sau khi trồng, khi cây ra đọt non thì có thể bón phân, năm
đầu tiên cây còn nhỏ nên pha phân vào nước để tưới, phải cách gốc từ 10 – 20 cm
để tránh phân bón làm cháy rễ. Giai đoạn này nên tiến hành bón phân khi lá chuyển
sang màu xanh đậm.
- Hàng năm bón phân hữu cơ hoai mục từ 5 – 10 kg/cây.
Bảng 1: Lượng phân bón cho nhãn thời kỳ kiến thiết cơ bản

Tuổi
cây
số lần
bón/
Dạng phân (g/cây/năm)
Dạng phân
(Urea)
Dạng phân
( super lân)
Dạng phân
(KCl)
1 4-5 100 N (217g) 50 P
2
O
5
(303g) 100 K

2
O (167g)
2 3-4 200 N (435g) 70 P
2
O
5
(424g) 150 K
2
O (250g)
3 4 300 N ( 652g) 100 P
2
O
5
(606g) 200 K
2
O (335g)

Thời kỳ khai thác:
- Trong thời kỳ này dinh dưỡng là yếu tố chính ảnh hưởng đến sự hình thành trái
(ngoại trừ thời tiết, nhiệt độ, lượng mưa), bón phân hợp lý sẽ làm cho năng suất
được ổn định. Thiếu phân, đặc biệt là thiếu đạm, lân sẽ làm cho trái rụng, nhỏ và
cơm mỏng.
- Đối với cây trên 3 năm tuổi: Lượng phân bón cho mỗi gốc/năm là: 0,8-1 kg urê,
0,8-1,5kg super lân và 0,5-0,8 kg KCl. Lượng phân này tăng dần hàng năm khoảng
10-15% đến khi cây cho trái ổn định (sau 8-10năm). Số lần bón chia ra như sau:
+ Lần 1: Sau khi thu hoạch quả 1 tuần, bón 1/3 lượng urê và toàn bộ lượng super lân.
+ Lần 2: Trước khi cây ra hoa 5 tuần: bón 1/3 lượng urê và 1/3 lượng KCl.
+ Lần 3: Khi trái phát triển có đường kính quả khoảng 1cm: bón 1/3 lượng urê và
1/3 KCl
+ Lần 4: Trước khi thu hoạch trái khoảng 1 tháng: bón 1/3 lượng KCL còn lại.

- Hàng năm cần bón thêm phân chuồng hoai khoảng 10-20kg/gốc. Có thể bón thêm
tro trấu, xác thân cây họ đậu, vỏ đậu, … Nhìn chung, tùy khả năng sinh trưởng,
năng suất của mùa trước mà có lượng phân NPK phù hợp cho vụ kế tiếp.
Cách bón phân
Sau thu hoạch, cuốc rãnh xung quanh gốc theo hình chiếu tán cây, cách gốc
khoảng 2/3 tán cây, sâu 10-20 cm cho phân vào lấp đất lại và tưới nước. Các đợt
sau bón quanh tán cây cách gốc 0,5m không cần xới đất hay đào rãnh.
Phân bón lá: Để bổ sung dinh dưỡng kịp thời cho cây, có thể phun phân bón phân
bón lá như 15-30 -15, Komix, Bayfolan, Complates, Atonic…khi cây có lá lụa hoặc
giai đoạn trái đang phát triển (1-2 tháng trước khi thu hoạch) để giúp tăng khả năng
sinh trưởng, ra hoa, đậu quả.
Xử lý ra hoa nhãn Xuồng cơm vàng:
Vụ thuận: Trong điều kiện tự nhiên ở ĐBSCL nhãn Xuồng cơm vàng ra hoa tự
nhiên từ tháng 4 -5 và thu hoạch vào tháng 8-9dl. Khi thu hoạch xong cần tỉa cành
đồng loạt. Bón phân đầy đủ theo khuyến cáo. Phun một số phân bón lá có hàm lượng
đạm cao như N-P-K (30-10-10) với liều lượng 10g/8-10 lít nước để nuôi bộ lá cho tốt.
Bắt đầu ngưng tưới nước khi lá của đợt đọt thứ hai trở nên già và bắt đầu cho đọt thứ
ba. Đến khi cây vừa nhú hoa có thể tưới nước trở lại. Nếu trong thời gian ngưng tưới
thấy cây có triệu chứng thiếu nước có thể tiến hành tưới nhẹ cho cây.
Vụ nghịch: Đối với nhãn Xuồng khi tháp trên gốc nhãn tiêu Da Bò có thể xử lý
ra hoa bằng KClO
3
. Hiện nay trên thị trường có nhiều loại KClO
3
, khi xử lý cần phải
xem lại loại nào để sử dụng liều lượng cho đúng. Sau khi thu hoạch tiến hành tỉa
cành, tạo tán giúp cây ra cơi đồng loạt. Bón phân đầy đủ theo khuyến cáo. Khi cơi đọt
thứ hai từ lá lụa chuyển sang đọt chuối thì tiến hành tưới KClO
3
nồng độ 16-24g/m

đường kính tán trong 10 lít nước tưới xung quanh tán cây cách gốc 0,5m, 1 tuần
sau tiến hành khoanh cành (chừa ¼ cành thở) vết khoanh rộng khoảng 3mm. Sau
khi khấc cành từ 5-7 ngày phun phân bón lá MKP nồng độ 0,5% để thúc đẩy cây ra
hoa đồng loạt. Để đạt được hiệu quả khi xử lý ra hoa mùa nghịch cho nhãn Xuồng
cơm vàng tháp trên gốc nhãn tiêu da bò, nên chú ý tạo cơi đọt đồng loạt ngay từ
đầu và tưới nước bón phân để cây không ra hoa mùa thuận. Khi cây chuẩn bị ra
hoa thì không nên tưới nước bón phân vì như thế cây sẽ có khuynh hướng ra đọt
hơn là ra hoa, chỉ khi nào thấy cây ra hoa thật sự thì mới tiến hành tưới nước bón
phân
*Chú ý: Khi sử dụng KClO
3
nên thận trọng vì đây là chất dễ gây cháy nổ.
Tăng đậu quả, hạn chế rụng trái non
Tăng đậu qủa: Dùng Progibb (GA
3
) liều lượng 0,1g/10 lít nước hoặc H
3
BO
3

1,0g/10 lít nước, phun vào các thời điểm trước khi cây nở hoa, 30% hoa nở và cây vừa
đậu quả sẽ làm tăng tỉ lệ đậu quả.
Khắc phục hiện tượng rụng trái non: Trồng cây chắn gió, tưới nước, bón phân
đầy đủ, phòng trừ sâu bệnh và phun các chế phẩm chống rụng quả non như: CRT,
Thiên Nông, Retain,… từ khi trái có đường kính 0,3-0,5 cm.
Sâu bệnh
Nhãn Xuồng cơm vàng ít sâu bệnh nhưng cũng có một số đối tượng cần chú ý
phòng trừ như:
- Sâu hại: Bọ cánh cứng hại lá, bọ xít (gây hại khi cây ra đọt non); sâu ăn bông (gây
hại trên bông); rệp sáp (gây hại cành, lá ,hoa, trái); sâu đục trái (tấn công giai đoạn trái).

- Bệnh hại: Bệnh đốm rong, đốm bồ hóng do nấm (chủ yếu gây hại trên lá); bệnh
khô cháy hoa (gây hại trên hoa); bệnh phấn trắng (gây hại trên hoa và trái non); bệnh
thối trái (gây hại khi trái gần thu hoạch).
3. KỸ THUẬT TRỒNG RAU MÁ
Rau má là cây cho lợi nhuận khá cao, nhưng
trồng rau má phải dày công chăm sóc và xuống
giống đúng thời vụ (hợp lý nhất là tháng giêng
Âm lịch). Mùa khô cần tưới nước thường xuyên.
Rau má khá nhạy cảm với thời tiết, môi trường.
Sương mù khiến cây vàng úa, cần tưới rửa vào
buổi sáng. Những cơn mưa đầu mùa dù lớn hay
nhỏ cũng cần tưới nước, rửa axít và tránh môi
trường thay đổi đột ngột làm cây hư hỏng. Rau
má thích hợp các loại phân vi sinh và phân
chuồng.
Chọn giống hợp lý: Hiện có 3 loại giống chủ yếu: giống rau má cọng tím (thân tím,
phiến lá hình dạng răng cưa), giống rau má mèo (cây thấp, lá nhỏ, bò sát mặt đất) và
giống rau má mỡ (thân to, lá to và xanh mướt, cây cao) là loại cho hiệu quả cao nhất
hiện nay.
Làm đất: Không nên lên liếp cao quá dễ bị khô, nên làm theo kiểu cuốn chiếu đưa tầng
đất mặt nằm trên mặt liếp là tốt nhất. Sau khi lên liếp, làm rãnh thoát nước giữa liếp và
để tiện chăm sóc, lượng vôi bón 150-200kg, phân chuồng 1 tấn + 2 kg nấm Tricoderma
cho 1.000m2. Khoảng cách trồng 15 x 20 cm (3 đến 4 tép/bụi, tưới nước 1 đến 2
lần/ngày vào mùa nắng). Lượng phân vô cơ cho 1.000m2: Lân 20-30kg, DAP 25-30kg,
ure 35-40kg.
Sau thu hoạch lứa đầu bón thêm 1 tấn chuồng đã ủ oai + 1 kg nấm Tricoderma
cho1.000m2. Cần bổ sung các nguyên tố vi lượng cho rau, có thể dùng Polyfeed
19.19.19 có nhiều nguyên tố vi lượng quan trọng.
Sâu bệnh: Một số sâu bệnh chính trên rau má
Nhện đỏ: Tấn công trên đọt non, chích hút nhựa làm lá nhỏ và dày, cây phát triển kém.

Nhện đỏ còn là môi giới truyền bệnh virus. Phòng trị cắt và chôn vùi cây bị bệnh, đồng
thời kiểm tra mật số nhện, dùng dầu khoáng SK 99 liều lượng pha 20-25cc/bình 8 lít,
Saromite 57 EC liều lượng 8-10cc/bình 8 lít, phun 4 bình/1.000m2.
Sâu ăn tạp: cắn phá lá, thường xuất hiện mùa nắng, phòng trị bằng thuốc Biocin
8000SC, Sapen Alpha, SecSaigon 25EC.
Gỉ sắt: Lúc đầu vết bệnh có màu nâu tím sau chuyển màu vàng liên kết nhau nằm ở
mặt dưới lá. Phòng trị: bằng các loại thuốc Carbenzim, nhóm có Mancozeb như Mexyl
MZ 72WP, Dipomate 80WP, liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Bệnh đốm lá: xuất hiện những đốm màu nâu đỏ đều trên mặt lá, sau đó vết bệnh khô
có màu xám, viền ngoài màu nâu, lây lan mạnh ra xung quanh. Phòng trị: vệ sinh đồng
ruộng, chôn vùi những lá bị bệnh, bón phân cân đối, không sử dụng phân bón qua lá
lúc rau bị bệnh. Luân phiên sử dụng 3 loại: Alpine 80WDG – Mexyl MZ 72WP –
Copforce Blue 51WP cho hiệu quả phòng trừ rất tốt. Bà con sử dụng đúng theo hướng
dẫn và đảm bảo thời gian cách ly khi sử dụng thuốc BVTV cho rau.
4. KỸ THUẬT TRỒNG SEN LẤY HẠT
Cây sen lấy hạt, tên khoa học: Nemlumbo nucifera
Guerin. Hầu hết các bộ phận của cây sen đều sử dụng, hoa
làm cảnh, hạt để ăn (làm mức, nấu chè) làm thuốc, ngó
sen làm rau có tính an thần, tim sen dùng làm trà, lá sen
dùng trà, lá sen dùng để gói. Cây sen được trồng nhiều
nơi. Chúng sống được ở các loại đất trũng (trừ các vùng
khả năng trong mùa nắng bị nhiễm mặn). Tuy nhiên, khi
trồng thâm canh, ruộ̣ng trồng cần được gia bờ bao hoàn
chỉnh để khống chế, giữ được mức nước trong ruộng theo
yêu cầu kỹ thuật của từng giai đoạn sinh trưởng phát triển
của cây.
Đất trồng sen cần cày bừa kỹ, mặt ruộng phải bằng
phẳng để dễ thâm canh.
Khi trồng sen cần chú ý các biện pháp kỹ thuật sau:
Chọn giống, cách trồng:

Cây sen hiện có 2 giống phổ biến: Giống dùng lấy hạt có kích thước thân, lá, hoa, gương to
hơn, đặc biệt hoa có màu hồng sậm, dân gian thường gọi là “Sen Trâu”. Giống trồng lá ngó
ngược lại, thân, lá, hoa, gương nhỏ hơn, hoa có màu hồng phấn. Do vậy, khi trồng cần chú ý
chọn đúng giống.
Cây sen giống đem trồng phải đạt tiêu chuẩn: Có 2 lá mập, khỏe, đường kính lá lớn của cây
giống là 30cm, không để cây bị dập lá hay gãy cọng hoặc gãy thân ngầm (ngó). Các chỉ tiêu này
liên quan chặt chẻ đến tỷ lệ sống của cây khi trồng. Nếu cây giống được chọn lọc và bảo quản tốt
khi trồng tỷ lệ sống cao.
Cách trồng: Cây con sau khi nhổ từ ruộng sen phải được giữ nơi mát, tránh ánh sáng mặt trời bức
xạ làm cho cây khô héo, đem cấy ra ruộng đã cày bừa xong cần nhẹ nhàng để tránh gãy ngó
(thân ngầm). Không nên trồng quá sâu cây lâu bén. Không nên quá nông cây dễ bị nổi. Khoảng
cách trồng 2m x 2m/cây. Mật độ 2.500 cây/ha.
Cần khống chế mực nước trong ruộng 20-25 cm trong thời gian mới trồng, giúp cây mau bén rễ.
Sau khoảng 10 ngày sau cần theo dõi và trồng dặm liền. Sau đó, cho mực nước tăng dần theo sự
sinh trưởng của cây. Mực nước trong ruộng cần khống chế ở mức 40-50cm là tốt nhất.
Bón phân
Số lượng phân bón sử dụng cho 1 ha/vu:
-Super lân: 400kg, DAP: 500kg, NPK 16-16-8: 300kg, chia làm các lần bón như sau:
-Lót trước khi trồng (lúc làm đất): 400kg Super lân
-Thúc lần 1: 15 NST (ngày sau trồng), 50kg DAP
-Thúc lần 2: 30 NST, 50kg DAP
-Thúc lần 3: 45 NST, 50kg DAP
- Thúc lần 4: 60 NST, 50kg DAP
-Thúc lần 5: 75 NST, 50kg DAP + 50kg NPK
Các lần sau cứ 15 ngày bón 50kg NPK +50kg DAP cho đến hết 300kg DAP + 300kg NPK
Chú ý: Cần thay nước trước khi bón phân và khống nước ở mức tốt nhất.
Sâu bệnh:
Trong giai đoạn đầu trước và chuẩn bị cho hoa cây sen dễ bị nhện đỏ, và bọ trỉ gây hại. Chúng
thường bám trên cuống lá, hoa chích hút làm lá nhăn, teo lại, nếu bị nặng chúng làm khô lá, hoa
hạn chế sinh trưởng cũng như năng suất. Nên cần xử lý bằng thuốc hóa học, có thể dùng Trebon

pha với nồng độ 20cc/bình/8lít phun phía dưới lá, bông.
Bên cạnh đó, cây sen thường bị sâu xanh và một số loại sâu ăn tạp khác phá hại nặng trên lá.
Chúng thường đẻ trứng theo từng ổ, sâu non mới nở ra tập trung trên 1 – 2 lá ăn phần thĩa lá phía
dưới rất dễ nhận diện trong quá trình thu hoạch trái chúng ta có thể giết chúng bằng tay. Nếu sâu
ăn lá phát sinh nhiều thì xử lý bằng thuốc hóa học như Sherpa. Decis lượng dùng 10cc/bình/8 lít.
Khi cây đã ra hoa vào giai đoạn thu hoạch cần hạn chế sử dụng thuốc.
Thu hoạch:
Khi sen già trên đỉnh hạt xuất hiện màu đen, ở cuống của gương sen có màu hồng thì thu hoạch
được. Nên thu hoạch 2 ngày/lần để hạn chế hái sót tạo sen quá lứa khó chế biến vì sen già rất
nhanh.
Khi thu hoạch trái thì kết hợp loại bỏ lá ở ngay cùng vị trí cuống, bông (cây sen có đặc tính từ
mắt ở thân ngầm cây sẽ cho 1 cuống mang lá và một cuống mang bông) để giúp cây phát triển
tiếp vì lá này sau khi đã thu gương nó trở nên vô hiệu. Nếu để chúng phát triển tiếp tạo sự cạnh
tranh ánh sáng, dinh dưỡng với các lá khác nhất là các nơi phát triển ảnh hưởng lớn đến năng
suất sau này.
5. KỸ THUẬT TRỒNG CÂY HÚNG QUẾ
Hương vị húng quế được thể hiện trên lá, thân,
ngọn, hoa. Trong húng quế, người ta có thể chiết
xuất được từ 0,4-0,8% tinh dầu màu vàng nhạt,
thơm nhẹ.
Đặc tính kỹ thực vật:
1. Rễ: Rễ húng quế phát triển từ rễ phôi,
hướng ăn sâu xuống lớp đất mặt sâu 18-
25cm, ngoài ra còn rễ cấp 2, cấp 3 tạo
thành bộ rễ bám chặt vào đất giữ cho cây
khỏi đổ và hút nước, thức ăn từ trong đất để nuôi cây.
2. Thân: Thời kỳ mọc và thời kì cây con, thân phát triển châm, đến khi có mầm
nhánh, thân phát triển mạnh. Thân cây húng quế thường cao từ 40-60cm;
trênthân có mặt đốt là những điểm xuất phát của các mầm nhánh, mỗi mắt đốt
có hai lá mọc đối.

3. Lá: lá hình thoi, có cuống dài. Lá mọc đối xứng trên cùng mặt lá, gân lá hình
mạng lưới lông chim, mớp lá nhẵn.
4. Hoa-quả: Cuống hoa nằm ở phần ngọn của thân và nhánh. Hoa mọc thành
chùm, mỗi chùm có từ 3-6 hoa, cánh hoa màu tím hoa cà, nhị và nhuỵ hoa dài
hơn cánh. Hoa nở lần lượt từ dưới lên trên. Sau khi được thụ phấn, cánh hoa to
dần, quả được hình thành, kết hạt, già và chín. Quả khô tách ra, hạt rơi xuống
đất cũng có khả năng tự mọc nhưng tỉ lệ mọc rất thấp.
Kỹ thuật gieo trồng:
Chọn đất, làm đất, bón phân:
Chọn nơi gieo ươm gần nhà, thuận tiện co việc đi lại, chăm sóc và thu hoạch.
Đất gieo trồng cần được cuốc sớm, phơi ải, đập nhỏ (nhất là đối với đất dùng để ươm
hạt) vì hạt hứng quế rất nhỏ (như hạt rau rền)
Lượng phân bón lót từ 0,5-1kg phân chuống hoai mục cho 1m2 trộn thật đều với đất
trồng và tạo cho độ ẩm đất thích hợp khi gieo hạt hoặc trồng cây.
Kỹ thuật gieo, ươm và trồng cây
Thời vụ: Thời vụ thích hợp để gieo hạt là vụ xuân. Sau tiết lập xuân (4-2) gieo hạt để có
cây con trồng tháng 3 đầu tháng 4 rau húng sẽ phát triển mạnh trong vụ hè và vụ thu.
Kỹ thuật gieo trồng
Gieo hạt: Có thể lấy hạt đã chín trên cây đem phơi 1-2 nắng nhẹ để nguội vào chai lọ
sau 5-7 ngày đem xử lý và gieo. Khi gieo, hạt giống được trộn đều với đất bột (một
phần hạt giống 50-60 phần đất bột). có thể gieo vãi, giơ hàng hoặc gieo hốc. Gieo
xong, phủ một lớp rơm rạ mỏng để khi tưới đỡ bị nén đất và giữ được độ ẩm đất cho
hạt mau nứt nang, mọc mầm. Khi hạt đã mọc mầm cần nhẹ nhàng lấy hết rơm rạ ra.
Trường hợp gieo vãi, khi cây con có từ 4-6 lá thật là có thể tỉa cây đem trồng được.
nếu số lượng hạt giống có quá ít, ta có thể gieo ươm vào giành, sọt hoặc khay để dễ
bảo quản, dễ chăm sóc.
Trồng cây: Khi cây con có từ 4-6 lá thật là đủ tiêu chuẩn bầu cây ra ngôi. Hố để trồng
cây phải được đào rộng hơn bầu từ 0,1-0,3 cm. Mỗi hố được bón lớt từ 0,3-0,4kg phân
chuồng đã hoai mục. Khi trồng, đặt bầu cây vùă ngang mặt đất, khoả đất bột đã trộn
phân vào gốc, lấy tay nhận nhẹ giữ cho cây đứng thẳng, không bị đổ, khoả đất một lần

nữa cho phẳng rồi tưới nhẹ xung quanh gốc bằng nước lã cho chặt gốc, tạo điều kiện
để cây mau bén rễ. Những ngày đầu (sau khi trồng) cần che nắng và giữ đủ ẩm cho
cây.
Chăm sóc
Nơi ươm hạt: Cần tưới nhẹ, chủ yếu là tưới thấm giữ độ ẩm. Cần che đậy khi nắng to
và mưa to. Trước khi bầu cây ra ngôi từ 5-7 ngày nên tưới một lần bằng nước phân
hoặc nước giải pha loãng. Sau khi tưới nước phân xong cần tưới lại nước lã cho sạch
cây, cây không bị chày lá, cháy ngọn, thấnạch húng phát triển thuận lợi.
Thường xuyên theo dõi, phát hiện các loại sâu cắn cây (Sâu xám, dế dũi, ốc sên); các
loại sâu ăn lá, cắn ngọn (sâu róm, sâu đo, sâu xanh )
Thu hoạch:
Thường sau trồng 30-45 ngày có thể thu hoạch được. Dùng liềm cắt cành, nếu cần
lượng ít, nên cắt tỉa cành già, để lại cành non. Nếu cần lượng nhiều có thể cắt hết cả
bụi cây, chỉ chừa phần gốc 5-7 cm rồi chăm sóc để cây tái sinh, thu hoạch lần khác.
6. KỸ THUẬT TRỒNG RAU DIẾP CÁ
Cây diếp cá mọc tự nhiên ở nhiều nơi, thường
mọc thành từng đám ven sông suối, ao hồ, kênh
rạch, bờ ruộng Diếp cá là loại cây chịu bóng và
ưa ẩm
Cách trồng:
Cây sinh trưởng mạnh từ mùa xuân đến đầu mùa đông ở phía Bắc và mùa khô ở các
tỉnh phía Nam.
Từ một cây diếp cá ban đầu, sau 1 - 2 năm có thể phát triển thành từng đám, bởi ngoài
phát triển từ hạt, diếp cá có khả năng tái sinh chồi mạnh từ thân rễ.
Thời vụ trồng tốt nhất là vào mùa xuân (tháng 2 - 4). Trồng bằng cách giâm cành hoặc
nhổ, tách gốc cây lấy những cây con đem trồng.
Đất trồng làm kỹ, tơi nhỏ, sau đó lên luống rộng 60 - 70 cm, cao 10 - 15 cm.
Cây trồng trên luống với khoảng cách 10 x 10 cm hoặc 15 x 15 cm.
Khi bứng cây để trồng chú ý không làm đứt dễ, vì diếp cá có bộ dễ ăn tương đối sâu.
Lúc mới trồng, cây cần được đảm bảo độ ẩm cao và làm sạch cỏ.

Từ khi cây ra hoa quả trở đi, diếp cá có thể phát triển thành bãi. Mùa cho nhiều lá từ
tháng 4 - 9.
Sau mỗi lần thu hái, cần bón thúc bằng phân chuồng hoai mục. Phân được rắc đều lên
mặt luống rồi rắc đất nhỏ lấp kín phân.
Rau diếp cá có thể thu hái trong nhiều năm.
7. KỸ THUẬT TRỒNG CÂY NGHỆ ĐEN
Bón phân lót: trước khi xới đất tác cuối, tiến hành rãi 2
tấn phân hữu cơ, toàn bộ Super lân và 5 kg Kali đều
khắp mặt ruộng rồi xới trộn cho đều, sau đó lên líp.
Khoảng cách và mật độ trồng: có thể áp dụng một trong
các khoảng cách trồng như sau: 40 x 30 cm; 50 x 20 cm
đối với liếp đôi, hoặc 70-20 cm đối với liếp đơn.
Nếu trồng theo khoảng cách 50-20 cm thì lên liếp rộng 1
m, trồng hai hàng dọc, hàng cách hàng 50 cm và cây
cách cây 20 cm.
Nếu trồng theo khoảng cách 40-30 cm thì mặt liếp rộng
1,2 m, trồng hàng cách hàng 40 cm, cây cách cây 30 cm.
Nếu trồng theo khoảng cách 70-20 cm thì liếp rộng 1,2 m, trồng hai hàng dọc theo liếp,
hàng cách hàng 70 cm, cây cách cây 20 cm.
Sau này khi vun gốc, tiến hành lấy đất ở giữa liếp đấp vào hai hàng nghệ hai bên, tạo
thành liếp đơn như giồng khoai lang.
8. KỸ THUẬT TRỒNG CÂY ĐẬU XANH (Phaseolas ayreus Roxb)
Nước ta trồng nhiều đậu xanh. Hạt đậu xanh
dùng làm thực phẩm. Bột đậu xanh rang chín
hoà với nước sôi, rất tiện lợi lại bổ dưỡng. Đậu
xanh được dùng để chứa bệnh tiểu đường,
bệnh phù thũng, giải nhiệt hạ khí. Đặc biệt hạt
đậu xanh còn co tác dụng giải độc do thuốc và
các chất kim loại. Trong hạt đậu xanh có chất
đạm, đường, béo và các vitamin.

Do có thời gian sinh trưởng ngắn 60-70 ngày
nên đậu xanh được sử dụng nhiều trong các
mô hình luân canh, xen canh ở miền Nam. Hiện nay năng suất đậu xanh trung bình còn
thấp, khoảng 0,5 - 0,7 tấn/ha, do các nguyên nhân sau:
Nhiều giống hiện trồng mặc dù năng suất khá nhưng do tính ổn định chưa cao, sức
biến động khá lớn giữa các miền, các vùng.
Khả năng kháng sâu bệnh của các giống đang trồng rất thấp.
Chưa có những dự báo về thời vụ gieo trồng thích hợp cho từng vùng và chưa xây
dựng quy trình kỹ thuật sản xuất cho từng vùng sinh thái.
Sau đây, xin giới thiệu một số giống đậu xanh triển vọng:
Trong vòng mười năm qua các cơ quan khoa học ở phía Nam đã chọn tạo cho sản xuất
một số giống đậu xanh ưu tú như sau:
Giống V 87-13, giống này có chiều cao trung bình từ 50-60cm, phân cành tốt, khả năng
tái tạo bộ lá mạnh, vì vậy, sau khi thu hoạch nếu cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, cây
đậu xanh sẽ cho thêm một đợt bông thứ hai với năng suất vào khoảng 50-60% đợt đầu.
Giống V 87-13 có hạt đóng kín hạt khá đều, tương đối lớn, dạng hình trống, màu xanh
thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng và xuất khẩu. Năng suất trung bình vào khoảng
1,2 tấn/ha. Đậu xanh tốt có thể đạt 2 tấn/ha. Khả năng chống chịu đối với bệnh khảm
vàng do virus và bệnh đốm lá ở mức trung bình.
Giống HL 89 E3, đây là giống có tính thích nghi rộng thích hợp trên nhiều chân đất, hạt
đóng khít, dạng hạt tròn hình oval, màu xanh mỡ rất đẹp. Trọng lượng 1.000 hạt
khoảng 50-53g. Đặc điểm của 2 giống V 87-13 và HL 89 E3 là hạt không bị chuyển màu
nếu gặp mưa trong quá trình thu hái.
Giống 91-15, Giống này cao cây trung bình 60-65cm phơi bông nên rất thuận tiện cho
công tác phòng trừ sâu hại, hạt có dạng hình trụ, màu xanh mỡ thích hợp với người
tiêu dùng. Tỉ lệ hái đợt đầu vào khoảng 70-80%. Giống chống chịu bệnh khảm vàng và
đốm lá ở mức trung bình.
Giống V 94-208 là giống có tiềm năng năng suất cao trung bình 1,4-1,5 tấn/ha, có
những nơi giống đã đạt 2,8 tấn/ha. Đặc điểm nổi bật của V 94-208 cạô-75cm, thân to,
lá rộng, bộng nằm trên mặt lá, hạt to, hình trụ màu xanh đậm, bóng. Hạt đóng không

khít trong trái, vì vậy, khi gặp điều kiện dinh dưỡng không tốt các hạt sẽ không đều. Hạt
giống V 94-208 rất dễ đổi màu khi thu hái gặp trời mưa hoặc phơi không kịp. Giống rất
dễ bị mọt, vì vậy cần lưu ý. Khả năng chống chịu bệnh khảm vàng của giống ở mức
trung bình-yếu cho nên chỉ gieo trồng trong vụ đông xuân.
Kỹ thuật canh tác đậu xanh cần chú ý những khâu sau:
1. Làm đất: cũng như nhiều cây họ đậu khác, đậu xanh cũng yêu cầu đất tơi xốp, vì
vậy, cần cày bừa kỹ, làm cỏ, cây không chịu ngập úng, vì vậy, tùy địa thế mà chọn biện
pháp làm đất như là đánh luống tỉa lan. Nhưng để tiện cho công tác làm ủ, công tác
gieo theo hàng thuận tiện hơn ở các chân đất không bằng phẳng Ở các chân đất
không bằng phẳng nên chú ý vấn đề rãnh thoát nước.
2. Gieo hạt: Hạt đậu xanh sẽ nẩy mầm khỏe nếu đảm bảo được 2 yếu tố nhiệt và ẩm.
Để đảm bảo đầy đủ nhiệt cho hạt nảy mầm, nhiều người dân Nam bộ có tập quán gieo
đón mưa. Nếu gặp năm mưa thuận thì năng suất rất cao, nhưng đa số các cơn mưa
đầu vụ rất thất thường, vì vậy, phải gieo đi gieo lại 2-3 lần rất tốn kém. Để giảm sự bấp
bênh, khâu gieo hạt, bà con cần chú ý phần dự báo thời tiết trên các phương tiện
truyền thông. Khi có dự báo mùa mưa bắt đầu vào giữa tháng 5 là thời vụ đảm bảo
nhất. Tập quán gieo trồng đậu xanh có khác nhau như gieo sạ theo hàng, gieo hốc. Tùy
theo phương thức gieo mà lượng giống thay đổi, thông thường là lượng giống sử dụng
ít nhất từ 15-16kg/ha.
3. Bón phân, chăm sóc: Lượng phân thích hợp cho 1 ha đối với đậu xanh trên vùng đất
đỏ Đông Nam bộ là 40N, 60 P2O5, 50 K2O, tương ứng với 90 kg urê, 300 kg super lân
và 90 kg Kali. Phân không nên bón một lần như nhiều bà con vẫn làm mà nên chia làm
3 lần. Lần thứ nhất: bón toàn bộ lân, 1/3 đạm, 1/3 kali. Lần thứ hai, bón thúc đợt 1 khi
cây được 3 lá thật. Lương phân bón là 1/3 urê và 1/3 kali. Do đậu xanh có số lá ít, vì
vậy nên kết hợp bón thúc đợt 1 với làm cỏ lần đầu. Lần thứ 3 sau khi gieo 25 ngày, ta
tiến hành bón thúc ra hoa toàn bộ lượng phân còn lại và kết hợp với làm cỏ, vun gốc.
4. Phòng trừ sâu bệnh: Đậu xanh là cây ký chủ của nhiều loại sâu bệnh. Sự dinh
dưỡng cố định của chúng làm cho cây suy yếu, không cho năng suất tối đa. Vì vậy,
muốn có năng suất cao, vấn đề kiểm soát sâu bệnh là tiên quyết.
Về bệnh: Theo kết quả điều tra về bịnh của Cục BVTV trên cây trồng, đã xác định 20

loài bịnh hại, trong đó 2 bịnh gây tổn thất lớn cho năng suất đậu xanh là bịnh bạc đầu,
bịnh hoa lá và đốm lá.
Bịnh khảm vàng, bệnh này gây hại trên đậu xanh tương đối toàn diện, cây đậu bịnh
khảm vàng thường ít hoa, quả chín muộn, số quả trên cây, số hạt trên quả và trọng
lượng hạt đều giảm. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thiệt hại tùy thuộc thời gian nhiễm
bịnh. Nếu cây nhiễm bịnh trước 7 tuần tuổi năng suất giảm từ 20-70%, nhưng sau 8
tuần thì không ảnh hưởng tới năng suất.
Phòng trừ bịnh khảm vàng: Biện pháp hữu hiệu là trồng giống kháng. Đối với những
giống có khả năng chống chịu tốt cũng phải được chọn lọc lại ít nhất là sau 4 vụ gieo
trồng. Khi trên ruộng xuất hiện cây bịnh, cần kịp thời nhổ bỏ, dùng thuốc diệt trừ.
Bịnh thứ hai là bịnh đốm lá do nấm Sercostora. Bịnh đốm lá được gây bởi hàng nấm,
hại tất cả các bộ phận trên mặt đất của cây và bịnh xuất hiện khá muộn. Xuất hiện khi
cây ở giai đoạn hình thành nụ nặng gần tới khi thu hoạch. Một số nghiên cứu cũng cho
thấy nếu hạn chế được nấm trên lá thì sẽ làm tăng năng suất 50-60%.
Biện pháp phòng trừ bịnh đốm lá: Nhiều phương pháp hiện được thử nghiệm trên bịnh
đốm lá được nhiều nước thực hiện cho thấy: Một số loại thuốc đã cho hiệu lực khá cao
như Dapronin, Pamistin, Alvin, Tilt Thời gian phun thuốc phòng bịnh là 20 - 30 đến 40
ngày sau gieo.
Về sâu hại trên đậu xanh thường gặp là giòi đục thân, chúng gây hại ở giai đoạn cây
con, cây bị hại nếu xẻ đôi thân phần gốc sẽ thấy giòi. Rải Furadan làm 2 đợt: đợt đầu
khi tiến hành gieo hạt và đợt 2 từ 5-7 ngày sau mọc. Ngoài ra cần phun thuốc diệt ruồi
đẻ trứng trên đợt cây non.
Thứ hai là sâu khoan, đây là loài ăn tạp, nó ăn lá hoa quả đậu xanh, ngài cái sâu khoan
thường đẻ trong 6 ngày liền, trứng nở sau 3-4 ngày, tùy thuộc vào nhiệt độ. Thời gian
sinh trưởng sâu non chừng 3 tuần, nó trải qua 6 tuổi. ảnh hưởng thuốc sâu rất mạnh
khi sâu ở độ tuổi 1-2 ngày. Khi sâu lớn, dường như kháng tất cả các loại thuốc. Sâu
non ban ngày núp dưới đất và ăn vào ban đêm, vì vậy, phun thuốc vào vào chiều tối
mới mang lại hiệu quả.
Thứ ba là sâu tơ. Sâu này gây hại lớn trong giai đoạn ra bông. Sâu non thường đục
chui vào bông, phá hại nhụy làm quả không đậu được. Trừ sâu tơ rất khó khăn vì

chúng nằm trong bông lại có lớp tơ bao bên ngoài làm cho thuốc khó tiếp xúc. Vì vậy,
trong thời gian cây chuẩn bị ra bông, cần thường xuyên quan sát và phun thuốc phòng
ngừa. Phương pháp phòng trừ hữu hiệu nhất hiện nay là dùng bẫy pheromon trên diện
rộng.
Cách đặt hom giống: đào hốc sâu 10 cm, bằm đất dưới hốc thật nhuyễn, rãi Basudin
xuống hốc 2 kg/1.000 m2, đặt củ nghệ xuống đè cho tiếp xúc với đất rồi phũ lên một lớp
phân hữu cơ 5-7 cm, dùng thùng vòi búp sen tưới đẩm rồi phũ lên một lớp rơm dầy giữ
ẩm
Chăm sóc
Tưới nước: tưới 2 lần/ngày bằng thùng vòi búp sen đều đặn,
Bón phân: tổng lượng phân cần dùng cho 1.000 m2: Urea 50 kg, Super lân 100 kg (bón
lót toàn bộ), Kali 10 kg (bón lót 5 kg).
Khi nghệ lên cây khoảng 30% thì pha một muỗng canh ure vào thùng 20 lít tưới. Tưới
2-3 lần mỗi lần cách nhau 4-5 ngày.
Khi thấy bụi nghệ có từ 2-3 cây con tiến hành bón thúc 7 ngày một lần với liều lượng 5
kg ure rãi cách gốc 10 cm. Mỗi tháng kết hợp làm cỏ và xới xung quanh chống lèn đất.
Kali còn lại bón rãi vào 90 ngày sau khi trồng.
Vun gốc: tiến hành vun gốc khi cây có 3-4 cây con/bụi, bỏ phân hữu cơ thẳng vào gốc
cao khoảng 5 cm. Sau đó đấp lên một lớp đất mỏng khoảng 1-2 cm. Biện pháp tốt nhất
là trộn 50% đất và 50% phân hữu cơ để vun gốc. Khi thấy củ non lồi lên mặt đất thì vun
gốc tiếp tục.
Làm cỏ xới gốc: cần làm sạch cỏ dại, kết hợp xới xáo làm cho đất thoáng xốp tránh
được hiện tượng lèn đất
Trồng xen: việc trồng xen trên ruộng nghệ vào mùa khô có ý nghĩa rất lớn. Ngoài việc
làm tăng thu nhập nó còn giúp giữ ẩm, che mát và thúc bách chúng ta tưới nước cho
nghệ
Cây trồng xen được chọn là điều đem lại hiệu quả kinh tế rất cao
9. KỸ THUẬT TRỒNG NẤM BÀO NGƯ
Nấm bào ngư (Pleurotus spp) là loại thức ăn ngon,
là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng khá cao, cung

cấp một lượng đáng kể chất đạm, đường bột, nhiều
vitamin và khoáng chất, đồng thời là dược liệu quí
giá trong việc duy trì, bảo vệ sức khỏe phòng chống
nhiều bệnh kể cả ung thư, ung bướu và cũng là
nguồn hàng xuất khẩu có giá trị.
Kỹ thuật trồng nấm
Nguyên liệu:
Nguyên liệu chính làm môi trường nuôi nấm là các loại phế thải nông nghiệp giàu chất cenluloz
như: rơm rạ và mùn cưa thuộc loại gỗ mềm và không có nhựa ngăn meo nấm phát triển như gỗ
cao su, xoài, so đũa, thân bắp, cùi bắp…
Nguyên liệu sau khi qua xử lý, ủ chín, phối trộn chất dinh dưỡng, vô bịch, hấp tiệt trùng, cấy
meo giống. Sau 20 – 25 ngày tơ nấm mọc đầy bịch phôi, lúc này bịch phôi được đem ra nhà nấm
chăm sóc thu hoạch quả thể.
Chuẩn bị nhà nấm:
Vật liệu: làm nhà nấm bằng tre, lá , lưới, ny lon. Có thể tận dụng sàn nhà để treo bịch phôi nấm,
xung quanh nhà trồng nấm có thể bao lưới cước hoặc nylon để giữ ẩm độ, hạn chế côn trùng giúp
cho nấm phát triển tốt.
Nhà trồng nấm phải sạch sẽ, cao ráo, thoáng khí, thoát nước và giữ được độ ẩm. Các bịch phôi
nấm có thể xếp đặt trên các bệ (bằng tre hay sắt) hoặc treo dưới các thanh ngang, mỗi hàng cách
nhau 20 – 30cm, mỗi dây cách nhau 20 – 25cm, mỗi dây có thể treo từ 6 – 10 bịch phôi. Tốt nhất
bố trí dàn treo theo từng khối một, mỗi khối rộng từ 1,4 - 1,6m, chiều dài tùy theo nhà trồng. Mỗi
khối chừa các lối đi để tiện chăm sóc và thu hái.
Trước khi đưa nấm vào nhà nuôi trồng ta cần khử trùng nhà nấm bằng vôi bột cứ 100gr vôi
bột/1m
2
rãi đều xung quanh nền nhà nấm.
Sau khi nhà nấm chuẩn bị xong ta tiến hành đưa bịch phôi nấm vào chăm sóc.
Đưa bịch phôi nấm vào nhà trồng và chăm sóc:
Chọn những bịch có sợi tơ nấm mọc trắng đều bịch, sau đó tiến hành tháo nút bông phía trên
miệng bịch phôi hoặc dùng dao lam rạch từ 3 – 4 đường dài khoảng 3 – 4cm trên bịch phôi, sau

khi rạch bịch để ngày hôm sau mới phun tưới nước.
Nước tưới nấm phải sạch, không phèn, không chứa chất độc hại nấm và nên tưới bằng bình phun
sương hay vòi phun thật mịn. Tưới nước nhiều hay ít tùy theo ẩm độ không khí của nhà nuôi
nấm. Bình quân 2 lần/ngày, nếu khô thì từ 3 – 4lần/ngày.
Sao cho độ ẩm môi trường không khí nơi trồng nấm đạt 85-90%. Nhiệt độ thích hợp 25-32
oC
,
nhiệt độ tối ưu 27-28
oC
. Ánh sáng khuyếch tán (có thể đọc sách được) đây là điều kiện thích hợp
nhất để tạo quả thể nấm phát triển.
Thu hoạch nấm
Sau khi rạch bịch phôi nấm khoảng từ 7 – 10 ngày nấm bắt đầu kết quả thể, xuất hiện nụ nấm
dạng phểu chuyển sang dạng lá lục bình, ta tiến hành thu hái nấm. Thường ta thu hoạch nấm vào
buổi sáng sớm, khi hái nấm nên hái hết cả cụm, không nên để sót lại phần chân nấm vì nó dễ gây
nhiễm, làm các lần thu hoạch kế tiếp sẽ không cho tai nấm tốt, năng suất giảm .
Sau khi thu hoạch nấm đợt 1 thì ngưng tưới 1-2 ngày. Nếu thấy bịch phôi xốp nhẹ thì có thể dồn
nén bịch lại, sau đó ta rạch thêm xung quanh bịch phôi 1-2 đường, mỗi đường dài khoảng 3-4cm
và tiếp tục chăm sóc tưới nước giống như ban đầu để thu hoạch nấm tiếp các đợt sau.
Mỗi bịch có thể thu hoạch 4 -5 đợt, kết thúc mỗi đợt nuôi trồng trong khoảng 2 - 2,5 tháng.
Một bịch phôi nấm nặng 1 – 1,2kg sẽ cho khoảng 500 – 700gr nấm tươi trong suốt thời gian thu
hoạch.
Những lưu ý khi nuôi trồng nấm bào ngư
Tính nhạy cảm với môi trường :
Nấm bào ngư là một trong những loài nấm nhạy cảm với môi trường nhất. Ngoài yếu tố nhiệt độ,
ẩm độ, ánh sáng, pH, nồng độ CO2 , nấm còn đặc biệt nhạy cảm với các tác nhân gây ô nhiễm
môi trường, như hoá chất, thuốc trừ sâu, các kim loại nặng cả trong nguyên liệu cũng như
trong không khí môi trường. Tai nấm thường biến dạng hoặc ngưng tạo quả thể. Do đó, cần kiểm
tra điều kiện nuôi trồng hoặc nguồn nguyên liệu khi nấm có biểu hiện không bình thường.
Dị ứng do bào tử nấm bào ngư :

Trong các loài nấm trồng, thì đặc biệt thận trọng với bào tử nấm bào ngư. Nhiều người nhạy cảm
với loại bào tử này, sẽ biểu hiện ngay trong 08 giờ hoặc 4 – 6 tuần (ở trường hợp khác). Bào tử
nấm xâm nhập vào cuống phổi, gây triệu chứng khó thở, mệt mỏi, nhiều vết đỏ ở tay, nhức đầu,
ho và sốt (có thể đến 390C). Bệnh kéo dài vài ngày rồi dứt, nhưng có thể tái đi tái lại, khi tiếp
xúc lại với nguồn bệnh.
Để tránh hít phải bào tử nấm (nấm bào ngư, cũng như các loài nấm khác), nên đeo khẩu trang khi
vào khu vực nhà trồng, nhất là vào sáng sớm khi trời còn lạnh.
Những bệnh thường gặp khi nuôi trồng nấm bào ngư
Nấm bào ngư có sức sống rất mạnh. Tuy nhiên, nấm lại rất nhạy cảm với môi trường, như nhiệt
độ lên xuống đột ngột cũng có thể làm nấm ngừng tăng trưởng, không mọc hoặc héo nhũn. Nước
tưới bị phèn, bị mặn cũng làm nấm không phát triển được. Quá trình cung cấp nước cho nấm,
nếu giọt tưới lớn sẽ dễ làm chết các tai nấm đang phát triển. Tai nấm trong trường hợp này, nhũn
ra và rũ xuống.
Đối với bệnh nhiễm, thì có hai bệnh chủ yếu : Mốc xanh (Trichoderma.sp) và ấu trùng ruồi.
Trichoderma.sp là loài mốc phát triển trên các cơ chất có chất gỗ, làm bịch nấm thâm đen lại,
ảnh hưởng đến năng suất nấm. Để hạn chế sự phát triển của loài mốc này, cần khử trùng tốt
nguyên liệu trồng nấm hoặc nâng pH môi trường.
Trường hợp ấu trùng ruồi (dòi), chúng chui vào các khe cửa phiến nấm, cắn phá làm hư hại nấm.
Tốc độ sinh sản chúng lại rất nhanh, nên thiệt hại không phải nhỏ. Nhà trồng vì vậy nên làm lưới
chắn, để cho chúng không lọt vào. Tuy nhiên, vấn đề chính là vệ sinh nhà trại, không để ổ dịch.
Nấm bào ngư thuộc nhóm nấm phá hoại gỗ, sống chủ yếu hoại sinh (ngoại trừ một vài loài ký
sinh, như P.ostrcatus, P.erygii). Nhiều nghiên cứu cho thấy việc bổ sung bột đậu nành, bột lông
vũ cũng giúp nấm bào ngư mọc tốt hơn.
Cách bảo quản chế biến nấm sau thu hoạch
Sự biến đổi nấm sau thu hoạch:
Mất nước: nấm thường chứa nhiều nước (85-95%) và lượng nước cần thiết này mất rất nhanh do
hô hấp và bốc hơi.
Sự hóa nâu: do ở nấm có men (enzym) polyphenoloxidaz xúc tác phản ứng oxid hoá hợp chất
phenolic không màu của nấm thành quinon tạo màu đỏ đến nâu đỏ. Tuy nhiên quá trình này diễn
ra rất chậm, khi nấm hoá nâu sẽ làm giảm giá trị thương phẩm.

Sự thối nhũn: thường nấm có ẩm độ cao hoặc nấm do bị nhiễm trùng, nấm mốc. Nếu nấm nhiễm
nấm mốc sẽ tích lũy độc tố và biến chất sản phẩm.
Bảo quản nấm:
Sau thu hoạch, để đưa nấm đến tay người tiêu dùng cần một thời gian bảo quản thích hợp.
Đối với nấm tươi: giữ được thời gian ngắn bằng cách làm chậm sự phát triển, giảm cường độ hô
hấp, chống thoát nước và bảo quản ở nhiệt độ thấp (ở 10 – 150C có thể giữ 4 – 5 ngày).
Đối với nấm khô: làm khô đến mức tối đa (còn 10 – 12%) bằng cách phơi, sấy. Sau đó bảo quản
trong túi kín để tránh hút ẩm trở lại.
Đối với dạng sơ chế: nấm muối (nồng độ muối 20 – 22%) thời gian nấm được bảo quản vài
tháng; nấm đóng hộp qua chế biến gần như thành phẩm và đựơc đưa vào bao bì đóng hộp kín lại.
10.KỸ THUẬT TRỒNG CÂY TÍA TÔ
Tía tô là cây thân thảo, mọc hằng năm, đứng thẳng. Thân
vuông, có rãnh dọc và có lông. Lá mọc đối, có cuống dài,
phiến là hình trứng, đầu nhọn. Hoa trắng hay tím.
Kỹ thuật trồng
Đất trồng
Chọn chân đất cao, tơi xốp, thoát nước tốt.
Đất được cày bừa kỹ, dọn sạch cỏ và lên liếp.
Mùa nắng : Làm liếp rộng 1- 1.2m, nếu đất cát pha có thể làm liếp chìm để giữ ẩm.
Mùa mưa : Làm liếp rộng 0.8 – 1m, cao 20 cm.
Cách gieo trồng
Có 2 cách : gieo hạt và giâm cành
Liếp gieo hạt được cày bừa kỹ (đất nhuyễn), bón lót phân chuồng hoai. trước khi gieo nên rải
Basudin và sau khi gieo phủ rơm. Khi hạt nẩy mầm phải giở rơm để cây mọc cứng.
Khi cây có 5 – 6 lá thật (30 – 35 ngày sau gieo) là đem trồng .
Thời vụ gieo trồng
Tía tô có thể trồng được quanh năm.
Mật độ, khoảng cách
Cây cách cây, hàng cách hàng : 15 x 15 cm.
Mật độ : 450.000 cây/ha

Bón phân (tính cho 1.000 m2)
Bón lót: 1 tấn phân chuồng + 10 kg super lân.
Bón thúc:
10 NST (ngày sau trồng): Hoà phân urê với nồng độ 20g/10 lít nước, kết hợp với bánh dầu, phân
chuồng. 10 ngày tưới/lần.
20 NST: Hoà phân urê để tưới như trên.
Chăm sóc:
Thường xuyên làm cỏ, xới xáo, vun gốc cho cây sinh trưởng.
Phòng trừ sâu bệnh
Bệnh chết cây và bệnh gỉ sắt:
Giai đoạn cây con có 4 – 5 lá thật thường bị bệnh chết rạp cây con do nấm Fusarium sp. gây nên.
Phòng trừ bằng cách xử lý đất bằng vôi trước khi trồng. Vào mùa mưa nên làm chân liếp cao,
trồng thưa, thu gom tàn dư cây trồng đem huỷ. Không trồng tía tô trên cùng một chân đất.
Sâu ăn lá: Sử dụng các loại thuốc như Sherpe, Polytrin, Cyper,… để phun phòng trị.
Sử dụng Tất cả các loại thuốc nên tuân theo nguyên tắc “4 đúng”. Tía tô là rau gia vị nên cẩn
thận trong việc sử dụng nông dược. Trước khi thu hoạch 2 tuần tuyệt đối không sử dụng bất cứ
loại thuốc nào.
Thu hoạch
Sau khi trồng 40 ngày là có thể thu hoạch.
Thu hoạch đợt đầu bằng cách cắt chừa gốc 10 cm, sau đó tiếp tục chăm sóc cho cây tái sinh 15 -
20 ngày thu 1 lần.
Sau mỗi đợt thu tiến hành làm cỏ, vun gốc kết hợp với tưới nước phân như trên.
Khoảng 2 đợt bón bổ sung bánh dầu, phân chuồng + 4 kg urê

×