Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Xác định ảnh hưởng của các mức năng lượng, protein và khối lượng khi phối giống đến khả năng sinh sản của lợn móng cái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
VŨ PHẠM XUÂN ANH
XÁC ĐỊNH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MỨC
NĂNG LƯỢNG, PROTEIN VÀ KHỐI LƯỢNG
KHI PHỐI GIỐNG ĐẾN KHẢ NĂNG SINH SẢN
CỦA LỢN MÓNG CÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
VŨ PHẠM XUÂN ANH
XÁC ĐỊNH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MỨC
NĂNG LƯỢNG, PROTEIN VÀ KHỐI LƯỢNG
KHI PHỐI GIỐNG ĐẾN KHẢ NĂNG SINH SẢN
CỦA LỢN MÓNG CÁI
CHUYÊN NGÀNH: CHĂN NUÔI
MÃ SỐ: 60.62.01.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học : 1. PGS.TS. Trần Huê Viên
2. TS. Phạm Sỹ Tiệp
THÁI NGUYÊN - 2014
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn
này là hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả
Vũ Phạm Xuân Anh


ii
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn tốt nghiệp,
ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ quý
báu của nhà trường, các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo đã trực tiếp hướng dẫn
và chỉ bảo tận tình cho tôi trong suốt thời gian làm luận văn tốt nghiệp.
1. PGS.TS. Trần Huê Viên
2. TS. Phạm Sỹ Tiệp
Tôi xin chân thành cảm ơn HTX Giống chăn nuôi gia súc, gia cầm xã Tăng
Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình
triển khai các thí nghiệm nghiên cứu để tôi hoàn thành luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Ban Giám hiệu, phòng Sau đại học và các
thầy cô giáo khoa Chăn nuôi Thú y trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Một lần nữa tôi trân trọng gửi đến tất cả các thầy cô giáo, bạn bè đồng
nghiệp lòng biết ơn sâu sắc những tình cảm cao quý đó.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Thái Nguyên 11/2014
Tác giả
Vũ Phạm Xuân Anh
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC CÁC BẢNG vi
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Nguồn gốc và đặc điểm sinh học, sinh lý, sinh dục của lợn Móng Cái 4
1.1.1. Nguồn gốc lợn Móng Cái 4
1.1.2. Đặc điểm sinh học của lợn Móng Cái 4
1.1.3. Một số đề tài nghiên cứu về giống lợn Móng Cái 7
1.2. Cơ sở khoa học của đề tài 9
1.2.1. Tính trạng số lượng và sự di truyền của tính trạng số lượng 9
1.2.2. Sinh trưởng và các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của lợn 18
1.2.3. Sinh sản và các yếu tố ảnh hưởng đến sinh sản của lợn 22
1.2.4. Vai trò của năng lượng và protein ảnh hưởng đến sinh sản của lợn 28
1.3. Tình hình nghiên cứu ở trong nước và thế giới 36
1.3.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 36
1.3.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước 37
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 40
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 40
2.2. Nội dung nghiên cứu 40
2.2.1. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức năng lượng, protein khác nhau đến
sinh trưởng và sinh lý sinh sản của lợn Móng Cái hậu bị 40
2.2.2. Ảnh hưởng của khối lượng lợn khi phối giống lần đầu đến khả năng sinh
sản của lợn Móng Cái 40
iv
2.3. Phương pháp nghiên cứu 40
2.3.1. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức năng lượng, protein khác nhau đến
sinh trưởng và sinh lý sinh sản của lợn Móng Cái hậu bị. 40
2.3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của khối lượng khi phối giống lần đầu đến khả
năng sinh sản của lợn Móng Cái 42
2.3.3. Thành phần dinh dưỡng của các nguyên liệu thức ăn và khẩu phần thức
ăn thí nghiệm 44
2.3.4. Thành phần dinh dưỡng của các khẩu phần thức ăn thí nghiệm 45

2.4. Phương pháp xử lý số liệu 45
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 46
3.1. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức năng lượng và protein khác nhau
đến sinh trưởng và sinh sản của lợn Móng Cái hậu bị 46
3.1.1. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức năng lượng và protein đến sinh
trưởng của lợn Móng Cái hậu bị 46
3.1.2. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức dinh dưỡng khác nhau đến 1 số
đặc tính sinh lý sinh sản của lợn cái hậu bị Móng Cái 54
3.2. Ảnh hưởng của khối lượng lợn khi phối giống lần đầu đến khả năng sinh
sản của lợn Móng Cái 63
3.2.1. Ảnh hưởng của khối lượng phối giống lần đầu đến số con sơ sinh sống và
khối lượng sơ sinh/ổ 63
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 69
1. Kết luận 69
2. Đề nghị 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
PHỤ LỤC
v
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
MC Móng Cái
TĂ Thức ăn
KL Khối lượng
ME Năng lượng trao đổi
CP Protein thô
TTTĂ Tiêu tốn thức ăn
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TN Thí nghiệm
CS Cộng sự
TT Tăng trọng
VCK Vật chất khô

TAHH Thức ăn hỗn hợp
SP Sản phẩm
SSS Sơ sinh sống
Pss Khối lượng sơ sinh
SS Sơ sinh
Pr Protein
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm trên lợn cái hậu bị về mức năng lượng và
protein 41
Bảng 2.2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm trên lợn cái hậu bị về khối lượng phối giống
lần đầu 43
Bảng 2.3. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của một số loại nguyên liệu TĂ 44
Bảng 2.4. Khẩu phần ăn cho lợn thí nghiệm 45
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức năng lượng khác nhau đến
sinh trưởng của lợn cái MC hậu bị 46
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức năng lượng khác nhau đến
sinh trưởng của lợn cái MC hậu bị 47
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức năng lượng khác nhau đến
sinh trưởng của lợn cái MC hậu bị 48
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức protein khác nhau đến sinh
trưởng của lợn cái MC hậu bị 49
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức protein khác nhau đến sinh
trưởng của lợn cái MC hậu bị 50
Bảng 3.6. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức protein khác nhau đến sinh
trưởng của lợn cái MC hậu bị 51
Bảng 3.7. Tổng hợp kết quả về sinh trưởng của lợn hậu bị Móng Cái với các
mức năng lượng và protein khác nhau 52
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức năng lượng khác nhau đến
sinh lý sinh sản của lợn cái MC hậu bị 54

Bảng 3.9. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức năng lượng khác nhau đến
sinh lý sinh sản của lợn cái MC hậu bị 55
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức năng lượng khác nhau đến
sinh lý sinh sản của lợn cái MC hậu bị 56
Bảng 3.11. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức protein khác nhau đến sinh lý
sinh sản của lợn cái MC hậu bị 57
vii
Bảng 3.12. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức protein khác nhau đến sinh lý
sinh sản của lợn cái MC hậu bị 58
Bảng 3.13. Ảnh hưởng của các khẩu phần có mức protein khác nhau đến sinh lý
sinh sản của lợn cái MC hậu bị 59
Bảng 3.14. Kết quả tổng hợp khả năng sinh sản của lợn hậu bị Móng Cái 60
Bảng 3.15. Ảnh hưởng của khối lượng phối giống lần đầu đến năng suất sinh
sản của lợn cái hậu bị 63
Bảng 3.16. Ảnh hưởng của khối lượng phối giống lần đầu đến năng suất sinh
sản của lợn cái hậu bị 65
Bảng 3.17. Ảnh hưởng của khối lượng phối giống lần đầu đến giá thành 1 kg
lợn con cai sữa 67
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi lợn là một nghề truyền thống của nhân dân ta, trong những năm
gần đây, ngành chăn nuôi lợn nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Bên
cạnh những giống lợn ngoại có năng suất sinh sản cao trên thế giới như Yorkshire,
Landrace Chúng ta đã có những tổ hợp lợn lai như: ngoại lai ngoại, ngoại lai nội
và những giống lợn nội có năng suất cao thích nghi tốt với điều kiện sinh thái và tập
quán chăn nuôi truyền thống của nhân dân ta. Lợn Móng Cái là 1 giống lợn có từ
lâu đời được nuôi phổ biến ở Trung du Miền núi phía Bắc nước ta, có tính chịu
đựng kham khổ cao, dễ nuôi, mắn đẻ, đẻ nhiều con. Tuy vậy, năng suất chăn nuôi
lợn nái Móng Cái những năm vừa qua hiệu quả còn chưa cao, nguyên nhân là do

chúng được nuôi chủ yếu trong các hộ nông dân, người chăn nuôi chỉ dựa vào kinh
nghiệm với hình thức chăn nuôi tận dụng. Quá trình chọn lọc, nhân giống và chăm
sóc nuôi dưỡng lợn từ hậu bị đến sinh sản chưa đúng quy trình kỹ thuật.Đặc biệt chế
độ dinh dưỡng không hợp lý nên trong quá trình nuôi ảnh hưởng rất lớn đến khối
lượng khi phối giống lần đầu, làm chất lượng và khả năng sinh sản của lợn rất kém
và chất lượng đàn con của các thế hệ sau không đạt năng suất cao.
Lợn cái hậu bị thay thế đàn đóng một vai trò quan trọng trong chăn nuôi lợn nái.
Chính vì thế, việc đưa đàn lợn hậu bị vào đàn giống là nhằm đảm bảo năng suất sinh
sản đạt được tối đa. Để đạt được mục đích này lợn hậu bị phải đáp ứng đủ những chỉ
tiêu như độ tuổi, khối lượng cơ thể và sinh lý thành thục trước khi chọn giống cũng như
cân đối lượng thịt nạc và mỡ tích luỹ tối ưu tại thời điểm phối giống đầu tiên. Lợn cái
hậu bị mà quá gầy tại thời điểm chọn lọc đưa vào đàn giống có thể giới hạn về năng
suất sinh sản trong vòng đời của chúng (hoặc khả năng sinh sản thấp hoặc loại thải sớm)
do chúng không đáp ứng đủ lượng mỡ dự trữ trong cơ thể. Ngược lại, lợn cái hậu bị
quá béo lại hạn chế về khả năng thụ thai, làm cho số con sơ sinh/ổ thấp, khối lượng sơ
sinh/con và khối lượng sơ sinh/ổ của lợn nái bị ảnh hưởng. Lượng mỡ dự trữ ở lợn cái
hậu bị thường được biểu hiện bằng độ dày mỡ lưng. Vì vậy, một điều quan trọng để
đảm bảo lợn cái hậu bị đưa vào đàn giống có tuổi thọ kéo dài và năng suất sinh sản cao
thì chúng cần đáp ứng đủ lượng nạc và mỡ dự trữ. Điều này đặt ra một câu hỏi cho các
nhà nghiên cứu dinh dưỡng gia súc là làm thế nào để cung cấp đủ nhu cầu năng lượng
2
và protein cho lợn cái hậu bị nhằm cân đối và đáp ứng tối ưu lượng thịt nạc và mỡ dự
trữ trong cơ.
Thông thường tuổi thành thục về tính của gia súc sớm hơn tuổi thành thục về
thể vóc. Khi lợn cái mới thành thục về tính, tuy các cơ quan sinh dục đã phát triển
hoàn chỉnh và có khả năng giao phối nhưng thể vóc chưa phát triển đầy đủ, chưa dự
trữ đủ dinh dưỡng để mang thai do vậy không nên cho phối giống.
Nếu cho phối giống quá sớm lợn con đẻ ra không nhiều, con yếu ảnh hưởng
đến tầm vóc và sức khoẻ cũng như thời gian sử dụng của con giống sau này. Nhưng
nếu phối giống cho lợn nái quá muộn hoặc nuôi lợn quá béo, khối lượng cơ thể lớn

thì không những lãng phí thức ăn mà trong những kỳ động dục lợn ít ăn, không ăn
hoặc phá phách nên ảnh hưởng đến sinh trưởng.
Vì vậy, một điều quan trọng để đảm bảo lợn cái hậu bị đưa vào đàn giống có
tuổi thọ kéo dài và năng suất sinh sản cao thì cần xác định được chế độ dinh dưỡng
hợp lý để cho lợn hậu bị phát triển tốt và đạt được khả năng sinh sản ở đúng độ tuổi,
đồng thời phải xác định được khối lượng thích hợp khi phối giống lần đầu cho lợn
cái hậu bị để chúng đạt được độ thành thục về thể vóc.
Từ thực tế trên, với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế chăn
nuôi chúng tôi triển khai đề tài nghiên cứu.
((
Xác định ảnh hưởng của các mức
năng lượng, protein và khối lượng khi phối giống đến khả năng sinh sản của lợn
Móng Cái
))
.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định được ảnh hưởng của các mức năng lượng, protein cho lợn Móng
Cái giai đoạn hậu bị và khối lượng khi phối giống lần đầu đến khả năng sinh sản
của lợn Móng Cái.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Là một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về sự liên quan giữa chế độ
dinh dưỡng giai đoạn hậu bị đến khả năng sinh trưởng, sinh lý sinh dục và năng suất sinh
sản lần đầu của lợn Móng Cái thuần chủng trong điều kiện chăn nuôi nông hộ.
- Xác định được ảnh hưởng của khối lượng khi phối giống lần đầu đến khả
năng sinh sản của lợn Móng Cái, làm cơ sở cho công tác chọn giống và giúp cho
3
người chăn nuôi có chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng lợn Móng Cái hậu bị hợp lý đảm
bảo lợn nái có năng suất sinh sản cao.
- Xây dựng và đề xuất chế độ dinh dưỡng hợp lý và một số khẩu phần thức ăn dựa
trên nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương để nâng cao khả năng sinh sản của lợn Móng

Cái ở lứa tuổi phối giống lần đầu và làm cơ sở cho những lần tiếp theo.
- Kết quả của đề tài nghiên cứu là cơ sở khoa học phục vụ cho các nghiên
cứu tiếp theo, đồng thời góp phần thêm những tư liệu để tham khảo, nghiên cứu và
giảng dạy trong các nhà trường, cán bộ chăn nuôi cơ sở và người chăn nuôi.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nguồn gốc và đặc điểm sinh học, sinh lý, sinh dục của lợn Móng Cái
Các giống vật nuôi địa phương đã được hình thành từ lâu đời trong hoàn
cảnh các nền sản xuất kết hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi với các tập quán canh
tác khác nhau của các vùng sinh thái Nông nghiệp khác nhau. Đặc điểm chung của
các giống địa
phương
th
ư
ờng
là có
h
ư
ớng
sản xuất kiêm dụng. Vì vậy, tầm vóc nhỏ,
năng suất thấp. Tuy nhiên,
ưu
điểm lớn nhất của các giống địa
ph
ư
ơng
là phù hợp
với điều kiện sản xuất chăn nuôi, tận dụng điều kiện thiên nhiên cũng
như

sản
phẩm phụ của cây trồng, thích ứng với môi
tr
ư
ờng
khí hậu nóng ẩm, khả năng
chống chịu bệnh tật cao.
Từ năm 1975 lợn Móng Cái được lan nhanh ra các tỉnh miền Bắc và miền
Trung nước ta.
1.1.1. Nguồn gốc lợn Móng Cái
Lợn Móng Cái là giống lợn phổ biến nhất của Việt Nam, có nguồn gốc từ
huyện Hà Cối, nay thuộc huyện Đầm Hà và Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh hiện nay
được nuôi nhiều ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh Trung du,
miền núi phía Đông Bắc
nước
ta (Nguyễn Văn Đức, 2007) [14].
1.1.2. Đặc điểm sinh học của lợn Móng Cái
Lợn Móng Cái thuộc lớp động vật có vú Maminalia, bộ guốc chẵn Artiodactyla,
thuộc họ Sllidae, chủng Sus, thuộc loài Sus domesticus (Nguyễn Văn Đức 2007) [14].
Lợn Móng Cái có ngoại hình đặc
tr
ư
ng:
lông da có màu đen vá trắng.
Lưng
và mông có
dải đen hình yên ngựa (đây là đặc điểm ngoại hình nổi bật nhất), da mỏng mịn, lông
thưa
và thô. Đầu to, đen, có đốm trắng ở giữa trán hình tam giác hoặc hình thoi. Tai đen, nhỏ
và nhọn. Miệng nhỏ dài, trắng, có nếp nhăn to và ngắn ở miệng.

Giữa vai và cổ có một vành trắng cắt ngang kéo dài đến bụng và bốn chân.
Cổ to, ngắn. Ngực nở và sâu.
Lưng
dài hơi võng, bụng xệ
nh
ư
ng
tương đối gọn,
mông rộng và xuôi.
Bốn chân trắng,
tương
đối cao, thẳng, móng xoè.
Nhìn chung, lợn Móng Cái có khả năng sinh sản tốt (đẻ 11 - 16 con/lứa), có từ
12 - 16 vú, tuổi phối lần đầu tiên có hiệu quả nhất từ 6 - 8 tháng, số con sơ sinh
5
sống/ổ và số con cai sữa/ổ cao, trung bình từ 9 đến 11 con. Khối
lượng
sơ sinh
thấp: 0,5 - 0,6 kg và khối
lượng
cai sữa lúc 45 - 50 ngày, 5 - 6 kg/con. Số lứa đẻ
khá cao, trung bình từ 1,9 - 2,1 lứa/năm. Lợn Móng Cái có khả năng sinh sản kéo
dài, cho 10 - 15 lứa/nái. Khả năng tăng khối
lượng
327g/ngày, lợn thịt có tốc độ
tăng trọng 390 - 420g/ngày. Khả năng tiêu tốn thức ăn 5,0 - 5,5 kg thức ăn/kg tăng
trọng, tỉ lệ thịt nạc thấp 35 - 39%, độ dày mỡ
lưng
cao.
Hiện nay, lợn Móng Cái chủ yếu

được
sử dụng làm nái nền lai với lợn đực ngoại
sản xuất lợn lai F1 nuôi thịt hoặc dùng làm nái trong các công thức lai phức tạp.
+ Tuổi thành thục về tính
Tuổi thành thục về tính là tuổi con vật bắt đầu có phản xạ sinh dục và khả
năng sinh sản. Ở gia súc, tuổi thành thục về tính có các biểu hiện như sau: Bộ máy
sinh dục đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, con cái rụng trứng, con đực sinh tinh.
Tinh trùng và trứng gặp nhau có khả năng thụ tinh. Các đặc tính sinh dục thứ cấp
bắt đầu các phản xạ sinh dục. Con cái động dục, con đực có phản xạ giao phối.
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả, lợn nái trong điều kiện nuôi
dưỡng tốt, thì sẽ thành thục về tính ở độ tuổi trung bình là 188,5 ngày, với trọng
lượng 80 kg. Nhưng nếu chúng ta cho lợn ăn hạn chế thì sẽ là 234,8 ngày, với trọng
lượng 48,4 kg. Dinh dưỡng tốt thì sẽ rút ngắn được thời gian thành thục về tính
từ 4 - 16 ngày so với mức chỉ đáp ứng được 60 - 70% nhu cầu dinh dưỡng.
Mùa vụ: lợn con đẻ vào mùa đông thì thành thục sớm hơn về mùa hè
Nói cách khác, thành thục về tính của gia súc cái được đánh giá bằng hiện tượng
động dục và rụng trứng. Lợn cái sau khi thành thục về tính thì biểu hiện động dục, lần
thứ nhất thường không rõ ràng và tiếp sau đó ở các kỳ sau sẽ dần đi vào quy luật.
Tùy thuộc vào loại gia súc khác nhau mà thời gian thành thục về tính khác
nhau. Tuổi thành thục về tính của lợn cái khoảng 6 tháng, giao động từ 5 - 8 tháng
tuổi. Lợn cái nội thành thục sớm hơn lợn cái ngoại.
Mặt khác, tuổi thành thục về tính sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc, cho
nên để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển bình thường của cơ thể mẹ, đảm bảo sự
sinh trưởng và phẩm chất giống ở thế hệ sau, thì ta nên cho gia súc phối giống khi
chúng đã thành thục về thể vóc. Với lợn cái hậu bị thường cho phối giống lần đầu
lúc 8 tháng tuổi. Tuy nhiên, không cho lợn phối quá muộn vì sẽ ảnh hưởng tới hoạt
6
động sinh sản của con cái và ảnh hưởng tới năng suất sinh sản của một đời lợn nái.
Tuổi phối giống lần đầu của lợn nái ngoại thường vào lúc 8 tháng tuổi và khối
lượng đạt 100 – 110 kg. Trong thực tế sản xuất thường bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động

dục đầu và bắt đầu phối ở chu kỳ động dục thứ 3.
+ Chu kỳ động dục
Khi gia súc thành thục về tính thì cơ thể con cái phát triển mạnh đặc biệt là
cơ quan sinh dục có biến đổi kèm theo sự rụng trứng. Sự phát triển của trứng dưới
sự điều tiết của hooc môn tùy theo tuyến yên làm cho trứng chín và rụng một cách
có chu kỳ. Nó biểu hiện bằng những triệu trứng động dục theo chu kỳ, được gọi là
chu kỳ động dục. Thời gian một chu kỳ động dục được tính từ lần rụng trứng trước
tới lần rụng trứng sau.
Chu kỳ động dục của lợn thường kéo dài từ 20 - 33 ngày nhưng có thể giao
động trong phạm vi 18 - 25 ngày, trung bình là 21 ngày và được chia làm 4 giai
đoạn sau:
Giai đoạn trước động dục (1 - 2 ngày): quan sát thấy lợn nái có hiện tượng
xưng huyết ở âm hộ và âm hộ bắt đầu sưng lên, hơi mở ra và có màu hồng tươi, có
tiết chất nhờn loãng chảy ra. Lợn biếng ăn thích nhảy lên lưng con khác nhưng
không thích con khác nhảy lên lưng mình.
Giai đoạn động dục hay chịu đực (2 - 3 ngày): giai đoạn này gồm 3 thời kỳ:
hưng phấn, chịu đực, không chịu đực.
Ở giai đoạn này lợn nái có hoạt động sinh dục mãnh liệt, âm hộ mở to hơn,
chuyển sang màu mận chín, dịch nhờn keo đặc, lợn rất biếng ăn, nếu gặp lợn đực
nhảy lên lưng thì sẽ đứng yên (đây là hiện tượng chịu đực hay mê đực). Ở giai đoạn
này nếu trứng gặp tinh trùng và được thụ tinh thì sẽ chuyển sang giai đoạn chửa,
ngược lại nếu trứng không được thụ tinh sẽ chuyển sang giai đoạn sau động dục.
Giai đoạn sau động dục (3 - 4 ngày): giai đoạn này có dấu hiệu sinh dục giảm
dần. Lợn giảm hưng phấn thần kinh, sự tăng sinh và tiết dịch của tử cung ngưng lại,
âm hộ teo dần và tái nhợt. Lợn cái không muốn gần con đực, không cho con khác
nhảy lên lưng nó. Con vật dần trở lại trạng thái bình thường, ăn uống bình thường.
Giai đoạn nghỉ ngơi hay giai đoạn yên lặng sinh dục (12 - 14 ngày): đây là
giai đoạn dài nhất thường bắt đầu từ ngày thứ tư sau khi trứng rụng mà không thụ
7
tinh và kết thúc khi thể vàng tiêu hủy. Ở giai đoạn này hoàn toàn không có phản xạ

sinh dục. Âm hộ teo nhỏ, màu trắng nhạt, lợn ăn uống bình thường. Đây là giai đoạn
nghỉ ngơi để khôi phục lại cấu tạo chức năng cũng như khôi phục lại năng lượng
cho chu kỳ tiếp theo.
Chu kỳ động dục, thời gian động dục cũng như các biểu hiện về hành vi sinh
dục ở lợn cái thay đổi tùy theo giống, lứa tuổi, mùa vụ, điều kiện nuôi dưỡng, chăm
sóc Hơn nữa, lợn nái hậu bị thường có chu kỳ động dục dài hơn lợn nái cơ bản
hoặc nếu chăm sóc nuôi dưỡng kém thì chu kỳ động sẽ kéo dài.
1.1.3. Một số đề tài nghiên cứu về giống lợn Móng Cái
Giống lợn Móng Cái có tính di truyền tương đối ổn định, sự biến dị không lớn
lắm, nhất là màu lông rất thống nhất. Tất cả đầu lợn đen, giữa trán có một diểm trắng,
tất cả đều có cổ khoang chia lợn ra 2 phần. Có 2 loại hình: Loại Móng Cái xương to và
loại Móng Cái xương nhỏ. Loại xương có tầm vóc nhỏ, đầu nhỏ, mõm hơi dài và thẳng,
chân nhỏ đi bàn, lưng hơi võng. Loại hình xương to thì ngược lại, đầu to, mõm dài vừa
phải và bè, trán có nếp nhăn, tai to ngang, chân to, tầm vóc trung bình, có 12 vú trở lên,
thể chất yếu (Nguyễn Khánh Quắc và cộng sự năm 1995) [22].
Theo Vũ Kính Trực (1995) [28]: Lợn Móng Cái nuôi ở Tràng Bạch qua 95
lứa đẻ từ năm 1987 – 1991 cho thấy: Trung bình số con sơ sinh đẻ ra còn sống là
11,64 con, lúc 30 tuổi là 8,65 con, lúc 60 ngày tuổi là 8,51 con. Những số liệu trên
cho thấy rõ tính đẻ sai con của lợn Móng Cái (chắc chắn nhờ cùng 1 cơ chế di
truyền có được từ giống lợn Trung Quốc). Sở dĩ số lượng con 1 tháng tuổi và 2
tháng tuổi thấp là do chăm sóc nuôi dưỡng kém. Như vậy, lợn Móng Cái Việt Nam
phải có giá trị như một nguồn dự trữ gen, về tính sinh sản cao bằng nhân thuần
chủng một cách có hệ thống, có thể pha thêm máu những lợn giống Thái Hồ của
Trung Quốc nhất là giống Mai Sơn để kế thừa và phát triển tính cao sản của nó. Tác
giả cho biết có một lợn Móng Cái ở Quảng Uyên, Quảng Ninh, trong 5 năm lứa nào
cũng đẻ trên dưới 20 con, kỷ lục là 27 con. Một lợn Móng Cái khác cũng ở Quảng
Ninh qua 3 năm nuôi đẻ 2 lứa/năm và mỗi lứa 17 – 18 con, kỷ lục là 24 con. So với
lợn Thái Hồ của Trung Quốc kỷ lục 32 con/lứa thì lợn Móng Cái của ta cũng chẳng
kém lợn Thái Hồ là mấy.
8

Giống lợn Móng Cái là một giống lợn phổ biến và rất quan trọng ở miền Bắc
Việt Nam với những đặc tính ưu việt như: động dục sớm, đẻ nhiều con, chống chịu
tốt và dễ nuôi.
Giống lợn Móng Cái có ngoại hình đồng nhất, thành thục sớm, đẻ nhiều con,
nuôi con khéo. Có nhiều mặt cải tiến hơn lợn Ỉ, có tầm vóc to hơn và dài mình hơn.
Có khả năng đẻ 10 con/ổ, khả năng tiết sữa đạt và vượt chỉ tiêu 30 kg, khả năng tiêu
hóa và sử dụng thức ăn thô xanh tốt. Lợn Móng Cái có nhược điểm như tầm vóc
còn nhỏ, thể chất yếu, lưng võng, bụng sệ, chân đi bản, tăng trọng chậm, mình ngắn,
ngực mỏng. Do vậy, phương hướng là tăng cường công tác chọn lọc và nhân thuần
để nâng cao tầm vóc, cải tạo các nhược điểm của lợn mẹ, cho lai tạo với các giống
lợn ngoại để nâng cao tầm vóc.
Trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu nâng cao năng
suất, cải tạo đàn lợn Móng Cái đã đạt được những kết quả tốt. Thực tế cho thấy,
trong những năm qua, tại các vùng sản xuất giống lợn Móng Cái hậu bị ở miền Bắc
nói chung, ở Hải Dương, Quảng Ninh, Bắc Giang và Sơn La nói riêng, năng suất
sinh sản còn thấp hơn so với tiềm năng và kết quả nghiên cứu đã công bố: số con
cai sữa/ổ đạt bình quân 8,9 - 9,3 con, tỷ lệ ỉa chảy và tỷ lệ chết còn cao (14,7%);
khối lượng cai sữa 35 ngày/ổ đạt 35,1 - 37,3kg. Nguyên nhân chủ yếu do các quy
trình kỹ thuật đồng bộ từ chọn giống, chăm sóc, nuôi dưỡng đến thú y phòng bệnh
cho đàn lợn giống của chúng ta chưa được hoàn thiện và chưa phù hợp với điều
kiện sinh thái, nguồn thức ăn sẵn có của các địa phương.
Để phát triển mở rộng chăn nuôi có hiệu quả giống lợn Móng Cái nói trên,
phát huy lợi thế so sánh của nguồn gen quý này trong bối cảnh hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng của nước ta hiện nay, đòi hỏi phải có các giải pháp công nghệ
đồng bộ về giống, an toàn sinh học, thú y phòng bệnh, dinh dưỡng, chăm sóc nuôi
dưỡng, mô hình chăn nuôi Đặc biệt là xác định chế độ dinh dưỡng hợp lý và khối
lượng phối giống lần đầu cho lợn hậu bị là khâu rất quan trọng quyết định cho năng
suất sinh sản của lợn nái Móng Cái ở lứa thứ nhất và những lứa tiếp theo.
9
1.2. Cơ sở khoa học của đề tài

1.2.1. Tính trạng số lượng và sự di truyền của tính trạng số lượng
1.2.1.1. Yếu tố di truyền
a/ Khái quát về tính trạng số lượng và các yếu tố ảnh hưởng đến sự di truyền của
tính trạng số lượng.
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả, tính trạng số lượng là tính trạng
được quy định bởi nhiều cặp gen mà mỗi cặp gen chỉ có hiệu ứng nhỏ (minorgene).
Tính trạng số lượng bị tác động rất lớn bởi môi trường và sự sai khác về mức độ
hơn là sự sai khác về chủng loại, đó là các tính trạng đa gen (polygene). Hầu hết,
những tính trạng năng suất của gia súc đều là những tính trạng số lượng mà các tính
trạng số lượng thường có hệ số di truyền thấp và chịu nhiều tác động của ngoại cảnh.
* Các nhân tố ảnh hưởng tới tính trạng số lượng
Giá trị kiểu hình (P) của bất kì một tính trạng số lượng nào cũng có thể phân
chia thành: giá trị kiểu gen (G) và sai lệch môi trường (E). Giá trị kiểu gen có thể
phân chia thành giá trị cộng gộp của các gen (A), giá trị trội của các gen (D) và giá
trị át gen (EG) và sai lệch môi trường riêng (ES). Giá trị kiểu hình (P) được biểu thị
như sau:
P = G + E
P = A + D + I + EG + ES
* Giá trị kiểu gen
Giá trị kiểu gen (E) của tính trạng số lượng do nhiều cặp gen quy định.
Phương thức di truyền của các cặp gen này tuân theo các quy luật cơ bản của di
truyền: phân ly, tái tổ hợp, liên kết. Tác dụng của các gen khác nhau trên cùng một
tính trạng có thể là cộng gộp (A) nhưng cũng có thể là không cộng gộp. Giá trị cộng
gộp hay còn gọi là giá trị giống.
Tác động của các gen gọi là cộng gộp khi giá trị kiểu hình của kiểu gen dị
hợp luôn luôn là trung gian so với kiểu hình của hai kiểu gen đồng hợp. Giá trị cộng
gộp (giá trị giống) là cố định và có thể di truyền được. Bố mẹ luôn truyền các giá trị
cộng gộp của mỗi tính trạng của chúng cho đời con. Tiềm năng di truyền do tác
động cộng gộp của gen bố và gen mẹ tạo nên gọi là giá trị di truyền của con vật hay
giá trị giống. Giá trị giống được dùng và chọn lọc có khả năng di truyền cho đời sau.

10
Giá trị không cộng gộp bao gồm: sai lệch trội (D) và sai lệch át gen hoặc
tương tác (I).
Sai lệch trội là sai lệch được sản sinh do sự tác động qua lại giữa các cặp
alen ở trong cùng một locut (đặc biệt là các cặp alen dị hợp tử). Sai lệch trội cũng là
một phần thuộc tính của quần thể. Sai lệch trội có thể là: trội hoàn toàn (AA = Aa >
aa), siêu trội (Aa > AA > aa), trội không hoàn toàn (AA > Aa > aa). Quan hệ trội
của bố mẹ không di truyền được sang con cái.
Sai lệch át gen hoặc sai lệch tương tác là sai lệch được sản sinh ra do sự tác
động qua lại giữa các gen không cùng một alen, thuộc các locut khác nhau. Từ đó,
giá trị kiểu gen biểu thị chi tiết bằng công thức sau:
G = A + D +I
* Sai lệch môi trường
Sai lệch môi trường thể hiện thông qua hai thành phần: sai lệch môi trường
chung và sai lệch môi trường đặc biệt.
Sai lệch môi trường chung (E
G
) là sai lệch giữa cá thể do hoàn cảnh thường
xuyên và không cục bộ gây ra.
Sai lệch môi trường đặc biệt (E
S
) là sai lệch trong cá thể do hoàn cảnh tạm
thời và cục bộ gây ra.
Như vậy, khi một kiểu hình của một cá thể được cấu tạo từ hai locut trở lên
thì giá trị kiểu hình của nó được biểu thị một cách chi tiết như sau:
P = A + D + I + E
G
+ E
S
Qua việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới tính trạng số lượng chúng ta

có thể thấy muốn nâng cao năng suất vật nuôi cần phải:
- Tác động về mặt di truyền (G) bao gồm:
 Tác động vào hiệu ứng cộng gộp (A) bằng cách chọn lọc.
 Tác động vào hiệu ứng trội (D) và át gen (I) bằng cách phối giông
hoặc tạp giao.
- Tác động về mặt môi trường (E) bằng cách cải tiến điều kiện chăn nuôi:
thức ăn, nước uống, thú y, chuồng trại, quy trình chăn nuôi, chế độ quản lý vv
11
b/ Ảnh hưởng của giống tới năng suất sinh sản của lợn:
Giống lợn là yếu tố quyết định tới sức sản xuất của lợn nái.
Giống và đặc tính sản xuất của nó gắn liền với năng suất.
Giống khác nhau, cho năng suất khác nhau.
Ví dụ:
Lợn Móng Cái đẻ 12 - 14 con/lứa.
Lợn Ỉ đẻ 8 - 10 con/ lứa
Lợn Yorkshire đẻ 10 - 13 con/lứa.
* Phương pháp nhân giống:
Phương pháp nhân giống khác nhau sẽ cho năng suất khác nhau
Cho nhân giống thuần chủng thì năng suất của chúng cũng chính là năng
suất của giống đó.
Ví dụ: ♂ Móng Cái ♀ Móng Cái
♂ Yorkshire ♀ Yorkshire
Cho lai giống thì năng suất sẽ cao hơn hai giống gốc. Các giống đem lại
càng thuần thì khi lai giống cho ưu thế lai càng cao.
Như vậy nhân giống thuần hay lai giống tạp giao sẽ cho kết quả sản xuất
khác nhau.
c/ Tuổi và khối lượngcủa lợn nái khi phối giống lần đầu
Để tiến hành phối giống lứa đầu, lợn nái hậu bị phải thành thục cả về sinh dục và
thể vóc. Thành thục sinh dục là lợn cái hậu bị phải có biểu hiện về động dục và rụng trứng.
Tuổi trưởng thành về sinh dục phụ thuộc vào đặc điểm của giống và điều kiện nuôi dưỡng,

chăm sóc quản lý cơ sở chăn nuôi. Lợn nái nội như giống lợn Ỉ, Móng Cái có tuổi thành
thục sinh dục (động dục lần đầu) vào 4 - 5 tháng tuổi 121 - 158 ngày tuổi. Lợn ngoại như
Yorkshire, Landrace có tuổi thành thục sinh dục từ 7 - 8 tháng tuổi.
Lợn cái hậu bị nếu nuôi nhốt liên tục sẽ có tuổi động dục lần đầu dài hơn
lợn nuôi chăn thả. Vì lợn nuôi có thời gian chăn thả sẽ tăng cường trao đổi chất,
tổng hợp được sinh tố và có dịp tiếp xúc với lợn đực, nên có tuổi động dục lần
đầu sớm hơn.
Đối với lợn ngoại được 5 - 6 tháng tuổi nên cho tiếp xúc với lợn đực mỗi
ngày khoảng 15 phút để thúc đẩy sự dậy thì, lợn cái hậu bị sẽ động dục sớm.
12
Khi cho tiếp xúc với lợn đực chỉ nên cho tiếp xúc với lợn đực còn non
(khoảng 1 năm tuổi) ở lứa tuổi này, lợn đực cũng có kinh nghiệm gây kích thích cho
lợn cái, đồng thời về tuổi tác và về thể vóc, tính cách cũng không chênh lệch quá
làm cho lợn cái hậu bị rụt rè sợ sệt, tác dụng ức chế hơn là kích thích.
Lợn cái hậu bị động dục lần đầu không nên cho phối ngay mà cho phối giống
vào lần động dục thứ hai hoặc thứ ba, vì cho phối ở lần động dục đầu tiên sẽ cho tỷ
lệ thụ thai thấp và nếu có thụ thai thì số lợn con/lứa cũng sẽ thấp.
Ngoài ra tình hình thăng trầm về thức ăn, triển vọng của việc tiêu thụ lợn con
có thể làm cho việc phối giống chậm lại một hoặc hai kỳ động dục.
Ví dụ:
Người nuôi lợn thịt, nhằm vào thời điểm bán lợn thịt tết, nên có thể nuôi
chậm lại 1 - 1,5 tháng v.v. . .Người nuôi lợn nái cần bán lợn con để phục vụ nuôi
lợn thịt vào dịp tết có thể cho phối giống chậm lại.
Sự thành thục về thể vóc là sự sinh trưởng phát triển đầy đủ của các cơ quan
bộ phận của cơ thể.
Khi lợn hậu bị đã thành thục về thể vóc thì mới cho phối giống. Tuy nhiên,
lợn cái hậu bị quá béo làm hạn chế rụng trứng, do đó làm giảm số lượng con/lứa.
Vì vậy, lợn cái hậu bị giống ngoại, nuôi đến 6 - 7 tháng tuổi phải cho ăn hạn
chế để đến khi phối giống: khoảng 7,5 đến 8 tháng tuổi lợn đạt từ 100 - 110kg là vừa.
d/ Thứ tự các lứa đẻ

Khả năng sản xuất của lợn nái bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các lứa đẻ khác
nhau. Lợn cái hậu bị ở lứa đẻ thứ nhất cho số lượng con/ổ thấp. Sau đó từ lứa thứ
hai trở đi, số lợn con/ổ sẽ tăng dần cho đến lứa đẻ thứ 6, thứ 7 thì bắt đầu giảm dần.
Trong sản xuất, người ta thường giữ vững số lượng con/ổ các lứa từ 6 trở đi bằng kỹ
thuật chăn nuôi, quản lý, chăm sóc sao cho đàn lợn mẹ không tăng cân quá mà cũng
không gầy sút quá.
Giữ vững năng suất bằng cách kéo dài thành tích sinh sản của các lứa đẻ từ
lứa thứ 6 cho đến lứa 10 sẽ có lợi nhiều là loại thải chúng đi để thay thế bằng đàn
nái hậu bị. Nếu tăng số lợn nái hậu bị đẻ lứa thứ nhất, vào đàn nái sinh sản sẽ làm
tăng giá thành 1kg lợn con cai sữa, làm giảm lợi nhuận của cơ sở chăn nuôi.
13
e/ Kỹ thuật phối giống
Kỹ thuật phối giống có ảnh hưởng tới số lượng con/lứa. Chọn thời điểm phối
giống thích hợp sẽ làm tăng tỷ lệ thụ thai và số con/lứa. Nên chú ý rằng, nếu lợn nái
động dục kéo dài 48h, thì trứng sẽ tác dụng vào 8 - 12h trước khi kết thúc chịu đực,
tức là 38 - 40h sau khi bắt đầu chịu đực.
Cho phối giống quá sớm, hoặc quá muộn thì tỷ lệ thụ thai và số con sinh ra/ổ
sẽ giảm sút nhanh chóng.
Đối với đàn lợn hạt nhân thì chỉ nên cho giao phối theo lối ghép đôi. Một lợn
nái chỉ cho giao phối một lợn đực. Nhưng để đảm bảo tỷ lệ thụ thai cao và số lượng
con/ổ cao thì nên phối lặp. Đối với đàn lợn lai, sinh con thương phẩm thì có thể
phối kép, tức là phối hai lần với hai đực giống khác nhau.
Khoảng cách thời gian giữa hai lần phối lặp và phối kép: từ 12 đến 14 giờ
cho lợn nái cơ bản. Đối với lợn cái hậu bị thời gian này khoảng 10 - 12h. Trong các
kỹ thuật phối, ngoài các thao tác nghề nghiệp ra, điều cốt yếu là phải xác định thời
điểm phối giống thích hợp. Thời điểm phối giống thích hợp có sự khác nhau giữa
lợn nội và lợn ngoại, giữa nái cơ bản và nái hậu bị.
1.2.1.2. Yếu tố tác động do ngoại cảnh
Ngoài yếu tố di truyền, yếu tố ngoại cảnh cũng gây ảnh hưởng lớn đến các
tính trạng sinh sản.

Ảnh hưởng của năm đẻ: Năm đẻ ảnh hưởng rõ rệt đến các tính trạng năng
suất sinh sản. Năm đẻ ảnh hưởng rõ rệt nhất đến các tính trạng như số con sơ sinh
sống/ổ, khối lượng sơ sinh/con, số con cai sữa/ổ, khối lượng cai sữa/ổ.
Ảnh hưởng của lứa đẻ: Yếu tố lứa đẻ có ảnh hưởng rất lớn đến tính trạng số
con/ổ. Nhiều nghiên cứu đã đưa ra kết luận số con/lứa tăng dần từ lứa đẻ thứ nhất
đến lứa đẻ thứ 4 – 5 sau đó giảm dần đến lứa thứ 8 – 9. Một số nghiên cứu cho rằng
khi tuổi thụ thai lần đầu tăng thì số con ở lứa đầu tiên cũng tăng. Lợn nái đẻ lứa thứ
nhất có số con/lứa ít hơn nái đẻ từ lứa thứ hai trở đi, điều này có thể do tỷ lệ rụng
trứng tăng từ lứa thứ hai.
Ảnh hưởng của mùa vụ: Ở Việt Nam do điều kiện thời tiết thay đổi theo mùa
nên ảnh hưởng đến khối lượng của lợn con.
14
Ví dụ: Lợn con đẻ vào mùa đông có khối lượng sơ sinh và cai sữa cao hơn
các mùa khác trong năm.
Ảnh hưởng của đực phối: Vị trí ô chuồng nuôi lợn đực, thời điểm phối giống
và phương thức phối giống thích hợp là nguyên nhân làm tăng sinh sản của lợn nái.
Nếu vị trí ô chuồng lợn đực được bố trí xen kẽ với các ô lợn cái hậu bị thì sẽ kích
thích tuổi thành thục về tính sớm hơn và làm tăng tỷ lệ thụ thai. Tuy nhiên việc lạm
dụng lợn đực cũng làm giảm khả năng sinh sản của lợn nái. Vì vậy, vị trí ô chuồng
lợn đực và thời gian nghỉ ngơi một cách hợp lý là biện pháp để nâng cao số con sơ
sinh sống/ổ.
Bên cạnh một số nhân tố cố định đó, năng suất sinh sản của lợn còn chịu
những yếu tố khác như: dinh dưỡng, chuồng trại, bệnh tật và ngoại cảnh xã hội…
Ảnh hưởng của nhân tố dinh dưỡng: Thức ăn là nguồn cung cấp dinh dưỡng,
năng lượng cho tất cả các hoạt động sống của cơ thể, nó đóng vai trò quan trọng
trong việc nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Lợn nái sau khi cai sữa có
thể động dục bình thường hay động dục chậm đều phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng
trong thời kỳ nuôi con. Nhiều nghiên cứu đã kết luận rằng với khẩu phần ăn hạn chế
trong thời kỳ mang thai và ăn tự do trong thời kỳ nuôi con thì lợn nái sẽ cho năng
suất tốt hơn. Cần chú ý dinh dưỡng đối với lợn nái ở 3 tuần đầu và 3 tuần cuối, vì 3

tuần cuối khối lượng thai tăng lên rất nhanh nên cần nhiều dinh dưỡng. Tuy nhiên
nếu tăng hàm lượng năng lượng và protein trong khẩu phần ăn của lợn nái sẽ làm
cho lợn nái nhanh béo, ảnh hưởng xấu đến năng suất sinh sản.
Ảnh hưởng của nhân tố chuồng trại và ngoại cảnh xã hội: Phương thức chăn
nuôi không phù hợp, điều kiện chăn nuôi không đảm bảo, chuồng trại không sạch sẽ,
quy mô đàn quá lớn, trình độ chuyên môn không được nâng cao, phương thức chăn
nuôi yếu kém, tất cả đều ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái.
Ảnh hưởng của yếu tố bệnh tật: Khi bị bệnh sẽ làm giảm khả năng sinh sản
của lợn nái, mất khả năng thụ thai, số con sơ sinh sống/ổ tỷ lệ thấp, số con sơ sinh
chết tăng cao. Ở vùng có độ ẩm cao là điều kiện thuận lợi cho vi sinh vật gây bệnh
phát triển, nếu hệ thống chuồng trại không đảm bảo, công tác phòng bệnh và kiểm
tra chưa tốt thì dịch bệnh sẽ lây lan và làm mất khả năng sinh sản của lợn nái. Điều
này ảnh hưởng rõ rệt nhất với quy mô lớn, trong chăn nuôi công nghiệp.
15
a/ Yếu tố tác động do thời tiết, khí hậu
Yếu tố ngoại cảnh có 2 loại:
Yếu tố tác động do tự nhiên thời tiết, khí hậu và yếu tố tác động do con
người: Chăm sóc, thụ tinh nhân tạo, cai sữa sớm, bổ sung các thức ăn cho lợn con…
Yếu tố tác động do tự nhiên khí hậu: Yếu tố thời tiết tác động rất lớn đến khả
năng sản xuất của lợn.
Nếu thời tiết bất lợi, quá nóng hoặc quá lạnh, độ ẩm không khí cao sẽ làm
ảnh hưởng đến sức khỏe (bệnh tật) của nái, do vậy tỉ lệ thụ thai không được tốt làm
ảnh hưởng đến số con/lứa, hoặc thai phát triển không tốt, lợn con sinh trưởng kém.
Đặc biệt với những giống lợn ngoại, yếu tố ngoại cảnh tác động có ảnh
hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng và phát triển của lợn.
b/ Thức ăn
Thức ăn là yếu tố quyết định đến sự phát triển của lợn. Đặc biệt, đối với lợn
nái sinh sản, thức ăn còn quyết định đến năng suất sinh sản của lợn nái như: số con
đẻ ra còn sống, khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa/ổ. Lợn nái quá béo thì làm
giảm số trứng rụng, tỷ lệ thụ thai giảm, lượng sữa tiết ra ít. Nhưng nếu lợn quá gầy

thì cũng ảnh hưởng đến số trứng rụng, khả năng nuôi thai và nuôi con kém.
Do vậy phải cho nái ăn, uống hợp lý trong từng thời kỳ.
* Lợn nái hậu bị
Kỹ thuật nuôi dưỡng lợn cái hậu bị rất quan trọng để đưa lợn cái vào phối
giống sớm đạt tỷ lệ thụ thai cao, số con/lứa nhiều.
Giai đoạn từ sau cai sữa cho đến 5 tháng tuổi cho ăn tự do để lợn phát triển hết
mức. Từ tháng thứ 6 (đối với lợn ngoại và lợn lai) phải cho tiếp xúc lợn đực vài ngày 1
lần để kích thích cho lợn cái động dục sớm. Trước khi cho phối giống lứa đầu 1 tháng,
cần phải cho lợn hậu bị ăn hạn chế để lợn không béo, ảnh hưởng đến sinh sản.
Lợn hậu bị ngoại khi phối giống 7,5 - 8 tháng tuổi đạt trọng lượng 100 – 110
kg là vừa, lợn nội khoảng 60 kg và lợn lai khoảng 80 – 90 kg. Cho ăn hỗn hợp thức
ăn có chứa 18% protein thô và 3000 Kcal ME/1kg thức ăn.
Từ 60 – 70 kg, protein 15 - 16%, 2900 – 3000 Kcal ME/1kg thức ăn trở lên
cho đến khi phối giống lứa đầu, cho loại thức ăn hỗn hợp có chứa 14% protein thô
16
và năng lượng trao đổi là 2900 Kcal ME/1kg thức ăn hỗn hợp (Nguyễn Thiện, Võ
Trọng Hốt; 1996) [25].
* Lợn chờ phối
Lợn cái chờ phối là lợn sau khi cai sữa lợn con. Nếu lợn mẹ hao hụt nhiều
cân để phục hồi sức khỏe thì cho ăn theo tiêu chuẩn lợn hậu bị, trước khi phối nên
cho ăn thức ăn xanh: các loại rau xanh, cho lợn ăn tự do để lợn phục hồi sức khỏe
nhanh và sớm động dục trở lại.
* Lợn nái chửa
Lợn nái chửa trung bình là 114 ngày.
Quá trình phát triển của bào thai được chia ra như sau:
+ Thời kỳ phôi thai: Từ 1 - 22 ngày. Đây là thời kỳ phát dục mạnh.
Khi lợn động dục sẽ có trứng rụng,quá trình giao phối tinh trùng đi vào được thụ
tinh ở 1/3 phía trên ống dẫn trứng. Sau khi thụ thai 1 - 3 ngày, hợp tử sẽ chuyển vào bám
ở 2 bên sừng tử cung. Hợp tử lấy chất dinh dưỡng từ tế bào trứng và tinh trùng.
Mầm thai được hình thành sau 3 - 4 ngày. Lúc đầu mầm thai lấy chất dinh

dưỡng từ noãn hoàn và tinh trùng. Sau đó hình thành màng, mầm thai lấy chất dinh
dưỡng qua màng bằng thẩm thấu.
Túi phôi được hình thành sau 5 - 6 ngày, túi phôi chứa chất lỏng.
Màng ối hình thành sau 7 - 8 ngày. Màng ối chứa một lượng dung dịch lỏng
lớn giúp cho phôi nằm thoải mái bên trong, dễ xê dịch, không va chạm với các cơ
quan xung quanh. Thời kỳ này màng ối cung cấp chất dinh dưỡng cho phôi: Protein,
đường, mỡ, muối, caroten là nguồn cung cấp nước quan trọng cho phôi. Vào cuối
thời kỳ chửa màng ối giúp sinh đẻ dễ dàng.
Màng đệm hình thành sau 10 ngày. Mặt màng đệm có nhiều lông nhung để
lấy chất dinh dưỡng từ mẹ truyền cho phôi.
Màng niệu: Hình thành sau 12 ngày chửa, chứa nhiều chất thải của phôi thai.
Thời kỳ này trọng lượng của phôi thai đạt từ 1 - 2gam. Thời kỳ này dễ bị tiêu
thai, do thức ăn hôi mốc, các hóa chất cũng dễ làm hỏng thai. Lợn mẹ cần yên tĩnh
không xua đuổi tác động mạnh.

×