Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Sự vận động cảm hứng nhân đạo trong thơ chứ hán nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.75 KB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
BÙI NGUYỄN SƠN

SỰ VẬN ÐỘNG CẢM HỨNG NHÂN ÐẠO
TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
BÙI NGUYỄN SƠN

SỰ VẬN ÐỘNG CẢM HỨNG NHÂN ÐẠO
TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. TRƯƠNG XUÂN TIẾU
NGHỆ AN - 2014
MỤC LỤC
Trang
M UỞĐẦ 8
1. Lí do ch n t iọ đề à 8
2. L ch s v n ị ử ấ đề 9
3. M c ích, yêu c uụ đ ầ 15
4. i t ng v ph m vi nghiên c uĐố ượ à ạ ứ 15
5. Ph ng pháp nghiên c uươ ứ 16
6. óng góp c a lu n v nĐ ủ ậ ă 16
7. C u trúc lu n v nấ ậ ă 17
Ch ng 1ươ


GI I THUY T V C M H NG NHÂN O VÀ C S NGHIÊN C UỚ Ế Ề Ả Ứ ĐẠ Ơ Ở Ứ
S V N NG C A C M H NG NHÂN OỰ Ậ ĐỘ Ủ Ả Ứ ĐẠ
TRONG TH CH HÁN NGUY N DUƠ Ữ Ễ 18
1.1. Gi i thuy t v khái ni m “s v n ng” v “c m h ng nhân o”ớ ế ề ệ ự ậ độ à ả ứ đạ
18
1.1.1. S v n ngự ậ độ 18
1.1.2. C m h ng nhân oả ứ đạ 18
1.2. V i nét v th ch Hán Nguy n Duà ề ơ ữ ễ 20
1.2.1. T p th “Thanh Hiên thi t p” (T p th c a Thanh Hiên) ậ ơ ậ ậ ơ ủ
20
1.2.2. T p th “Nam trung t p ngâm” (Các b i th ngâm khi ậ ơ ạ à ơ ở
ph ng Nam)ươ 21
1.2.3 .T p th “B c h nh t p l c” (ghi chép trong chuy n iậ ơ ắ à ạ ụ ế đ
sang ph ng B c)ươ ắ 22
1.3. C s nghiên c u s v n ng c a c m h ng nhân o trong th ơ ở ứ ự ậ độ ủ ả ứ đạ ơ
ch Hán Nguy n Duữ ễ 24
1.3.1. V th i i Nguy n Du sinh s ngề ờ đạ ễ ố 24
1.3.3. V b n thân cá nhân Nguy n Duề ả ễ 27
Ti u k t ể ế 31
Ch ng 2ươ
S V N NG C A C M H NG NHÂN O Ự Ậ ĐỘ Ủ Ả Ứ ĐẠ
TRONG TH CH HÁN NGUY N DUƠ Ữ Ễ 32
2.1. N i ni m riêngỗ ề 32
2.1.1. Bi c h ng (Bu n nh quê h ng)ố ươ ồ ớ ươ 33
2.1.2. ng niên i di n cách thiên nh ng (Tình c m b nĐồ đố ệ ưỡ ả ạ
bè) 36
2.1.3. Tam xuân tích b nh b n vô d c (Ba tháng b nh; nghèoệ ầ ượ ủ ệ
không thu c)ố 39
2.1.4. Lo n th nam nhi tu i ki m (Trai th i lo n nhìn thanhạ ế đố ế ờ ạ
g m m th n)ươ à ẹ 41

2.2. N i ni m th sỗ ề ế ự 46
2.2.1. C m th ng nh ng ki p ng i nh bé, b t h nhả ươ ữ ế ườ ỏ ấ ạ 47
2.2.2. Ng i ca, ng c m v i thân ph n ng i ph n ợ đồ ả ớ ậ ườ ụ ữ 52
2.2.3. Quý tr ng, cao nh ng nh th , nh ng nhân v t t iọ đề ữ à ơ ữ ậ à
danh trong l ch s Trung Qu cị ử ố 59
2.3. Thái phê phán, t cáo hi n th cđộ ố ệ ự 68
2.3.1. Phê phán, t cáo t ng l p quan l iố ầ ớ ạ 68
2.3.2. kích m t s nhân v t l ch s ph n di nĐả ộ ố ậ ị ử ả ệ 70
2.3.3. L n ti ng b o v , òi h i quy n l i cho con ng i ớ ế ả ệ đ ỏ ề ợ ườ 75
2.4. Ý ngh a c a s v n ng c m h ng nhân o trong th ch Hán ĩ ủ ự ậ độ ả ứ đạ ơ ữ
Nguy n Duễ 76
Ti u k tể ế 78
Ch ng 3ươ
NGH THU T TH HI N S V N NGỆ Ậ Ể Ệ Ự Ậ ĐỘ
C A C M H NG NHÂN O TRONG TH CH HÁNỦ Ả Ứ ĐẠ Ơ Ữ
NGUY N DUỄ 79
3.1. T o ra cu n nh t ký ghi chép b ng th sinh ngạ ố ậ ằ ơ độ 79
3.2. Kh c h a nhân v t b ng nh ng hình nh t ng ph n - i l pắ ọ ậ ằ ữ ả ươ ả đố ậ 86
3.3. Gi ng i u th ch Hán Nguy n Duọ đ ệ ơ ữ ễ 93
3.3.1. Gi ng i u c m thông, chia sọ đ ệ ả ẻ 94
3.3.2. Gi ng i u ng ng m , ng i caọ đ ệ ưỡ ộ ợ 98
3.3.3. Gi ng i u m a mai, châm bi mọ đ ệ ỉ ế 101
Ti u k tể ế 107
K T LU NẾ Ậ 108
TÀI LI U THAM KH OỆ Ả 111
6
7
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Khuynh hướng nhân đạo chủ nghĩa là một trong những khuynh

hướng chủ lưu của văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ
XIX. Bộ phận văn học có nội dung cao cả này đã thu hút hầu hết các tác giả
có tài năng và tâm huyết. Cùng với Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Du là một tác giả tiêu biểu nằm trong dòng chảy của
trào lưu nhân đạo giai đoạn này. Chủ nghĩa nhân đạo đã thấm nhuần trong sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Du, tập trung nhất ở 250 bài thơ chữ Hán và
Truyện Kiều.
1.2. Nguyễn Du (1765 - 1820) là đại thi hào của dân tộc và là danh
nhân văn hóa thế giới. Ông đã để lại một di sản quý báu cho văn học nước
nhà, trong đó có kiệt tác Truyện Kiều (với 3254 câu lục bát) và ba tập thơ
viết bằng chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành
tạp lục (với 250 bài thơ). Ba tập thơ này là tâm huyết, tài năng, là cái tôi trữ
tình gắn liền với ba chặng đường trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du.
Nhà thơ đã thể hiện một quan niệm sống, một cái nhìn đầy tinh thần nhân
đạo cao cả, để lại tiếng vang xa trong lòng hậu thế. Cùng với Truyện Kiều,
các thi tập chữ Hán của Nguyễn Du đã góp phần làm nên diện mạo thơ ca
trung đại và là nguồn tư liệu giúp chúng ta tìm hiểu thế giới nội tâm của tác
giả. Vì vậy, khi đánh giá về thơ chữ Hán Nguyễn Du, nhà nghiên cứu Mai
Quốc Liên đã viết: “Truyện Kiều là “diễn âm”, “lỡ tay” mà thành kiệt tác,
còn thơ chữ Hán mới đích là “sáng tác”, nên xem nó là phát ngôn viên chính
thức của Nguyễn Du” [21, 120].
1.3. Là cây bút lớn nhất của văn học Việt Nam trung đại, cho nên tác
phẩm của Nguyễn Du được đưa vào giảng dạy với thời lượng đáng kể ở các
8
cấp Trung học cơ sở, Trung học phổ thông và các trường Cao đẳng, Đại học.
Do đó, việc đi sâu khám phá sự vận động của cảm hứng nhân đạo trong thơ
chữ Hán Nguyễn Du là một việc làm có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu
và giảng dạy về tác gia này.
Trên đây là những lí do thôi thúc chúng tôi chọn đề tài Sự vận động của
cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán Nguyễn Du

2. Lịch sử vấn đề
Cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là vấn đề khoa học
đã được giới nghiên cứu nhìn nhận từ lâu và cho đến nay, nó vẫn đang là một
vấn đề đặc biệt được quan tâm. Chúng tôi xin điểm qua một số nhận định,
đánh giá tiêu biểu theo hai hướng sau:
2.1. Hướng nghiên cứu về cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du
Nói đến lịch sử nghiên cứu, phê bình thơ chữ Hán Nguyễn Du, trước
hết phải kể đến công trình Nguyễn Du - về tác gia và tác phẩm (tái bản lần thứ
4 - Nxb Giáo dục, năm 2003) của Trịnh Bá Đĩnh với sự cộng tác của Nguyễn
Hữu Sơn và Vũ Thanh (tuyển chọn và giới thiệu). Công trình gồm 1035 trang,
được chia làm 4 phần. Trong đó, ở Phần thứ nhất,Chân dung Nguyễn Du qua
thơ chữ Hán (từ trang 33 đến trang 131) có 7 bài viết bàn về thơ chữ Hán
Nguyễn Du.Ở các bài viết này, các tác giả đã có cái nhìn tổng quan về thơ chữ
Hán Nguyễn Du trên nhiều phương diện, trong đó cảm hứng nhân đạo là một
vấn đề cũng được đặt ra. Với bài viết Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ
chữ Hán, Hoài Thanh một mặt đã chỉ ra thái độ của Nguyễn Du đối với các
triều đại lần lượt thay thế nhau từ cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XIX, mặt
khác qua việc phân tích một số bài thơ, trong đó có bài Thái Bình mại ca giả,
Hoài Thanh đã cho chúng ta thấy: “Từ hình ảnh ông già mù đi hát rong, hát
đến sùi bọt mép và lúc đã xuống khỏi thuyền còn quay đầu lại ngỏ lời chúc
9
tụng, từ tất cả những cảnh cơ cực, Nguyễn Du rất thông cảm vì chính Nguyễn
Du cũng đã trải qua. Ngay trong bài này, cái nhìn rất ghê tởm của Nguyễn Du
đối với bọn “nhai xé thịt người ngọt xớt như đường” cũng gắn liền với một
cái nhìn rất đau xót đối với quần chúng lao khổ” [21, 40]. Cùng quan điểm
với Hoài Thanh, Xuân Diệu cũng đã có những nhận định, đánh giá rất sâu sắc
về tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, đặc biệt là hai bài Thái Bình mại ca giả
và Sở kiến hành: “Với hai bài thơ này, Nguyễn Du đã đặt ngón tay vào tận
trong vết thương lở loét của xã hội” [21, 52]. Theo Xuân Diệu, nếu Nguyễn

Du “không yêu thương con người đến cháy ruột cháy gan, thì không thể có
hơi văn bênh vực sự sống” đến như vậy. Sau này, trong bài viết Tâm sự của
Nguyễn Du qua thơ chữ Hán, Trương Chính cũng có điểm gặp gỡ, tương
đồng với Xuân Diệu khi cho rằng, điểm nổi bật của Nguyễn Du là sự gần gũi
với những người nghèo khổ, yếu đuối, bị áp bức, bị ô nhục trong xã hội cũ, và
có một cái nhìn hiện thực đối với giai cấp thống trị, “nếu không phải xuất phát
từ lòng cảm thông sâu sắc thì không thể nào có một cái nhìn như thế” [21,
93]. Cũng đi vào tìm hiểu thơ chữ Hán, nhưng Nguyễn Huệ Chi lại chú trọng
hơn đến thế giới nhân vật của Nguyễn Du. Sau khi trình bày những hiểu biết
của mình về con người, lí tưởng chính trị của Nguyễn Du, Nguyễn Huệ Chi đi
đến khẳng định: “Cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán Nguyễn Du sẽ
chuyển sang một cấp độ mới khi nhà thơ hướng ngòi bút vào một đối tượng
miêu tả khác: những con người có số phận cơ cực, hẩm hiu nhất trong cuộc
sống. Về phương diện này, thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng thống nhất với
Truyện Kiều và Văn chiêu hồn. Thống nhất trước hết là ở cảm quan hiện thực
của nhà thơ. Hễ cứ nói đến những kiếp người lầm than, lời thơ của Nguyễn
Du bao giờ cũng hàm chứa một nỗi bức xúc, làm người đọc không thể dửng
dưng trong khi đọc. Nguyễn Du không phải là người chỉ biết thu mình lại
trong những đau khổ cá nhân. Trên con đường gập ghềnh “bụi bay mờ mịt”
10
của đời ông, cõi lòng nhà thơ vẫn mở ra để đón lấy mọi niềm vui nỗi buồn
của con người và tạo vật quanh mình” [21, 65]. Khác vớitác giả những bài
viết trên, Trần Đình Sử không trải lòng mình rộng ra toàn thi tập chữ Hán, mà
ông chỉ dừng lại ở bài Độc Tiểu Thanh ký trong phạm vi giải thích, phiên dịch
và phân tích bài thơ. Theo ông: “Bài thơ còn có những điều chưa rõ, nhưng
tấm lòng thương người, tiếc tài, mong gặp được người đồng điệu thông cảm
là rất rõ. Tấm lòng ấy đương thời các bạn ông đã cảm phục và ngày nay cả
dân tộc, cả nhân loại đã hiểu ông” [21, 88]. Thiết nghĩ, những nhận định trên
của các tác giả là hoàn toàn đúng đắn khi đã chỉ ra được biểu hiện và ý nghĩa
của giá trị nhân đạo trong phần lớn những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du.

Nguyễn Lộc trong công trình Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII -
hết thế kỷ XIX cũng đã có bài viết giới thiệu về tác gia Nguyễn Du ở
Chương 7 của cuốn sách (từ trang 303 đến trang 333) với tiêu đề Thơ chữ
Hán Nguyễn Du và tâm sự của nhà thơ. Với một cái nhìn sắc sảo thể hiện
qua 30 trang viết, nhà nghiên cứu đi đến kết luận: “Nguyễn Du không phải
là nhà thơ chỉ biết đến số phận riêng của cá nhân mình, chỉ biết ngồi ngắm
cái bóng dưới chân mình, Nguyễn Du cũng không phải là nhà thơ chỉ quan
tâm đến triều đại này, triều đại khác, mà Nguyễn Du là nhà thơ biết đặt lòng
mình nơi những con người bất hạnh, nơi những con người đau khổ. Thơ chữ
Hán Nguyễn Du với Truyện Kiều là một. Có khác chăng là Truyện Kiều
giống như một dòng sông lớn, còn thơ chữ Hán của Nguyễn Du lại là những
con suối nhỏ, nhưng tất cả đều đổ vào đại dương mênh mông của chủ nghĩa
nhân đạo của nhà thơ” [45, 333].
Tuy không trực tiếp nói đến cảm hứng nhân đạo, nhưng ở bài viết Cảm
thức về Thăng Long trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, Đinh Thị Khang cũng đã
đề cao tấm lòng vì con người của đại thi hào: “Cũng như nhiều tác giả văn
học thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Du đặc biệt quan tâm đến số
11
phận đau khổ của người phụ nữ. Cùng với Đoạn trường tân thanh, thơ chữ
Hán Nguyễn Du mang nỗi niềm cảm thương cho những kiếp hồng nhan bạc
mệnh…. Mỗi cảnh ngộ riêng của phận hồng nhan, đều nhận được từ tấm lòng
thi nhân sự cảm thông chia sẻ” [30, 50]. Điều này một lần nữa cho chúng ta
thấy chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du luôn phảng phất trên mỗi câu thơ
chữ Hán của ông.
Với bài viết Con người thương thân - một biểu hiện độc đáo của ý
thức cá nhân trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nguyễn Thị Nương khẳng định:
“Nỗi thương thân của Nguyễn Du đâu chỉ nảy sinh từ cảnh ngộ riêng mà còn
bắt nguồn từ mối đồng cảm sâu xa của nhà thơ với mọi nỗi đau bao trùm thân
phận con người” [61, 150]. Chính “con người thương thân và những nghiệm
sinh đau đớn đã là một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên chiều sâu cho cái

tôi trữ tình trong thơ chữ Hán nói riêng và chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn
Du nói chung. Đây cũng là một bằng chứng đầy sức thuyết phục về sự xuất
hiện của con người cá nhân trong văn học trung đại” [61, 150].
2.2. Hướng nghiên cứu về sự vận động của cảm hứng nhân đạo
trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
Nói về sự vận động của cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du, Mai Quốc Liên trong bài viết Thơ chữ Hán của Nguyễn Du đã nhận định:
“Sau Thanh Hiên và Nam trung thì Bắc hành là một Thái Sơn trong sáng tác
của Nguyễn Du. Đó là một bất ngờ lớn, nhưng là một trùng khớp với những
tư tưởng nhân đạo lớn của Nguyễn Du trong Truyện Kiều” [21, 122]. Ở một
trang khác, ông viết: “cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa của Nguyễn Du không
phải chỉ là cảm hứng về một số phận riêng biệt, nó đồng thời cũng là cảm
hứng về thời đại, về nhân loại” [21, 128]. Và theo Mai Quốc Liên: “Từ chỗ
nhìn cuộc đời thấy nó tàn lụi, buồn chán, vô nghĩa, chỉ còn cách đi ở ẩn là
trong sạch, dần dần do lịch duyệt cuộc đời, do sách vở, nhất là do Đỗ Phủ,
12
Nguyễn Du đã nhìn đời một cách khác. Đó là một bước chuyển lớn. Giờ đây
Nguyễn Du vẫn buồn đau - thơ ca luôn nhạy cảm với nỗi đau khổ của con
người, huống nữa thời đại Nguyễn Du là một thời đại bi kịch. Nhưng cái nhìn
ấy, so với trước, đã mạnh khỏe hơn và chứa đầy những ý tưởng lớn” [21,
127].
Cùng nghiên cứu về cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
nhưng Đào Xuân Qúy đã nhìn nhận vấn đề trong sự vận động. Ở bài viết
Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán, Đào Xuân Qúy đã chỉ ra sự vận
động của cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du trong ba tập thơ một cách tương
đối rõ nét. Theo ông, nếu ở hai tập thơ đầu (Thanh Hiên thi tập, Nam trung
tạp ngâm) Nguyễn Du đã trực tiếp thổ lộ tâm trạng của mình với một niềm u
uất thê lương, một tiếng thở dài não ruột, thì trong Bắc hành tạp lục “Tinh
thần nhân đạo chủ nghĩa của tác giả, mà chúng ta đã từng được thấy ở Văn
chiêu hồn và ở Truyện Kiều, ở đây lại càng được phát triển rộng rãi, và biểu

hiện trên nhiều mặt, nhiều vẻ khác nhau. Nguyễn Du đặc biệt quan tâm đến
cảnh sống của những lớp người nghèo, của nhân dân lao động, nhắc đến họ,
giọng thơ của tác giả bao giờ cũng đượm tình thương yêu, trìu mến” [21,
117]. Có thể nói, nhận định của hai tác giả Mai Quốc Liên và Đào Xuân Qúy
là một sự gợi mở quý báu cho chúng tôi khi đi vào hướng nghiên cứu này.
Khi giới thiệu về sự nghiệp văn học của Nguyễn Du, ở mục Sáng tác
bằng chữ Hán, các soạn giả sách Ngữ văn 10, tập 2, Nxb Giáo dục, 2006 đã
trình bày một cách ngắn gọn: “Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư
tưởng, tình cảm, nhân cách của ông. Các bài thơ trong Thanh Hiên thi tập và
Nam trung tạp ngâm tuy biểu hiện một tâm trạng buồn đau, day dứt, nhưng đã
cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về xã hội của tác
giả. Trong Bắc hành tạp lục, những điểm đặc sắc của tư tưởng tình cảm
Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn” [47, 94]. Cụ thể: “Ca ngợi, đồng cảm
13
với các nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật phản diện; Phê
phán xã hội phong kiến chà đạp quyền sống con người; Cảm thông với những
thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt hủi” [tr.94].
Trong bài Sự vận động trong tư tưởng nghệ thuật Nguyễn Du qua
những bài thơ tự thuật in trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 5 (423), tháng
5, năm 2007, Nguyễn Thị Nương đã có cái nhìn khá tinh tế khi chỉ ra được sự
vận động của Nguyễn Du về mặt tư tưởng, nghệ thuật trong ba tập thơ Thanh
Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Theo Nguyễn Thị
Nương: “Nguyễn Du sáng tác thơ chữ Hán trước hết là để gửi gắm nỗi niềm
riêng. Cho nên, số lượng bài thơ, câu thơ có tính chất tự thuật trong các thi tập
của Nguyễn Du rất lớn… Những vần thơ tự thuật không chỉ phản ánh cách
Nguyễn Du hình dung về bản thân mình mà còn cho thấy quá trình vận động
trong tư tưởng nghệ thuật của một nghệ sĩ lớn. Qúa trình này tương ứng với
những biến động trên đường đời của tác giả. Đây cũng là một quy luật của thơ
ca thời trung đại. Chỉ có điều với Nguyễn Du, sự biến đổi ấy không phụ thuộc
vào những thăng trầm trên đường hoạn lộ mà chủ yếu bắt nguồn từ những trải

nghiệm nhân sinh” [60, 39]. Nguyễn Thị Nương đã nhìn thấy sự vận động ấy
theo một cấp độ từ thấp đến cao: nếu Thanh Hiên thi tập viết về những bi kịch
cá nhân, Nam trung tạp ngâm là nỗi thất vọng về chốn quan trường, thì Bắc
hành tạp lục là niềm trăn trở trước số phận con người và cũng là tập thơ thể
hiện chủ nghĩa nhân đạo cao cả của Nguyễn Du. Theo cảm nhận của chúng
tôi, so với các công trình, các bài viết trước đó, thì bài viết này của tác giả
Nguyễn Thị Nương sát thực hơn với đề tài mà chúng tôi đang triển khai.
Điểm lại lịch sử nghiên cứu về cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán
của Nguyễn Du, chúng tôi nhận thấy cảm hứng nhân đạo đã được nói đến khá
nhiều, còn sự vận động của cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du lại chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức. Nếu có, thì cũng
14
chỉ mới dừng lại ở việc khái quát, phân tích một số bài thơ đặc sắc, chứ chưa
được nhìn nhận ở mức độ mở rộng toàn thi tập. Do đó, ở luận văn này, chúng
tôi một mặt sẽ tiếp thu có chọn lọc những ý kiến của các tác giả đi trước, mặt
khác sẽ cố gắng trình bày một cách triệt để nhất sự vận động của cảm hứng
nhân đạo trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
3. Mục đích, yêu cầu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm hướng đến những mục đích sau:
- Làm rõ khái niệm cảm hứng nhân đạo và cơ sở nghiên cứu sự vận
động của cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
- Nêu lên những biểu hiện của cảm hứng nhân đạo trong ba tập thơ
Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Từ đó, chỉ ra sự
vận động của cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và ý nghĩa
của nó.
- Tìm hiểu nghệ thuật thể hiện sự vận động của cảm hứng nhân đạo trong
thơ chữ Hán, qua đó thấy được tài năng và nhân cách con người Nguyễn Du.
3.2. Yêu cầu
- Để đề tài phát huy được tác dụng và có ý nghĩa thực tiễn, trong quá

trình nghiên cứu, chúng tôi cố gắng trình bày một cách hệ thống về sự vận
động của cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
- Cảm hứng nhân đạo là một phương diện quan trọng của sáng tạo nghệ
thuật, chính vì thế cần hiểu chính xác khái niệm của nó; để từ đó đi sâu vào
tìm hiểu sự vận động của cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
một cách đúng đắn, kĩ càng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự vận động của cảm hứng nhân
đạo trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
15
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu sự vận động cảm hứng nhân đạo trong 250 bài thơ
chữ Hán của Nguyễn Du đã được phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ bằng Tiếng
Việt, in trong cuốn Nguyễn Du niên phổ và tác phẩm do Nguyễn Thạch Giang
và Trương Chính biên khảo; chú giải, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, năm
2001 để nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và yêu cầu của đề tài, chúng tôi sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê: Giúp thu thập và xử lí các tài liệu,
các văn bản có liên quan tới đề tài.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Nhằm phân tíchnhững biểu hiện và
sự vận động của cảm hứng nhân đạo qua các bài thơ, tập thơ. Từ đó, rút ra
những ý khái quát về giá trị nhân đạo mà tác phẩm mang lại.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Đối sánh từng nội dung của cảm
hứng nhân đạo giữa ba tập thơ để thấy được sự vận động của cảm hứng nhân
đạo trong toàn thi tập.
Ngoài ra, chúng tôi còn dựa trên nguyên tắc duy vật lịch sử, duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tức là đặt tác phẩm vào trong hoàn

cảnh lúc bấy giờ để thấy được đặc sắc của nó; hay nói cách khác là tác phẩm
đặt trong lịch đại, đồng đại để nghiên cứu nhằm nhìn nhận vấn đề một cách
đúng đắn.
6. Đóng góp của luận văn
- Với đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ cung cấp một cái nhìn đầy đủ hơn
về sự vận động của cảm hứng nhân đạo trong 250 bài thơ chữ Hán của
Nguyễn Du. Trên cơ sở đó thấy được sự phát triển, sự thay đổi và sự hoàn
thiện trong cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du; đi đến khẳng định, thơ chữ
Hán Nguyễn Du có tính nhân đạo sâu sắc, độc đáo.
16
- Kết quả thu được của luận văn sẽ góp phần vào việc tìm hiểu, nghiên
cứu về tác gia Nguyễn Du và có giá trị trong việc giảng dạy thơ chữ Hán của
nhà đại thi hào ở các trường phổ thông, cao đẳng, đại học chuyên nghiệp được
tốt hơn.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1. Giới thuyết về cảm hứng nhân đạo và cơ sở nghiên cứu sự
vận động của cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du.
Chương 2. Sự vận độngcủa cảm hứng nhân đạo trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du.
Chương 3. Nghệ thuật thể hiện sự vận động của cảm hứng nhân đạo
trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
17
Chương 1
GIỚI THUYẾT VỀ CẢM HỨNG NHÂN ĐẠO VÀ CƠ SỞ NGHIÊN CỨU
SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CẢM HỨNG NHÂN ĐẠO
TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
1.1. Giới thuyết về khái niệm “sự vận động” và “cảm hứng nhân đạo”

1.1.1. Sự vận động
Sách Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên), Nxb Đà Nẵng, 2008,
cắt nghĩa:
* Sự (Danh từ):
[1]. Việc, chuyện (nói khái quát): gây sự, muốnquên đi mọi sự. [2]. Từ
có tác dụng danh từ hóa (sự vật hóa) một hoạt động, một tính chất: sự sống,
sự đau đớn, sự thông cảm, sự cố gắng [62, 1085- 1086]. Theo cách cắt nghĩa
này, từ “sự” trong “sự vận động” được chúng tôi hiểu theo cách 2.
* Vận động (Động từ):
[1] (Hiện tượng). Thay đổi vị trí không ngừng của vật thể trong quan hệ
với những vật thể khác.[2]. Thay đổi tư thế, vị trí của thân thể hay bộ phận cơ
thể, về mặt có tác dụng giữ gìn và tăng cường sức khỏe: Chịu khó vận động
cho cơ thể khỏe mạnh.[3]. Di chuyển, thay đổi vị trí trong chiến đấu: lối đánh
vận động.[4]. Tuyên truyền, giải thích, thuyết phục người khác tự nguyện làm
việc gì: vận động nhân dân ủng hộ đồng bào lũ lụt, vận động tranh cử [62,
1365]. Theo cách cắt nghĩa này, từ “vận động” trong “sự vận động” được
chúng tôi hiểu theo cách 1.
1.1.2. Cảm hứng nhân đạo
Sách Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên), Nxb Đà Nẵng, 2008,
định nghĩa “cảm hứng” và “nhân đạo” như sau:
* Cảm hứng (Danh từ): Trạng thái tâm lí có cảm xúc và hết sức hứng
thú, tạo điều kiện để óc tưởng tượng, sáng tạo hoạt động có hiệu quả: khơi
nguồn cảm hứng [62, 139].
18
* Nhân đạo (Danh từ): đạo đức thể hiện ở sự thương yêu, quý trọng và
bảo vệ con người: một hành vi trái với nhân đạo. (Tính từ): có tính chất
thương yêu, quý trọng và vì con người: hiến máu nhân đạo, có lòng nhân
đạo, chính sách nhân đạo với tù binh [62, 879].
Dựa vào cách cắt nghĩa của các soạn giả trong Từ điển Tiếng Việt và
tham khảo một số ý kiến của các nhà nghiên cứu khác như Nguyễn Văn

Hạnh, Huỳnh Như Phương trong Lí luận văn học - vấn đề và suy nghĩ, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, chúng tôi đưa ra cách hiểu về cảm hứng nhân đạo như sau:
Cảm hứng nhân đạo là một nguồn cảm hứng xuyên suốt, chủ đạo được các tác
giả lấy làm cảm hứng sáng tạo cho tác phẩm của mình. Đây là một cảm hứng
được xây dựng trên tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả. Với cảm hứng này,
các tác giả trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ
XIX như: Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du,
…đã thể hiện được tấm lòng yêu thương, quý trọng con người và phê phán, tố
cáo hiện thực chà đạp lên con người.
Tóm lại, thiên nhiên, con người, tình yêu,… đều có thể trở thành nguồn
cảm hứng sáng tạo cho nghệ thuật. Cảm hứng là niềm say mê với lí tưởng, là
sự khởi nguồn cho mọi sáng tạo, khám phá trong văn học nói riêng và trong
nghệ thuật nói chung. Cùng với cảm hứng thiên nhiên, cảm hứng tình yêu,
cảm hứng tôn giáo, cảm hứng thế sự,…; thì cảm hứng nhân đạo là một trong
những cảm hứng chủ đạo góp phần làm nên diện mạo riêng cho nền văn học
nước nhà, cũng như mang lại thành công cho các tác giả, tác phẩm. Với thơ
chữ Hán, Nguyễn Du đã thể hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo của mình qua
từng câu thơ, bài thơ. Đặc biệt, cảm hứng nhân đạo ấy không đứng yên, mà
luôn luôn vận động, phát triển ngày một cao hơn, tinh tế hơn qua từng giai
đoạn sáng tác.
19
1.2. Vài nét về thơ chữ Hán Nguyễn Du
Cũng như một số tác giả nổi tiếng cùng thời như Hồ Xuân Hương,
Phạm Thái, Cao Bá Quát,… quá trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du
diễn ra ở cả thơ chữ Nôm lẫn thơ chữ Hán. Ở lĩnh vực nào Nguyễn Du cũng
khẳng định được vị trí tôn kính và phong cách nghệ thuật riêng trong đời sống
văn học dân tộc. Ở mảng thơ chữ Nôm, Nguyễn Du để lại cho hậu thế các tác
phẩm: Thác lời trai phường nón Tiên Điền gửi gái phường vải Trường Lưu,
Sinh tế Trường Lưu nhị nữ (Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu), Văn tế thập
loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và đỉnh cao là kiệt tác Đoạn trường tân

thanh (Truyện Kiều). Bên cạnh những tác phẩm viết bằng chữ Nôm, thơ chữ
Hán cũng giữ một vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du
và trong hành trình nhiều thế kỷ của thơ chữ Hán dân tộc.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du gồm 3 tập: Thanh Hiên thi tập, Nam trung
tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Số bài trong ba tập thơ hiện vẫn chưa được
thống nhất. Tác giả Bùi Hạnh Cẩn cho rằng có 192 bài, tác giả Duy Phi lại
cho rằng có 249 bài. Còn hai tác giả Nguyễn Thạch Giang và Trương Chính
thì nhận định cả ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du cho đến hiện nay mới
góp được 250 bài nhờ công sức sưu tầm của nhiều người. (Theo Nguyễn Du,
niên phổ và tác phẩm, Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính, Nxb Văn hóa
Thông tin, 2001). Chúng tôi đồng tình với ý kiến của hai tác giả này.
1.2.1. Tập thơ “Thanh Hiên thi tập” (Tập thơ của Thanh Hiên)
Là tập thơ chữ Hán đầu tiên của Nguyễn Du, gồm 78 bài, viết chủ yếu
trong những năm tháng trước khi ra làm quan cho nhà Nguyễn. Dựa vào đời
sống và tâm sự của nhà thơ, nhóm biên soạn đã sắp xếp, phân chia tập thơ
thành ba giai đoạn:
- Mười năm gió bụi (1786 - khoảng cuối năm 1795 đầu năm 1796): tức
năm Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà, cho đến năm Nguyễn Du trở về
quê nhà ở Hồng Lĩnh.
20
- Dưới chân núi Hồng (1796-1802): quãng thời gian ông về ở ẩn tại quê
nhà (Hà Tĩnh).
- Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804): quãng thời gian ông bắt đầu ra làm
quan cho nhà Nguyễn.
Thanh Hiên thi tập là tập thơ nổi bật tâm sự đau buồn của Nguyễn Du -
một phần tử quý tộc thất thế. Vì vậy, trong rất nhiều bài thơ, ông chủ yếu nói
đến những bất hạnh của riêng mình, mà chưa có tiếng nói quan tâm đến
những người xung quanh. Nỗi đau trong tập thơ này là nỗi đau vì mình, đau
cho mình nhiều hơn nỗi đau về nhân tình thế thái. Đồng thời, qua các bài thơ
chữ Hán Nguyễn Du thể hiện phẩm chất trong sạch của mình và nêu bật ý

thức gìn giữ phẩm chất đó (Dạ hành, Lam giang). Đọc Thanh Hiên thi tập,
chúng ta thấy Nguyễn Du có nhiều tư tưởng bi quan, yếm thế của một con
người chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho - Phật - Lão. Tuy nhiên, những nhân
tố tích cực trong tư tưởng đã giữ được cho Nguyễn Du ở một thế đứng vững
vàng để khỏi rơi vào dòng đục của cuộc đời.
1.2.2. Tập thơ “Nam trung tạp ngâm” (Các bài thơ ngâm khi ở
phương Nam)
Gồm 40 bài, sáng tác trong khoảng thời gian từ 1805 - 1812, tức là từ
khi được thăng hàm “Đông các điện học sĩ” ở Huế cho đến hết thời kỳ làm
quan “Cai bạ” ở Quảng Bình. Tập thơ là tiếng thở dài của Nguyễn Du trước
hiện thực ông thấy không có gì để gắn bó. Tác phẩm có tính chất của một
cuốn nhật ký, bút ký phản ánh tâm trạng của Nguyễn Du ở chốn quan trường
bon chen, đố kị, những hệ lụy, ràng buộc mất tự do mà cảnh làm quan đem
đến (Tân thu ngẫu hứng, Tặng nhân, Vọng Thiên thai tự ). Ngoài ra, trong một
số bài thơ chữ Hán, Nguyễn Du có nói đến sự nghèo túng, ốm đau của mình
(Ngẫu đề, Thủy Liên đạo trung tảo hành ), hay nói một cách mỉa mai và bóng
gió về thói hay chèn ép của các quan lại (Ngẫu đắc, Điệu khuyển ). Một số bài
21
trở đi trở lại cái tâm sự u uất, bế tắc của mình (Tạp ngâm, Thu chí, Thu nhật
ngẫu hứng ). Đồng thời, tập thơ chữ Hán còn là sự gửi gắm nỗi niềm về quê
hương, gia tộc của nhà thơ, khi ông phải sống cảnh xa quê, xa gia đình.
Giống như Thanh Hiên thi tập, trong Nam trung tạp ngâm, Nguyễn Du
ít bộc lộ thái độ chính trị của mình. Chỉ thấy ông than thở cuộc đời là đáng
buồn, đáng chán, là vô nghĩa, là bãi bể nương dâu, Tuy nhiên, tư tưởng
Nguyễn Du trong tập thơ chữ Hán này ít nhiều đã có sự biến đổi. Nguyễn Du
chú ý đến mọi người xung quanh nhất là những người lao động nghèo khổ,
những người phụ nữ tài sắc (Độc Tiểu Thanh ký, Phượng hoàng lộ thượng tảo
thành, Đại tác cửu thú tư quy, Độ Linh giang, Pháo đài). Tập thơ còn là sự
thể hiện mối quan tâm của nhà thơ đến những người dân là nạn nhân của thiên
tai, của chiến tranh phong kiến phi nghĩa.

1.2.3 .Tập thơ “Bắc hành tạp lục” (ghi chép trong chuyến đi sang
phương Bắc)
Gồm 132 bài thơ chữ Hán, sáng tác trong thời gian Nguyễn Du đi sứ
Trung Quốc (năm 1813 - 1814). Đây là một tập thơ du ký, đồng thời là cuốn
sách hồi cố, ghi lại sự tự biểu hiện của thế giới tinh thần, tâm trạng của nhà
thơ trong hơn một năm đi sứ. Những bài thơ Nguyễn Du viết trên đường đi sứ
chủ yếu được chia thành hai loại:
- Đề tài “lộ trình”, ghi chép lại những cảm hứng nẩy sinh, những điều
tai nghe mắt thấy trên từng chặng đường đi, qua đó nhà thơ giãi bày tâm trạng
(Minh Giang chu phát, Thái Bình thành hạ văn xuy địch,…v.v)
- Đề tài “vịnh sử”, trình bày cảm xúc, suy nghĩ về một loạt nhân vật
lịch sửTrung Quốc, nhân đi qua các di tích của họ (Tương Đàm điếu Tam Lư
đại phu, Dự Nhượng chùy thủ hành, Sở Bá vương mộ v.v )
Với tập thơ chữ Hán này, Nguyễn Du không chỉ soi ngắm cái tôi của
mình như trước mà đã quan tâm đến cuộc sống hiện thực. Tập thơ xuất hiện
22
nhiều hình tượng mới: trung thần nghĩa sĩ, thi hào lỗi lạc, những người yêu
nước và cả những hôn quân bạo chúa, những gian thần trong lịch sử Trung
Quốc. Nguyễn Du đặc biệt quan tâm đến những con người nhỏ bé, bất hạnh
và những người phụ nữ tài sắc. Ngoài ra, tập thơ chữ Hán còn thể hiện nỗi
nhớ nhà và tâm trạng buồn bã nơi đất khách quê người của tác giả.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là một tài sản nghệ thuật đạt đến trình độ
cổ điển. Ba tập thơ có nhiều bài thơ bát cú (ngũ ngôn, thất ngôn) và tứ tuyệt
rất tinh tế; tạo được ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Những bài thơ cổ
phong và trường thiên của ông có tư tưởng nhân đạo cao cả, có một phong
cách phóng khoáng, lời thơ điêu luyện, lay động cõi người, giọng thơ u trầm
thấm thía, đầy cảm xúc. Tác giả đã thể hiện sự ghi chép “người thực việc
thực” của mình với một giọng điệu, ngôn ngữ đầy sáng tạo, có sự kết hợp
giữa giọng điệu cảm thương sâu sắc và giọng điệu phê phán tố cáo, đồng thời
tạo nên những bức tranh đối lập tương phản làm cho tác phẩm mang tính hiện

thực hơn. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chỉ với thơ chữ Hán, Nguyễn Du đã
xứng đáng là một thi hào. Đúng như nhận xét của Đặng Thanh Lê: “Tuy
thuộc về những thời điểm sáng tác khác biệt và khai thác nhiều đề tài đa
dạng, nhưng toàn bộ thơ chữ Hán Nguyễn Du có một ý nghĩa khái quát
nghệ thuật chung, đó là lời tự thuật về một cuộc đời, một con người và
một tâm hồn nghệ sĩ vĩ đại đứng trước xã hội đầy màu sắc bi kịch ở thế kỉ
cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam” [36, 170-171].
Nếu Truyện Kiều được xem là tác phẩm gián tiếp của nhà thơ gửi
gắm nỗi đau của mình, của muôn người và của cuộc đời qua những kiếp
người, những số phận, thì thơ chữ Hán Nguyễn Du là tiếng nói trực diện
của tác giả, với những vần thơ mang sức nặng tố cáo của một tấm lòng
yêu thương, ngợi ca vẻ đẹp, nhân cách con người. Xuyên suốt ba tập thơ
chữ Hán Nguyễn Du là tiếng nói trữ tình, tiếng nói nhân văn giữa một
23
thời tao loạn, tiếng nói khắc khoải tìm về ý nghĩa đích thực của cuộc
sống con người. Các thi tập của Nguyễn Du cho thấy phần sâu kín nhất
trong tâm trạng nhà thơ chính là tiếng thở dài về nhân tâm thế sự và sự
xót thương về thân phận. Nó như cuốn nhật kí ghi dấu trung thành những
thăng trầm, những nỗi niềm, ý nghĩ trong cuộc đời thi nhân. Nhờ đó, lớp
lớp hậu sinh đã hiểu sâu sắc hơn về Nguyễn Du, về những gì đã làm nên
một nhà thơ lớn, một người nghệ sĩ lớn của mọi thời đại.
1.3. Cơ sở nghiên cứu sự vận động của cảm hứng nhân đạo trong
thơ chữ Hán Nguyễn Du
1.3.1. Về thời đại Nguyễn Du sinh sống
Một trong những nhân tố quan trọng góp phần hình thành cảm hứng
nhân đạo trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là thời đại ông sinh sống (cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX). Đây là một thời đại vô cùng rối ren, đầy biến động với
sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến và tình cảnh điêu đứng,
lầm than của người dân Việt Nam.
1.3.1.1. Sự khủng hoảng suy yếu, sụp đổ toàn diện của chế độ phong

kiến Việt Nam
Thời kỳ này, xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào bế tắc, không có điều
kiện để chuyển sang chế độ mới. Sự bế tắc, suy thoái này thể hiện sâu sắc trên
các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng.
a. Chính trị
Các tập đoàn phong kiến thống trị ở Đàng Ngoài (Lê - Trịnh), Đàng
Trong (Nguyễn) thối nát cực độ. Giai cấp phong kiến thống trị bất lực trong
quản lý sản xuất, bó tay trong việc giải quyết mâu thuẫn xã hội, đua nhau lao
vào cuộc sống hưởng lạc cá nhân, xa hoa lãng phí trên mồ hôi, nước mắt và
máu của nhân dân. Giai cấp phong kiến thống trị không còn tư cách đại diện
cho dân tộc, trở thành những kẻ phản bội lại dân tộc, cản bước tiến của lịch
24
sử.Bộ máy quan liêu của các tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh - Nguyễn hết sức
rệu rạo, bê bối, trở thành "sâu mọt" của dân. Chính trong bối cảnh xã hội này,
phong trào nông dân khởi nghĩa diễn ra liên tục, mạnh mẽ, lan rộng khắp nơi
như: Ở Đàng Ngoài có cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương (1740 -
1751), cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất (1739 - 1769), cuộc khởi nghĩa
của Cao Bá Quát (1854 - 1855),… Ở Đàng Trong có cuộc khởi nghĩa của
chàng Lía (1769), cuộc bạo động của Lê Văn Khôi,… trong đó nổi bật hơn cả
là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn (1771) của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ. Đến năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi, lấy niên hiệu là Quang
Trung. Năm 1792, vua Quang Trung mất, con trai là Quang Toản nối ngôi trị vì
đất nước. Nhưng chẳng bao lâu, triều Tây Sơn bị tiêu diệt (1802). Mặc dù, triều
Tây Sơn xuất hiện có nhiều tiến bộ, dành được những thắng lợi huy hoàng
nhưng do không phát huy được vai trò tích cực của mình nên dần dần đi vào
con đường phong kiến hóa, tạo cơ hội cho tập đoàn phong kiến Nguyễn Ánh
manh nha phát triển. Dựa vào thế lực tư bản Pháp, Nguyễn Ánh đánh bại Tây
Sơn, thiết lập chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Ngay sau khi lên ngôi (1802),
Nguyễn Ánh (niên hiệu Gia Long) và các đời vua tiếp theo ngày càng đi sâu
vào con đường phản động. Bọn chúng đã tìm mọi cách thiết lập chế độ quân

chủ chuyên chế tập trung ; nhưng do thiếu sự ủng hộ của nhân dân nên không
ổn định được trật tự xã hội. Nhà Nguyễn từ một số nhượng bộ, đã đi tới đầu
hàng nhục nhã bọn xâm lược phương Tây, bán rẻ tổ quốc cho thực dân Pháp.
b. Kinh tế
Với một nền chính trị bê bối, rệu rạo trong giai đoạn lịch sử này đã ảnh
hưởng trực tiếp đến nền kinh tế nước nhà trong một thời gian dài. Nông nghiệp
thì đình đốn, mất mùa quanh năm, nền kinh tế tiểu nông thì bị phá hoại nghiêm
trọng. Công, thương nghiệp vốn đã phát triển ở thế kỷ XVII, đến đầu thế kỷ
XVIII có manh nha tiền tư bản chủ nghĩa. Thế nhưng, đến giai đoạn này thì bị
25

×