Tải bản đầy đủ (.doc) (171 trang)

Xây dựng và sử dụng một số công thức tổng quát để giải nhanh bài tập trắc nghiệm khách quan môn hóa học ở trường THPT (phần hóa học vô cơ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.12 KB, 171 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN THỊ PHƯỢNG
XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG MỘT SỐ CÔNG THỨC
TỔNG QUÁT ĐỂ GIẢI NHANH BÀI TẬP TRẮC
NGHIỆM KHÁCH QUAN MÔN HÓA HỌC Ở
TRƯỜNG THPT (PHẦN HÓA HỌC VÔ CƠ)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
TP Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN THỊ PHƯỢNG
XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG MỘT SỐ CÔNG THỨC
TỔNG QUÁT ĐỂ GIẢI NHANH BÀI TẬP TRẮC
NGHIỆM KHÁCH QUAN MÔN HÓA HỌC Ở
TRƯỜNG THPT (PHẦN HÓA HỌC VÔ CƠ)
Chuyên ngành: Lí luận và Phương pháp dạy học bộ môn hóa học
Mã số: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. CAO CỰ GIÁC
Tp. Hồ Chí Minh – 2014
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
- Thầy giáo PGS.TS. Cao Cự Giác – Trưởng Bộ môn Lí luận và phương
pháp dạy học hoá học, khoa Hóa trường Đại học Vinh, đã giao đề tài, tận tình
hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi nghiên cứu và hoàn thành
luận văn này.
- Thầy giáo PGS.TS. Lê Văn Năm và PGS.TS. Võ Quang Mai đã dành
nhiều thời gian đọc và viết nhận xét cho luận văn.
- Phòng Đào tạo Sau đại học, Ban chủ nhiệm khoa Hoá học cùng các thầy


giáo, cô giáo thuộc Bộ môn Lí luận và phương pháp dạy học hoá học khoa Hoá học
trường ĐH Vinh đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi hoàn thành
luận văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn tất cả những người thân trong gia đình, Ban giám hiệu
Trường THPT Chu Văn An, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Tp Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2014

Trần Thị Phượng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 5
1. Lí do chọn đề tài 5
2. Mục đích nghiên cứu 6
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 7
5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Giả thuyết khoa học 7
7. Đóng góp mới của đề tài 7
Chương 1 9
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỂN 9
1.2. Tổng quan về Bài tập hóa học 10
1.2.1. Khái niệm câu hỏi, bài toán, bài tập, bài tập hóa học 10
1.2.2. Tác dụng của bài tập hóa học 12
1.2.3. Phân loại bài tập hóa học 13
1.2.4. Vị trí của bài tập hóa học trong quá trình dạy học 15
1.2.5. Điều kiện để học sinh giải bài tập được tốt 15
1.2.6. Xu hướng phát triển bài tập hóa học 16
1.2.7. Một số phương pháp giải bài tập hóa học vô cơ 16
1.3. Sử dụng bài tập Hóa học trong giảng dạy ở trường phổ thông 19
1.3.1. Lựa chọn bài tập Việc lựa chọn bài tập cần từ các nguồn sau đây 19

1.3.2. Sử dụng bài tập trong dạy học hóa học 20
1.4. Bài tập trắc nghiệm khách quan 22
1.4.1. Tổng quan về trắc nghiệm khách quan 22
1.4.1.1. Khái niệm 22
1.4.1.2. Các loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan 23
1.4.1.3. Các chỉ số để đánh giá một câu hỏi trắc nghiệm khách quan 27
1.4.2. Ưu và nhược điểm của trắc nghiệm khách quan 28
1.4.3. Thực trạng sử dụng trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra 29
1.5. Các biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học 31
1.6. Chương trình hóa học phần vô cơ ở THPT 31
Chương 2 38
1
XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG MỘT SỐ CÔNG THỨC TỔNG QUÁT ĐỂ GIẢI NHANH
BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN MÔN HÓA HỌC Ở TRƯỜNG THPT
(PHẦN HÓA HỌC VÔ CƠ) 38
2.1. Các nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập 38
2.1.1. Hệ thống bài tập phải góp phần thực hiện mục tiêu môn học 38
2.1.2. Hệ thống bài tập phải đảm bảo tính chính xác, khoa học 38
2.1.3. Hệ thống bài tập phải đảm bảo tính hệ thống, tính đa dạng 38
2.1.4. Hệ thống bài tập phải đảm bảo tính phân hóa và tính vừa sức 39
2.1.5. Hệ thống bài tập phải góp phần củng cố kiến thức cho học sinh ở các mức độ
hiểu, biết, vận dụng 39
2.1.6. Hệ thống bài tập phải phát huy tính tích cực nhận thức, năng lực sáng tạo của
học sinh 40
2.2.1. Quy hoạch một bài trắc nghiệm 40
2.2.2. Xác định mục đích trắc nghiệm 41
2.2.3. Phân tích nội dung bài học 41
2.2.4. Lập dàn bài trắc nghiệm 43
2.3. Nguyên tắc khi xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan 44
2.4. Xây dựng một số một số công thức tổng quát để giải nhanh bài tập TNKQ môn hóa

học ở trường THPT( phần hóa học vô cơ) 45
KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ NGHỊ 152
2
KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BT : Bài tập
BTHH : Bài tập hóa học
ĐC : Đối chứng
ĐHSP : Đại học sư phạm
GV : Giáo viên
GVTN : Giáo viên thực nghiệm
PPDH : Phương pháp dạy học
PPGDHH : Phương pháp giảng dạy hóa học
HS : Học sinh
KT – ĐG : Kiểm tra – Đánh giá
TN : Thực nghiệm
TNKQ : Trắc nghiệm khách quan
TNTL : Trắc nghiệm tự luận
TNSP : Thực nghiệm sư phạm
THPT : Trung học phổ thông
SBT : Sách bài tập
SGK : Sách giáo khoa
3
4
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội năm 2011 – 2020 Đại hội Đảng lần thứ 11
quyết định tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền
vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta trở thành nước công
nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nâng cao chất lượng nguồn lực, đổi mới
toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo. Phát triển và nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là
yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo đảm kinh tế xã hội phát triển nhanh, hiệu quả,
bền vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lí giỏi, đội ngũ
chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học,
công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của
công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, nghành nghề. Thực hiện các
chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các nghành, lĩnh vực
chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân
lực cho phát triển kinh tế tri thức. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình,
phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp, bậc học. Đẩy mạnh phong trào khuyến
học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; mở rộng các phương thức đào tạo từ xa và
hệ thống các trung tâm học tập cộng đồng. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học
tập và các chính sách xã hội trong giáo dục.
Đáp ứng yêu cầu đó đòi hỏi phải đổi mới phương pháp giáo dục, những phương
pháp dạy học thích hợp khuyến khích tối đa những khả năng của mỗi cá nhân đồng
thời có tác dụng phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, tích cực tìm tòi nghiên cứu và
giải quyết các vấn đề trong học tập nâng cao năng lực tự học của học sinh. Hai mục
tiêu cơ bản sẽ đạt được khi đổi mới PPDH:
Thứ nhất, giúp học sinh phát huy tính tích cực, hình thành và phát triển năng
lực phát hiện và giải quyết vấn đề trong học tập cũng như trong đời sống.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu xã hội hóa giáo dục là phải thực hiện tốt các mục
đích dạy học đối với tất cả đối tượng học sinh, đồng thời phát triển tối ưu và tối đa
năng lực cá nhân.
5
Muốn đạt được các mục tiêu đó đòi hỏi trong quá trình dạy học người thầy phải
lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp, tích cực hóa hoạt động dạy học.
Một trong các phương pháp dạy học tích cực đó là sử dụng bài tập hóa học
trong hoạt động dạy và học ở trường phổ thông. Bài tập hóa học đóng vai trò vừa là
nội dung vừa là phương tiện để chuyển tải kiến thức, phát huy tính tích cực môn

học một cách hiệu quả nhất. Bài tập hóa học không chỉ củng cố nâng cao kiến thức,
vận dụng kiến thức mà còn là phương tiện tìm tòi, hình thành kiến thức mới. Đặc
biệt là sử dụng hệ thống bài tập nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh
trong quá trình dạy học. Hiện nay, hình thức kiểm tra bằng trắc nghiệm khách quan
đang được thực hiện rộng rãi đối với hầu hết các môn học. Để giải nhanh và chính
xác các bài tập trắc nghiệm khách quan là mong muốn lớn nhất của các em học
sinh, đặc biệt là đối với bộ môn hóa học của học sinh THPT. Để đáp ứng nguyện
vọng đó, đã có rất nhiều tài liệu đưa ra các công thức để giải nhanh một số bài tập
hóa học. Tuy nhiên, các tác giả chỉ đưa ra công thức giải nhanh và yêu cầu học sinh
phải chấp nhận và vận dụng một cách miễn cưỡng, máy móc mà không có giải
thích, chứng minh để các em hiểu. Vì những lí do trên chúng tôi đã chọn đề tài
nghiên cứu: “Xây dựng và sử dụng một số công thức tổng quát để giải nhanh bài
tập trắc nghiệm khách quan môn hóa học ở trường THPT (Phần hóa học vô cơ)”
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng và sử dụng một số công thức tổng quát để giải nhanh bài tập trắc
nghiệm khách quan hóa học chương trình THPT phần vô cơ nhằm:
- Phát huy tính tích cực học tập của học sinh để củng cố, nâng cao kiến thức,
đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học hóa học hiện nay,
- Giúp học sinh hình thành năng lực vận dụng kiến thức cơ bản từ việc giải một
số bài toán tổng quát để rèn luyện tư duy trong quá trình giải các bài toán cụ thể về
môn Hóa , tạo niềm say mê, hứng thú đối với môn học, nâng cao chất lượng học tập
của học sinh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về: Bài tập hóa học, bài tập trắc nghiệm khách quan
- Tìm hiểu các nội dung hóa học có liên quan đến Hóa học vô cơ .
6
- Xây dựng một số công thức tổng quát và hệ thống bài tập TNKQ hóa học
phần vô cơ.
- Nghiên cứu sử dụng hệ thống bài tập TNKQ trên để phát huy tính tích cực học
tập của học sinh trong quá trình dạy học hóa học THPT phần vô cơ.

- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để xác định hiệu quả của hệ thống bài tập đã
xây dựng và xử lí kết quả thực nghiệm bằng toán học thống kê.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy và học môn hóa vô cơ ở trường THPT.
- Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống bài tập TNKQ phần hóa học vô cơ có áp
dụng một số công thức giải nhanh đã xây dựng nhằm phát huy tính tích cực học tập
của học sinh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn:
a) Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
• Phương pháp thu thập và xây dựng các nguồn tài liệu
• Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết các nguồn tài liệu thu được.
b) Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
• Quan sát, điều tra thực trạng việc giải bài tập hóa học nói chung và hóa học
vô cơ nói riêng.
c) Phương pháp thực nghiệm sư phạm và phương pháp thống kê toán học trong
khoa học giáo dục để đánh giá chất lượng, tính khả thi của đề tài.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu học sinh hiểu và nắm vững được các công thức tổng quát và sử dụng các
bài tập TNKQ phần hóa học vô cơ chương trình THPT một cách có hiệu quả sẽ góp
phần gây hứng thú , rèn luyện tư duy, phát huy tính tích cực của học sinh trong học
tập đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học hóa học.
7. Đóng góp mới của đề tài
- Về mặt lí luận: Góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa và tác dụng to lớn của bài tập
hóa học trong quá trình dạy học nhằm phát triển tư duy và phát huy tính tích cực
của học sinh trong quá trình dạy học hóa học vô cơ THPT.
7
- Về mặt thực tiễn: xây dựng và sử dụng một số công thức tổng quát để giải
nhanh bài tập trắc nghiệm hóa học phần vô cơ THPT nhằm phát huy tính tích cực
học tập của học sinh trong quá trình dạy học.

8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỂN
1.1. Lịch sử vấn đề
Phương pháp trắc nghiệm là phương pháp đã được khai thác và sử dụng rộng
rãi từ những năm 70 trên thế giới và có nhiều công trình vận dụng phương pháp trắc
nghiệm vào kiểm tra kiến thức học sinh (Trần Bá Hoành, nghiên cứu giáo dục, số
11/5/1971, số 26/7/1973).
Ở Mỹ, từ đầu thế kỷ XIX, người ta đã dùng phương pháp này chủ yếu để phát
hiện năng khiếu, xu hướng nghề nghiệp của học sinh. Sang đầu thế kỷ XX,
E.Thorm Dike là người đầu tiên dùng trắc nghiệm như một phương pháp “khách
quan và nhanh chóng” để đo trình độ kiến thức học sinh, bắt đầu dùng với môn sử
học và sau đó đối với một số môn học khác. Đến năm 1940 ở Hoa Kỳ đã xuất bản
hiều hệ thống trắc nghiệm dùng để đo hành tích học tập của học sinh. Năm 1901,
Hoa Kỳ đã có hơn 2000 chương trình trắc nghiệm chuẩn.
Ở Liên Xô, từ năm 1926 – 1931 đã có một số nhà sư phạm tại Maxcova,
Leningrat tiếp thí nghiệm dùng trắc nghiệm để chuẩn đoán tâm lí cá nhân và kiểm
tra kiến thức học sinh.
Ở nước ta, năm 1998 Bộ Giáo Dục và Đào Tạo chủ trương thi bằng hình thức
trắc nghiện nên đã có sự chuẩn bị từ các trường phổ thông và đại học. Một số nhà
xuất bản đã phát hành những cuốn sách dành riêng cho giáo viên để hướng dẫn cụ
thể việc sử dụng trắc nghiệm trong nhà trường như trắc nghiệm giáo dục của
Nguyễn Ngọc Đính, Lê Như Dục, 1973).
Như vậy, với sự phát triển của xã hội thì phương pháp trắc nghiệm ngày càng
phát triển và mở rộng hơn. Cùng với thời gian có giới hạn đòi hỏi học sinh luôn
phải tư duy tìm phương pháp thích hợp để hoàn thành bài trắc nghiệm một cách
đúng nhất và nhanh nhất.
Hiện nay đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu về trắc nghiệm như:
- Lê Danh Bình (1997), Xây dựng câu hỏi trắc nghiệm cho kiểm tra đánh giá
kiến thức kỹ năng hóa học của HS lớp 11, luận văn thạc sỹ PPGDHH, trường ĐHSP

Hà Nội.
9
- Hoàng Thị Kiều Dung (1999), Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm để
kiểm tra đánh giá kiến thức HS lớp 11, 12 PTTH, Luận văn thạc sỹ PPGDHH,
trường ĐHSP Huế.
- Nguyễn Thị Ngọc Xuân, Thiết kế website về phương pháp giải nhanh các bài
tập trắc nghiệm khách quan Hóa học vô cơ ở trường Trung học phổ thông, Luận
văn thạc sĩ PPGDHH, trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh.
- Phạm Thị Quỳnh, Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan nhiều
lựa chọn chương nitơ - photpho (Hoá học 11), Vinh-2007.
- Trần Thị Thanh Nga, Kỹ thuật xây dựng phương án nhiễu cho bài tập trắc
nghiệm khách quan nhiều lựa chọn môn hoá học, Vinh - 2007.
- Phạm Thị Hằng, Phân tích và sửa chữa những sai lầm cho học sinh khi làm
bài tập trắc nghiệm môn hoá học ở trường THPT, Vinh - 2010.
- Trần Thanh Tâm, Kĩ thuật phân tích giải bài tập trắc nghiệm hóa học vô cơ ở
trường THPT, Tp Hồ Chí Minh 2012.
- Nguyễn Hữu Hậu, Kĩ thuật phân tích giải bài tập trắc nghiệm hóa học hữu cơ
ở trường THPT, Tp Hồ Chí Minh 2012.
Nhìn chung, các đề tài đã nghiên cứu đa phần xây dựng hệ thống câu hỏi trắc
nghiệm dùng làm ngân hàng câu hỏi, tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu về
lĩnh vực xây dựng công thức tổng quát để giải nhanh các bài tập TNKQ hóa học
THPT phần hóa học vô cơ.
1.2. Tổng quan về Bài tập hóa học
1.2.1. Khái niệm câu hỏi, bài toán, bài tập, bài tập hóa học
Theo nghĩa chung nhất, thuật ngữ “bài tập” (tiếng Anh) là “Exercise”, tiếng
Pháp – “Exercice” dùng để chỉ một loạt hoạt động nhằm rèn luyện thể chất và tinh
thần (trí tuệ).
Trong giáo dục, theo “Từ điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên, thuật ngữ
“bài tập” có nghĩa là “bài ra cho học sinh làm để vận dụng những điều đã học”.
Theo Thái Duy Tuyên, “bài tập là một hệ thông tin xác định bao gồm những

điều kiện và những yêu cầu được đưa ra trong quá trình dạy học, đòi hỏi người học
một lời giải đáp, mà lời giải đáp này về toàn bộ hoặc từng phần không ở trạng thái
có sẵn của người giải tại thời điểm mà bài tập được đặt ra”.
10
Về mặt lí luận dạy học, bài tập bao gồm cả câu hỏi và bài toán mà khi hoàn
thành chúng học sinh nắm được hay hoàn thiện một tri thức, một kĩ năng nào đó,
bằng cách trả lời miệng hay trả lời viết kèm theo thực nghiệm. Ở nước ta, trong các
SGK và sách tham khảo, thuật ngữ “bài tập” được dùng theo quan niệm này. Câu
hỏi - đó là những bài làm mà khi hoàn thành chúng học sinh phải tiến hành một loạt
hoạt động tái hiện, bất luận là trả lời miệng, trả lời viết hay có kèm thực hành hoặc
xác minh bằng thực nghiệm. Thường trong các câu hỏi, GV yêu cầu HS phải nhớ lại
nội dung các định luật, các quy tắc, định nghĩa, các khái niệm, trình bày lại một
mục trong SGK…
Bài toán - đó là những bài làm mà khi hoàn thành chúng HS phải tiến hành một
hoạt động sáng tạo. Bất luận hình thức hoàn thành bài toán - nói miệng, hay viết,
hay thực hành (thí nghiệm) - bất kì bài toán nào cũng đều có thể xếp vào một trong
hai nhóm: định lượng (tính toán) hay định tính . Người ta thường lựa chọn những
bài toán và câu hỏi đưa vào một bài tập có tính toán đến một mục đích dạy học nhất
định, là nắm hay hoàn thiện một dạng tri thức hay kĩ năng. Chẳng hạn, có thể ra bài
tập nhằm mục đích hình thành kĩ năng lập công thức muối, viết phương trình phản
ứng, nêu các chất đồng phân, giải những bài toán hóa học thuộc một kiểu nào đó,
nêu đặc điểm của một nguyên tố theo vị trí của nó trong hệ thống tuần hoàn các
nguyên tố hóa học… Tùy theo tính chất của hoạt động cần tiến hành (tái hiện hay
sáng tạo) mà bài tập có thể chỉ gồm toàn những câu hỏi, hay toàn những bài toán
hay hỗn hợp cả câu hỏi lẫn bài toán. Tóm lại, bài tập được xem như là một phương
tiện dạy học then chốt trong quá trình dạy học, dùng bài tập trong quá trình hình
thành kiến thức, khai thác kiến thức, phát triển tư duy, hình thành kĩ năng, kĩ xảo
cho người học và kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập… Như vậy, có thể xem bài
tập là một “vũ khí” sắc bén cho GV, HS trong quá trình dạy học và sử dụng bài tập,
là một trong những yêu cầu quan trọng trong quá trình dạy học nhằm nâng cao chất

lượng đào tạo.
Bài toán hóa học là nhiệm vụ mà giáo viên đặt ra cho người học, buộc người
học phải vận dụng các kiến thức đã học sử dụng hành động trí tuệ để giải quyết các
nhiệm vụ đó nhằm chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng một cách tích cực, chủ động, sáng
tạo. Một bài toán hóa học có hai tính chất:
11
+ Tính chất toán học: cần dùng các phép tính về số học, đại số học, các kĩ năng
toán học để giải.
+ Tính chất hóa học: cần dùng đến các kiến thức về hóa học, ngôn ngữ hóa học
mới giải được.
Bài tập hóa học là một dạng bài làm gồm những bài toán, những câu hỏi hay
đồng thời cả bài toán và câu hỏi thuộc về hóa học mà trong khi hoàn thành chúng,
học sinh nắm được một tri thức hay kỹ năng nhất định.
1.2.2. Tác dụng của bài tập hóa học
Việc dạy học không thể thiếu bài tập. Sử dụng bài tập để luyện tập là một biện
pháp hết sức quan trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Bài tập hóa học có
những ý nghĩa, tác dụng to lớn về nhiều mặt:
- Tác dụng trí dục:
+ Giúp cho học sinh hiểu được một cách chính xác các khái niệm hóa học,
nắm được bản chất của từng khái niệm đã học hay làm chính xác hoá các khái niệm
hóa học. Củng cố, đào sâu và mở rộng kiến thức một cách sinh động, phong phú,
hấp dẫn. Chỉ khi vận dụng được kiến thức vào việc giải bài tập, học sinh mới nắm
được kiến thức một cách sâu sắc
+ Có điều kiện để rèn luyện, củng cố và khắc sâu các kiến thức hóa học cơ bản,
hiểu được mối quan hệ giữa các nội dung kiến thức cơ bản.
+ Góp phần hình thành được những kĩ năng, kĩ xảo cần thiết về bộ môn hóa học
ở HS, giúp họ sử dụng ngôn ngữ hóa học đúng, chuẩn xác như cân bằng phương
trình phản ứng, tính toán theo công thức hóa học và phương trình hóa học … Nếu là
bài tập thực nghiệm sẽ rèn các kĩ năng thực hành, góp phần vào việc giáo dục kĩ
thuật tổng hợp học sinh.

+ BTHH còn được sử dụng nhiều trong quá trình chuẩn bị nghiên cứu các kiến
thức mới.
+ BTHH mở rộng sự hiểu biết một cách sinh động, phong phú và không làm
nặng nề khối lượng kiến thức của HS.
+ BTHH có khả năng phát triển tư duy sáng tạo của HS.
+ BTHH rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống, lao
động sản xuất và bảo vệ môi trường.
12
+ BTHH rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ hóa học và các thao tác tư duy.
- Tác dụng đức dục:
BT hóa học có tác dụng giáo dục đạo đức tư tưởng vì khi giải bài tập HS sẽ tự
rèn luyện cho mình những phẩm chất tốt của con người như: tính kiên nhẫn, chịu
khó, cẩn thận, chính xác, khoa học, tính trung thực, tính sáng tạo, lòng yêu thích bộ
môn.
- Tác dụng giáo dục kĩ thuật tổng hợp:
Có khả năng để gắn kết các nội dung học tập ở trường với thực tiễn đa dạng,
phong phú của đời sống xã hội hoặc trong sản xuất hóa học thể hiện trong nội dung
BTHH các nguyên tắc kĩ thuật tổng hợp như nguyên tắc ngược dòng, tận dụng nhiệt
phản ứng…
Rèn luyện đức tính chính xác, kiên nhẫn, trung thực và lòng say mê khoa học
hóa học. Bài tập thực nghiệm còn có tác dụng rèn luyện văn hoá lao động (lao động
có tổ chức, có kế hoạch, gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ nơi làm việc).
Phát triển ở học sinh các năng lực tư duy logic, biện chứng, khái quát, độc lập,
thông minh và sáng tạo
1.2.3. Phân loại bài tập hóa học
Hiện nay, có nhiều cách phân loại bài tập khác nhau. Vì vậy, cần có cách nhìn
tổng quát về các dạng bài tập dựa vào việc nắm chắc các cơ sở phân loại.
1.2.3.1. Dựa vào nội dung toán học của bài tập
- Bài tập định tính (không có tính toán).
- Bài tập định lượng (có tính toán).

1.2.3.2. Dựa vào nội dung của bài tập hóa học
- Bài tập định lượng.
- Bài tập lý thuyết.
- Bài tập thực nghiệm.
- Bài tập tổng hợp.
1.2.3.3. Dựa vào tính chất hoạt động học tập của học sinh
- Bài tập lý thuyết (không có tiến hành thí nghiệm).
- Bài tập thực nghiệm (có tiến hành thí nghiệm).
1.2.3.4. Dựa vào chức năng của bài tập
13
- Bài tập tái hiện kiến thức (hiểu, biết, vận dụng).
- Bài tập rèn luyện tư duy độc lập, sáng tạo (phân tích, tổng hợp, đánh giá).
1.2.3.5.Dựa vào kiểu hay dạng bài tập
- Bài tập xác định CTPT của hợp chất.
- Bài tập xác định thành phần % của hỗn hợp.
- Bài tập nhận biết các chất.
- Bài tập tách các chất ra khỏi hỗn hợp.
- Bài tập điều chế các chất.
- Bài tập bằng hình vẽ…
1.2.3.6. Dựa vào khối lượng kiến thức
- Bài tập đơn giản (cơ bản).
- Bài tập phức tạp (tổng hợp).
1.2.3.7. Dựa vào cách thức kiểm tra
- Bài tập trắc nghiệm.
- Bài tập tự luận.
1.2.3.8. Dựa vào phương pháp giải bài tập
- Bài tập tính theo công thức và phương trình.
- Bài tập biện luận.
- Bài tập dùng các giá trị trung bình.
- Bài tập dùng đồ thị…

1.2.3.9. Dựa vào mục đích sử dụng
- Bài tập dùng để kiểm tra đầu giờ.
- Bài tập dùng để củng cố kiến thức.
- Bài tập dùng để ôn luyện, tổng kết.
- Bài tập để bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Bài tập để phụ đạo học sinh yếu…
1.2.3.10. Dựa theo các bước của quá trình dạy học
- Bài tập mở bài, tạo tình huống dạy học.
- Bài tập vận dụng khi giảng bài mới.
- Bài tập củng cố, hệ thống hóa kiến thức.
- Bài tập về nhà.
14
- Bài tập kiểm tra.
Ngoài ra, có thể dựa vào đặc điểm của hoạt động nhận thức có thể chia thành:
- Bài tập tái hiện: Bài tập yêu cầu HS nhớ lại, tái hiện kiến thức, kĩ năng đã học
- Bài tập sáng tạo: Bài tập yêu cầu HS phải áp dụng những kiến thức, kĩ năng đã
học để giải quyết vấn đề trong tình huống mới, phải vận dụng phối hợp các kiến
thức để giải quyết vấn đề. Ở mức độ cao hơn, bài tập sáng tạo đòi hỏi HS giải quyết
vấn đề theo một hướng mới, một kĩ thuật mới, một phương pháp mới. Trong thực tế
dạy học, có hai cách phân loại bài tập có ý nghĩa hơn cả là phân loại theo nội dung
và theo dạng bài.
1.2.4. Vị trí của bài tập hóa học trong quá trình dạy học
Trong thực tế dạy học hiện nay, nhiều giáo viên chưa nắm được vị trí của bài
tập hóa học trong quá trình dạy học. Họ thường sử dụng BT vào đầu giờ để kiểm tra
bài cũ hoặc cuối giờ học, cuối chương, cuối học kì để ôn tập và kiểm tra kiến thức.
Quan niệm đó chưa thật đúng, làm giảm tác dụng của BT khi dạy học. GV có thể sử
dụng BT ở bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào khi thấy nó có thể giúp mình thỏa mãn
nhiệm vụ dạy học và mục đích dạy học. Ngược lại, GV hoàn toàn có thể không sử
dụng BT khi điều đó không cần thiết cho công việc giảng dạy của mình. BTHH
không phải là nội dụng nhưng nó chứa đựng nội dung dạy học. BT phải phù hợp với

nội dung dạy học, với năng lực nhận thức của học sinh và phải phục vụ được ý đồ
của GV. Khi ra một bài tập phải xác định đúng vị trí của nó để BT trở thành một bộ
phận hữu cơ của hệ thống kiến thức cần truyền thụ.
1.2.5. Điều kiện để học sinh giải bài tập được tốt
- Nắm chắc lý thuyết: các định luật, qui tắc, các quá trình hóa học, tính chất lý
hóa học của các chất.
- Nắm được các dạng bài tập cơ bản, nhanh chóng xác định bài tập cần giải
thuộc dạng bài tập nào.
- Nắm được một số phương pháp giải thích hợp với từng dạng bài tập.
- Nắm được các bước giải một bài toán hỗn hợp nói chung và với từng dạng bài
nói riêng.
- Biết được một số thủ thuật và phép biến đổi toán học, cách giải phương trình
và hệ phương trình bậc 1,2, …
15
1.2.6. Xu hướng phát triển bài tập hóa học
Theo tác giả Nguyễn Xuân Trường , xu hướng xây dựng BT hóa học hiện nay là:
- Loại bỏ những bài tập có nội dung hóa học nghèo nàn nhưng lại cần đến
những thuật toán phức tạp để giải (hệ nhiều ẩn nhiều phương trình, bất phương
trình, phương trình bậc 2, cấp số cộng, cấp số nhân…).
- Loại bỏ những bài tập có nội dung léo lắt, giả định rắc rối, phức tạp, xa rời
hoặc phi thực tiễn hóa học.
- Tăng cường sử dụng bài tập thực nghiệm.
- Tăng cường sử dụng bài tập trắc nghiệm khách quan.
- Xây dựng bài tập mới về bảo vệ môi trường và phòng chống ma túy.
- Xây dựng bài tập mới để rèn luyện cho học sinh năng lực phát hiện vấn đề
và giải quyết vấn đề.
- Đa dạng hóa các loại hình bài tập bằng hình vẽ, bài tập vẽ đồ thị, sơ đồ, bài
tập lắp dụng cụ thí nghiệm…
- Xây dựng những bài tập có nội dung hóa học phong phú, sâu sắc, phần tính
toán đơn giản, nhẹ nhàng.

- Xây dựng và tăng cường sử dụng bài tập thực nghiệm định lượng.
1.2.7. Một số phương pháp giải bài tập hóa học vô cơ
1.2.7.1. Phương pháp tăng giảm khối lượng
Cách giải
Khi chuyển từ chất này sang chất khác khối lượng có thể tăng hoặc giảm do các
chất khác nhau có khối lượng mol khác nhau. Dựa vào mối tương quan tỉ lệ thuận
của sự tăng giảm ta tính được lượng chất tham gia hay tạo thành sau phản ứng.
1.2.7.2. Phương pháp biện luận.
Cách giải
- Viết các phương trình phản ứng.
- Đặt ẩn số cho các đại lượng cần tìm.
- Tính theo các phương trình phản ứng và các ẩn số đó để lập ra phương trình đại
số.
- Giải phương trình đại số (hoặc hệ phương trình) và biện luận kết quả .
1.2.7.3. Phương pháp bảo toàn
16
a)Bảo toàn điện tích
Nguyên tắc: Tổng điện tích dương luôn luôn bằng tổng điện tích âm về giá trị tuyệt
đối. Vì thế dung dịch luôn luôn trung hoà về điện.
b) Bảo toàn khối lượng
Nguyên tắc
- Trong một phản ứng hóa học tổng khối lượng của các sản phẩm bằng tổng khối
lượng của các chất phản ứng.
- Khi cô cạn dung dịch thì khối lượng hỗn hợp muối thu được bằng tổng khối lượng
của các cation kim loại và anion gốc axit.
c) Bảo toàn electron
Nguyên tắc : Trong quá trình phản ứng thì:
Số e nhường = Số e thu
hoặc: Số mol e nhường = Số mol e thu
Khi giải không cần viết phương trình phản ứng mà chỉ cần tìm xem trong quá trình

phản ứng có bao nhiêu mol e do chất khử nhường ra và bao nhiêu mol e do chất oxi
hoá thu vào.
Điều quan trọng nhất khi áp dụng phương pháp này đó là việc phải nhận định đúng
trạng thái đầu và trạng thái cuối của các chất oxi hóa và các chất khử. Phương pháp
này đặc biệt hữu dụng đối với các bài toán biện luận nhiều trường hợp xảy ra.
1.2.7.4. Phương pháp trung bình (khối lượng mol trung bình)
Cách giải
- Phương pháp trung bình chỉ áp dụng cho bài toán hỗn hợp các chất.
- Giá trị trung bình dùng để biện luận tìm ra nguyên tử khối hoặc phân tử khối hay
số nguyên tử trong phân tử hợp chất.
- Khối lượng mol trung bình là khối lượng của một mol hỗn hợp, kí hiệu
Trong đó : m
hh
là tổng khối lượng của hỗn hợp,
n
hh
là tổng số mol của hỗn hợp
M
i
là khối lượng mol của chất thứ i trong hỗn hợp
n
i
là số mol của chất i trong hỗn hợp
Chú ý :
- M
min
< M < M
max
.
17

- Nếu hỗn hợp gồm hai chất có số mol bằng nhau thì khối lượng mol trung bình của
hỗn hợp cũng chính bằng trung bình cộng khối lượng phân tử của hai chất và ngược
lại.
Phương pháp này được áp dụng trong việc chuyển bài toán hỗn hợp thành bài toán
một chất đơn giản và dễ dàng.
- Một số phương pháp dùng các giá trị trung bình.
+ Khối lượng mol trung bình .
+ Hóa trị trung bình.
+ Số nguyên tử C, H, … trung bình.
+ Số liên kết pi trung bình.
+ Gốc hidrocacbon trung bình.
+ Số nhóm chức trung bình.
1.2.7.5. Phương pháp ghép ẩn số
Cách giải
Một số bài toán cho thiếu dữ kiện nên khi giải bằng phương pháp đại số có số ẩn
nhiều hơn số phương trình và ở dạng vô định, không giải được. Nếu dùng phương
pháp ghép ẩn số ta có thể giải loại bài toán này một cách dễ dàng.
- Phương pháp đường chéo :
*Trộn lẫn hai chất khí, hai chất tan hoặc hai chất rắn không tác dụng với nhau
Ta có sơ đồ đường chéo:

B
A A
B B
A
M M
n V
n V
M M


= =

Trong đó:
- n
A
, n
B
là số mol của: Các chất A, B hoặc các đồng vị A, B của một nguyên tố
hóa học.
- V
A
, V
B
là thể tích của các chất khí A, B.
- M
A
, M
B
là khối lượng mol của: Các chất A, B hoặc số khối của các đồng vị A,
B của một nguyên tố hóa học.
18
A A B
B B A
n M M M
M
n M M M


-
M

là khối lượng mol trung bình của các chất A, B hoặc số khối trung bình của
các đồng vị A, B của một nguyên tố hóa học.
*Trộn lẫn hai dung dịch có cùng chất tan:
- Dung dịch 1: có khối lượng m
1
, thể tích V
1
, nồng độ C
1
(nồng độ phần trăm
hoặc nồng độ mol), khối lượng riêng d
1
.
- Dung dịch 2: có khối lượng m
2
, thể tích V
2
, nồng độ C
2
(C
2
> C
1
), khối lượng
riêng d
2
.
- Dung dịch thu được: có khối lượng m = m
1
+ m

2
, thể tích V = V
1
+ V
2
, nồng độ
C (C
1
< C < C
2
) và khối lượng riêng d.
Sơ đồ đường chéo và công thức tương ứng với mỗi trường hợp là:
+ Đối với nồng độ % về khối lượng:

2
1
2 1
C C
m
m C C

=

(1)
+ Đối với nồng độ mol/lít:

2
1
2 1
C C

V
V C C

=

(2)
+Đối với khối lượng riêng:

2
1
2 1
C C
V
V C C

=

(3)
* Khi sử dụng sơ đồ đường chéo, ta cần chú ý :
+ Chất rắn coi như dung dịch có C = 100%
+ Dung môi coi như dung dịch có C = 0%
- Phương pháp tự chọn lượng chất.
1.3. Sử dụng bài tập Hóa học trong giảng dạy ở trường phổ thông
1.3.1. Lựa chọn bài tập Việc lựa chọn bài tập cần từ các nguồn sau đây
- Các sách giáo khoa hóa học và sách bài tập hóa học phổ thông.
- Các sách bài tập hóa học có trên thị trường.
- Các bài tập trong giáo trình đại học dùng cho học sinh giỏi hoặc cải biến cho phù
hợp với phổ thông.
19
C

1
C
2
C
| C
2
- C |
| C
1
- C |
C
| C
2
- C |
| C
1
- C |
`
C
M1
C
M2
d
1
d
2
| d
2
- d |
| d

1
- d |
d
1.3.2. Sử dụng bài tập trong dạy học hóa học
Ở bất cứ công đoạn nào của quá trình dạy học đều có thể sử dụng bài tập.
Khi dạy học bài mới có thể dùng bài tập để vào bài, để tạo tình huống có vấn đề, để
chuyển tiếp từ phần này sang phần kia, để củng cố bài, để hướng dẫn học sinh học
bài ở nhà. Khi ôn tập, củng cố, luyện tập và kiểm tra - đánh giá thì nhất thiết phải
dùng bài tập. Ở Việt Nam khái niệm “bài tập” được dùng theo nghĩa rộng, bài tập
có thể là câu hỏi hay bài toán.
a) Sử dụng bài tập để củng cố, mở rộng, đào sâu kiến thức, và hình thành quy luật
của các quá trình hóa học.
Trong học tập hóa học, việc tìm ra quy luật tương tác giữa các chất là rất quan
trọng, nó giúp học sinh nhớ lâu kiến thức và vận dụng được vào những trường hợp
tương tự, tránh cách nhớ máy móc, học thuộc lòng. Vì vậy, nên sử dụng bài tập để
khái quát hóa kiến thức hình thành quy luật. Bài tập hóa học ngoài tác dụng đào
sâu, mở rộng, ôn tập, hệ thống hóa kiến thức, rèn tư duy và kỹ năng hóa học còn
giúp giáo viên kiểm tra để nắm được trình độ nắm vững kiến thức của học sinh, uốn
nắn những cái sai cho các em và điều chỉnh việc dạy của mình cho phù hợp với
trình độ học sinh. Để phục vụ cho việc giảng dạy từng bài, từng chương và cả
chương trình, giáo viên cần xây dựng các bài tập thành một hệ thống logic chặt chẽ,
bài trước gợi ý cho bài sau, bài sâu mở rộng và đào sâu thêm kiến thức ở bài trước.
Hết sức tránh ra bài tập một cách tùy tiện, tự do, không có suy tính trước
b) Sử dụng bài tập để rèn kĩ năng Muốn hình thành kĩ năng không thể giải một bài
tập mà phải giải một số bài tập cùng dạng. Nếu như các bài tập này hoàn toàn giống
nhau (chỉ khác số liệu) thì sẽ gây nhàm chán, nhất là đối với học sinh khá, giỏi. Do
vậy, cần phải bổ sung những chi tiết mới, vừa có tác dụng mở rộng, đào sâu kiến
thức và gây hứng thú cho học sinh, cần có những bộ” bài tập để rèn từng kiểu tư
duy và từng loại kỹ năng của hóa học. Kỹ năng thao tác và tư duy hóa học, đó là
những kỹ năng :

- Tiến hành một số thí nghiệm hóa học đơn giản (lắp ráp thí nghiệm, quan sát và
giải thích hiện tượng, dẫn ra các phản ứng hóa học để minh họa )
- Kỹ năng vận dụng kiến thức để lý giải, phân tích một số sự kiện cụ thể trong bản
thân môn học, một số hiện tượng hóa học trong đời sống thường ngày.
20
- Kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa kiến thức. Phân tích kĩ tác
dụng của từng bài tập, nhất là những bài tập hay, điển hình xem nó có tác dụng rèn
kỹ năng thao tác và tư duy hóa học nào rồi dùng phương pháp tương tự nhân ra một
số bài cùng dạng để rèn kỹ năng thao tác và tư duy hóa học đó. Cũng có thể dùng
các bài tập cùng dạng để khắc sâu cho học sinh một kiến thức nào đó.
c) Sử dụng bài tập để rèn tư duy logic
Để rèn tư duy logic cần sử dụng bài tập mà khi giải cần dựa vào tính logic của vấn
đề, sử dụng nhiều bài toán có nội dung biện luận để tăng cường tính suy luận cho
học sinh khi học tập hóa học. Nhiều bài toán có phần tính toán đơn giản nhưng có
nội dung biện luận hóa học phong phú, sâu sắc là phương tiện tốt để rèn luyện tư
duy hóa học cho học sinh.
Xây dựng nhiều bài tập thực nghiệm định lượng để khai thác sâu sắc mặt định
lượng của các quá trình hóa học.
Hiện nay có khá nhiều sách bài tập hóa học các loại, số lượng bài tập đã có khá lớn,
nội dung phong phú nhưng bài tập thực nghiệm định lượng còn ít và chưa được chú
ý sử dụng. Ta cần nghiên cứu xây dựng thêm những bài tập loại này. Chúng ta
thường dùng những phản ứng đặc trưng (định tính) để nhận biết hoặc phân biệt chất
này với chất khác, nhưng sự khác nhau về lượng giữa các chất tham gia và tạo thành
trong các phản ứng hóa học cũng có thể giúp ta nhận biết hoặc phân biệt chất này
với chất khác. Sự hiểu biết về mặt định lượng của các phản ứng hóa học cao hơn ở
mức định tính. Để giải các bài tập loại này học sinh phải biết vận dụng tốt mặt định
lượng do đó các em nắm kiến thức một cách sâu sắc hơn.
d) Sử dụng bài tập để rèn luyện năng lực phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh phát triển thì phát hiện sớm vấn đề và giải
quyết tốt vấn đề là một năng lực bảo đảm sự thành công trong cuộc sống. Vì vậy,

rèn cho học sinh năng lực phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề hiện nay cần được
đặt ra như một mục tiêu giáo dục, đào tạo. Bài tập hoá học có rất nhiều khả năng rèn
cho học sinh năng lực phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề. Dạng bài tập này ngoài
cách giải thông thường còn có cách giải thông minh, độc đáo dựa vào những điểm
đặc biệt của mỗi bài tập. Muốn xây dựng bài tập dạng này, ta cần giải rất nhiều các
21
dạng bài tập thông thường để tìm những tình huống độc đáo trên cơ sở đó tạo ra bài
tập mới.
e) Sử dụng sơ đồ trong việc giải bài tập
Có thể sử dụng sơ đồ ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình dạy học hóa học đặc biệt
ở giai đoạn ôn tập, củng cố, hoàn thiện, hệ thống hóa kiến thức, kỹ năng cũng như
khi kiểm tra đánh giá chất lượng học tập của học sinh.
Dùng sơ đồ khi giải bài tập giáo viên tiết kiệm được lời nói và thời gian vì nó là
hình thức trình bày ngắn gọn nhất, cô đọng nhất, nêu bật lên được những dấu hiệu
bản chất của các định nghĩa, các hiện tượng và khái niệm. Có thể dùng sơ đồ trong
các trường hợp sau đây :
- Sơ đồ hóa các định nghĩa, các quy tắc, nguyên tắc, khái niệm
- Giải bài tập phân loại các hợp chất, các hiện tượng, các khái niệm, điều chế, nhận
biết, tách hỗn hợp
- Tổng kết các tính chất hóa học của một nguyên tố. Nêu lên mối tương quan biến
hóa tương hỗ giữa các loại hợp chất của nguyên tố đó.
- Nêu mối liên quan giữa tính chất và ứng dụng hoặc điều chế của một chất hoặc
một hợp chất.
- Chu trình của một nguyên tố hoặc một hợp chất trong tự nhiên.
- Lập sơ đồ của các quá trình sản xuất hóa học.
Nếu chịu khó suy nghĩ tìm tòi để sơ đồ hóa lời giải của các bài tập thì lời giải sẽ
ngắn gọn, sáng sủa, dễ hiểu, dễ nhớ. Nhất là dùng sơ đồ để tóm tắt các dữ kiện của
đầu bài và vạch ra các bước giải của một bài toán thì việc giải bài toán đó sẽ thuận
lợi hơn nhiều. Kinh nghiệm cũng cho thấy nếu học sinh học bài bằng hình thức sơ
đồ, dùng sơ đồ để ôn tập, hệ thống hóa kiến thức thì việc nắm bắt kiến thức sẽ vững

chắc hơn, nhanh hơn, tránh được sự lộn xộn trong việc nhờ các kiến thức sự kiện.
1.4. Bài tập trắc nghiệm khách quan
1.4.1. Tổng quan về trắc nghiệm khách quan
1.4.1.1. Khái niệm
“Trắc” là “đo lường”, “nghiệm” là “đúng như sự thật”. Trắc nghiệm là đo
lường để biết sự thật. TNKQ là phương pháp kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của
học sinh bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm gọi là “khách quan” vì cách cho điểm
22

×