Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Đánh giá hiệu quả và định hướng sử dụng đất nông nghiệp tại Xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 87 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




HÀ THỊ PHƯỢNG

Tên đề tài:
“ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ ĐỊNH HƯỚNG SỬ
DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI XÃ TÂN ĐỨC,
HUYỆN VĂN QUAN, TỈNH LẠNG SƠN”


KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC



Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Địa chính Môi trường
Khoa : Quản lý Tài nguyên
Khoá học : 2010 – 2014
Khoa Môi trường – Trường Đại học Nông Lâm





THÁI NGUYÊN - 2014
1


PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng
cho con người. Đất đai là nền tảng để con người định cư và tổ chức các hoạt
động kinh tế xã hội, nó không chỉ là đối tượng lao động mà còn là tư liệu sản
xuất không thể thay thế được, đặc biệt là đối với ngành sản xuất nông nghiệp,
đất là yếu tố đầu vào có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất đất nông
nghiệp, đồng thời cũng là môi trường duy nhất sản xuất ra những lương thực
thực phẩm nuôi sống con người. Việc sử dụng đất có hiệu quả và bền vững
đang trở thành vấn đề cấp thiết với mỗi quốc gia, nhằm duy trì sức sản xuất
của đất đai cho hiện tại và cho tương lai.
Xã hội phát triển, dân số tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày càng
tăng về lương thực và thực phẩm, chỗ ở cũng như các nhu cầu về văn hóa, xã
hội. Con người đã tìm mọi cách để khai thác đất đai nhằm thảo mãn những
nhu cầu ngày càng tăng đó. Như vậy đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp có
hạn về diện tích nhưng lại có nguy cơ bị suy thoái dưới tác động của thiên
nhiên và sự thiếu ý thức của con người trong quá trình sản xuất. Đó còn chưa
kể đến sự suy giảm về diện tích đất nông nghiệp do quá trình đô thị hóa đang
diễn ra mạnh mẽ, trong khi khả năng khai hoang đất mới lại rất hạn chế. Do
vậy, việc đánh giá hiệu quả để sử dụng hợp lý theo quan điểm sinh thái và
phát triển bền vững đang trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu đang được
các nhà khoa học trên thế giới quan tâm. Đối với một nước có nền kinh tế
nông nghiệp chủ yếu như ở Việt Nam, nghiên cứu, đánh giá hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Xã Tân Đoàn nằm ở phía Đông Nam huyện Văn Quan, cách trung tâm
huyện 22 km về phía Đông. Diện tích tự nhiên là 2.083,24 ha, người dân ở
2
đây chủ yếu sinh sống dựa trên sản xuất nông nghiệp. Là xã thuộc vùng III,
nằm xa trung tâm huyện, việc cập nhập thông tin hạn chế là điều kiện bất lợi

cho phát phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Với mong muốn nâng cao
hiệu quả kinh tế nông nghiệp và sử dụng hợp lý hơn đất nông nghiệp, bảo vệ
môi trường, đối với sản xuất nông nghiệp của xã Tân Đoàn, tôi tiến hành thực
hiện đề tài “ Đánh giá hiệu quả và định hướng sử dụng đất nông nghiệp tại
Xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và qua đó giúp lựa chọn
được loại hình sử dụng đất đạt hiệu quả cao và đề xuất các giải pháp sử dụng
hiệu quả đất nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của
xã Tân Đoàn – tỉnh Lạng Sơn.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp trên của xã Tân Đoàn,
huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.
- Đánh giá hiệu quả của một số loại hình sử dụng đất.
- Lựa chọn một số loại hình sử dụng đất có hiệu quả cao về kinh tế, xã
hội, môi trường.
- Đề xuất các giải pháp sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, hợp lí
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất trên địa bàn xã Tân Đoàn, huyện Văn
Quan, tỉnh Lạng Sơn.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá điều kiện tự nhiên và thực trạng phát triển kinh tế - xã hội liên
quan đến sử dụng đất nông nghiệp.
- Đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp của xã Tân Đoàn.
3
- Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần giúp người dân lựa chọn phương
thức sử dụng đất phù hợp và nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
1.4. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Củng cố kiến thức đã được học nghiên cứu trong nhà trường và những

kiến thức thực tế cho sinh viên trong quá trình thực tập tại cơ sở.
- Nâng cao khả năng tiếp nhận, thu thập số liệu và xử lý thông tin trong
quá trình làm đề tài.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở đánh đánh giá hiệu quả sử dụng nhóm đất nông nghiệp từ đó
đề xuất được các định hướng cử dụng đất đạt hiệu quả cao và bền vững, phù
hợp với điều kiện của địa phương.
4
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Đất và vai trò của đất đối với sản xuất nông nghiệp
2.1.1. Khái niệm và quá trình hình thành đất
2.1.1.1. Khái niệm về đất
* Khái niệm chung
Đất là một phần của vỏ trái đất, nó là lớp phủ lục địa mà bên dưới nó là
đá và khoáng sinh ra nó, bên trên là thảm thực bì và khí quyển. Đất là lớp mặt
tươi xốp của lục địa có khả năng sản sinh ra sản phẩm của cây trồng. Đất là
lớp phủ thổ nhưỡng là thổ quyển, là một vật thể tự nhiên, mà nguồn gốc của
thể tự nhiên đó là do hợp điểm của 4 thể tự nhiên khác của hành tinh là thạch
quyển, khí quyển, thủy quyển và sinh quyển. Sự tác động qua lại của bốn
quyển trên và thổ quyển có tính thường xuyên và cơ bản.
Theo nguồn gốc phát sinh, tác giả Đôkutraiep coi đất là một vật thể tự
nhiên được hình thành do sự tác động tổng hợp của năm yếu tố là: Khí hậu, đá
mẹ, địa hình, sinh vật và thời gian. Đất xem như một thể sống nó luôn vận
động và phát triển. (Nguyễn Thế Đặng – Nguyễn Thế Hùng,1999, giáo trình
đấtt, Nhà xuất bản Nông nghiệp) [4].
Theo C.Mac: “ Đất là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ biến quý báu nhất
của sản xuất nông nghiệp, là điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và
tái sinh của hàng loạt thế hệ loài người kế tiếp nhau”
Theo các nhà kinh tế, thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho rằng:

“ Đất đai là phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể mọc được”
Như vậy đã có rất nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về đất
nhưng khái niệm chung nhất có thể hiểu: Đất đai là khoảng không gian có
giới hạn, theo chiều thẳng đứng bao gồm: Khí hậu của bầu khí quyển, lớp phủ
thổ nhưỡng, thảm thực vật, động vật, diện tích mặt nước, tài nguyên nước
5
ngầm và khoáng sản trong lòng đất. Theo chiều ngang, trên mặt đất là sự kết
hợp giữa thổ nhưỡng, địa hình, thủy văn, thảm thực vật với các thành phần
khác, nó tác động giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với hoạt
động sản xuất cũng như cuộc sống xã hội của loài người.
* Khái niệm về đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là đất sử dụng vào mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí
nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối và mục
đích bảo vệ, phát triển rừng: Bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm
nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và đất sản xuất nông nghiệp
khác [2].
2.1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong nông nghiệp
Đất là khoảng không gian lãnh thổ cần thiết đối với mọi quá trình sản
xuất trong các ngành kinh tế quốc dân và hoạt động của con người. Nói về
tâm quan trọng của đất C.Mac viết: “Đất là một phòng thí nghiệm vĩ đại, kho
tàng cung cấp các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của
tập thể” (C.Mac, 1949) [3]. Đối với nông nghiệp: Đất đai là yếu tố tích cực của
quá trình sản xuất là điều kiện vật chất đồng thời là đối tượng lao động (luôn
chịu tác động trong quá trình sản xuất như: cày, bừa, xới, xáo…) và công cụ
lao động hay phương tiện lao động (Sử dụng để trồng trọt, chăn nuôi…). Quá
trình sản xuất luôn có mối quan hệ chặt chẽ với độ phì nhiêu và quá trình sinh
học tự nhiên của đất.
Trong nông nghiệp ngoài vai trò là cơ sở không gian đất còn có hai
chức năng đặc biệt quan trọng:
- “Là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của con người trong quá trình

sản xuất.
- Đất tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, cung cấp cho cây trồng
nước, muối khoáng và các chất dinh dưỡng khác cần thiết cho sự sinh trưởng
6
và phát triển của cây trồng. Như vậy, đất trở thành công cụ sản xuất. Năng
suất và chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào độ phì nhiêu của đất. Trong tất cả
các loại tư liệu sản xuất dùng trong nông nghiệp chỉ có đất mới có chức năng
này” (Lương Văn Hinh và CS, 2003) [6].
Chính vì vậy, có thể nói rằng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt
trong nông nghiệp.
2.2. Sử dụng đất và những quan điểm sử dụng đất
2.2.1. Sử dụng đất và những nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất
2.2.1.1. Khái niệm về sử dụng đất
Sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp nhằm điều hòa mối quan hệ
người - đất trong tổ hợp với nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường.
Căn cứ vào quy luật phát triển kinh tế xã hội cùng với yêu cầu không ngừng
ổn đinh và bền vững về mặt sinh thái, quyết định phương hướng chung và
mục tiêu sử dụng đất hợp lý nhất là tài nguyên đất đai, phát huy tối đa công
dụng của đất nhằm đạt tới hiệu ích sinh thái, kinh tế, xã hội cao nhất. Vì vậy,
sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt động kinh tế của nhân loại. Trong mỗi
phương thức sản xuất nhất định, việc sử dụng đất theo yêu cầu của sản xuất
và đời sống cần căn cứ vào thuộc tính tự nhiên của đất đai. “Với vai trò là
nhân tố của của sức sản xuất, các nhiệm vụ và nội dung sử dụng đất đai được
thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Sử dụng đất hợp lý về không gian, hình thành hiệu quả kinh tế không
gian sử dụng đất.
- Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất đai được sử dụng,
hình thành cơ cấu kinh tế sử dụng đất.
- Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mô
kinh tế sử dụng đất.

7
- Giữ mật độ sử dụng đất đai thích hợp, hình thành việc sử dụng đất đai
một cách kinh tế, tập trung, thâm canh.
2.2.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất
Phạm vi, cơ cấu và phương thức sử dụng đất…vừa bị chi phối bởi các
điều kiện và quy luật sinh thái tự nhiên, vừa bị kiềm chế bởi các điều kiện,
quy luật kinh tế - xã hội và các yếu tố kỹ thuật. Vì vậy, những điều kiện và
nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến việc sử dụng đất là:
* Yếu tố điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên có rất nhiều yếu tố như: ánh sáng, nhiệt độ, lượng
mưa, thủy văn, không khí….trong các yếu tố đó khí hậu là nhân tố hàng đầu
của việc sử dụng đất đai, sau đó là điều kiện đất đai chủ yếu là địa hình, thổ
nhưỡng và các nhân tố khác.
- Điều kiện khí hậu: Đây là nhóm yếu tố ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp
đến sản xuất nông nghiệp và điều kiện sinh hoạt của con người. Tổng tích ôn
nhiều hay ít, nhiệt độ cao hay thấp, sự sai khác về nhiệt đô về thời gian và
không gian, biên độ tối cao hay tối thấp giữa ngày và đêm…trực tiếp ảnh
hưởng đến sự phân bố, sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Lượng mưa
nhiều hay ít, bốc hơi mạnh yếu có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ nhiệt độ
và ẩm độ của đất, cũng như khả năng đảm bảo khả năng cung cấp nước cho
các cây, con sinh trưởng, phát triển.
- Điều kiện đất đai: Sự khác nhau giữa địa hình, địa mạo, độ cao so với
mực nước biển, độ dốc hướng dốc…thường dẫn đến đất đai, khí hậu khác
nhau, từ đó ảnh hưởng đến sản xuất và phân bố các ngành nông nghiệp, lâm
nghiệp. Địa hình và độ dốc ảnh hưởng đến phương thức sử dụng đất nông
nghiệp, là căn cứ cho việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, xây dựng đồng ruộng,
thủy lợi canh tác và cơ giới hóa.
8
Mỗi vùng địa lý khác nhau có sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt
độ, nguồn nước và các điều kiện tự nhiên khác. Các yếu tố này ảnh hưởng rất

lớn đến khả năng, công dụng và hiệu quả sử dụng đất. Vì vậy cần tuân theo
các quy luật của tự nhiên, tận dụng các lợi thế đó nhằm đạt được hiệu quả cao
nhất về kinh tế, xã hội và môi trường.
* Yếu tố về kinh tế – xã hội
Bao gồm các yếu tố như: Chế độ xã hội, dân số và lao động, thông tin
và quản lý, sức sản xuất trình độ phát triển của kinh tế hàng hóa, cơ cấu kinh
tế và phân bổ sản xuất, các điều kiện về nông nghiệp, công nghiệp, giao
thông, vận tải, sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ, trình độ quản
lý, sử dụng lao động… “Yếu tố kinh tế – xã hội thường có ý nghĩa quyết định,
chủ đạo đối với việc sử dụng đất đai” (Lương Văn Hinh và cs, 2003) [6].
Thực vậy, phương hướng sử dụng đất được quyết định bởi yêu cầu xã hội và
mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Điều kiện tự nhiên của đất đai
cho phép xác định khả năng thích ứng về phương thức sử dụng đất.
Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên tới việc sử dụng đất được đánh giá
bằng hiệu quả sử dụng đất. Thực trạng sử dụng đất liên quan đến lợi ích kinh
tế của người sở hữu, sử dụng và kinh doanh đất. Tuy nhiên nếu có chính sách
ưu đãi sẽ tạo điều kiện cải tạo và hạn chế sử dụng đất theo kiểu bóc lột đất
đai. Mặt khác, sự quan tâm quá mức đến lợi nhuận tối đa cũng dẫn đến tình
trạng đất đai không những bị sử dụng không hợp lý mà còn bị hủy hoại.
Như vậy, các nhân tố điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hôi
tạo ra nhiều tổ hợp ảnh hưởng đến việc sử dụng đất đai. Tuy nhiên mỗi yếu tố
giữ vị trí và có tác động khác nhau. Vì vậy, cần dựa vào yếu tố tự nhiên và
kinh tế – xã hội trong lĩnh vực sử dụng đất đai để từ đó tìm ra những nhân tố
thuận lợi và khó khăn để sử dụng đất đai đạt hiệu quả cao.
9
2.2.2. Quan điểm sử dụng đất bền vững
Từ khi biết sử dụng đất đai vào mục đích sinh tồn của mình, đất đai đã trở
thành cơ sở cần thiết cho sự sống và cho tương lai phát triển của con người.
Khi dân số còn ít để đáp ứng nhu cầu về lương thực thực phẩm của
mình thì con người đã khai thác từ đất khá dễ dàng và không gây ra những

ảnh hưởng lớn đến đất đai. “Nhưng ngày nay, mật độ dân số ngày càng tăng,
đặc biệt là ở các nước đang phát triển thì vấn đề đảm bảo lương thực cho sự
gia tăng dân số đã trở thành sức ép ngày càng mạnh mẽ lên đất đai. Diện tích
đất đai thích hợp cho sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, con người
đã phải mở mang thêm diện tích đất nông nghiệp trên những vùng đất không
thích hợp cho sản xuất, hậu quả đã gây ra quá trình thoái hoá đất diễn ra một
cách nghiêm trọng” (Smyth & Julian Dumaski, 1993) [19].
Tác động của con người đã làm cho độ phì nhiêu của đất ngày càng bị suy
giảm và dẫn đến thoái hoá đất, lúc đó khó có thể phục hồi lại độ phì nhiêu của
đất nếu muốn phục hồi lại thì cần phải chi phí rất lớn. Đất có những chức năng
chính là: “Duy trì vòng tuần hoàn sinh hoá học và địa hoá học, phân phối nước,
tích trữ và phân phối vật chất, mang tính đệm và phân phối năng lượng”
(Dekimpe & Warkentin, 1998) [16], các chức năng trên của đất là những trợ
giúp cần thiết cho các hệ sinh thái. Sử dụng đất đai một cách hiệu quả và bền
vững luôn là mong muốn cho sự tồn tại và tương lai phát triển của con người. Vì
vậy tìm kiếm những biện pháp sử dụng đất thích hợp, bền vững đã được nhiều
nhà khoa học và các tổ chức quốc tế quan tâm. Thuật ngữ “sử dụng đất bền
vững” (Sustainable land use) đã trở lên thông dụng trên thế giới như hiện nay.
Nông nghiệp bền vững không có nghĩa là khước từ những kinh nghiệm
truyền thống mà phối hợp, lồng ghép những sáng kiến mới từ các nhà khoa
học, từ nông dân hoặc cả hai. Điều trở nên thông thường với những người
nông dân, bền vững là việc sử dụng những công nghệ và thiết bị mới vừa
10
được phát kiến, những mô hình canh tác tổng hợp để giảm giá thành đầu vào.
Đó là những công nghệ về chăn nuôi động vật, những kiến thức về sinh thái
để quản lý sâu hại và thiên địch (Cao Liêm và CTV, 1996) [10].
Theo Lê Văn Khoa, 1993 [8], để phát triển nông nghiệp bền vững cũng
loại bỏ những ý nghĩ đơn giản rằng: Nông nghiệp, công nghiệp hoá sẽ đầu tư
từ bên ngoài vào. Phạm Chí Thành, 1996 [12] cho rằng có 3 điều kiện để tạo
nông nghiệp bền vững đó là công nghệ bảo tồn tài nguyên, những tổ chức từ

bên ngoài và những tổ chức về các nhóm địa phương. Tác giả cho rằng xu thế
phát triển nông nghiệp bền vững được các nước phát triển khởi xướng và hiện
nay đã trở thành đối tượng mà nhiều nước nghiên cứu theo hướng kế thừa,
chắt lọc cái tinh tuý của nền nông nghiệp chứ không chạy theo cái hiện đại để
bác bỏ những cái thuộc về truyền thống. Trong nông nghiệp bền vững việc
chọn cây gì, con gì trong một hệ sinh thái tương ứng không thể áp đặt theo ý
muốn chủ quan mà phải điều tra nghiên cứu để hiểu biết tự nhiên.
Không ai hiểu biết hệ sinh thái nông nghiệp ở một vùng bằng chính
những người sinh ra và lớn lên ở đó. Vì vậy, xây dựng nông nghiệp bền vững
nhất thiết cần phải có sự tham gia của người dân trong vùng nghiên cứu. Phát
triển bền vững là việc quản lý và bảo tồn cơ sở tài nguyên tự nhiên, định
hướng những thay đổi công nghệ thể chế theo một phương thức sao cho đạt
đến sự thỏa mãn một cách liên tục nhu cầu của con người, của những thế hệ
hôm nay và mai sau (FAO, 1976) [17].
Theo Festry “Sự phát triển nông nghiệp bền vững chính là sự bảo tồn
đất, nước, các nguồn động thực vật, không bị suy thoái môi trường, sinh lợi
kinh tế và chấp nhận được về mặt xã hội” (FAO, 1994) [18]. FAO đã đưa ra
được những chỉ tiêu cụ thể cho nông nghiệp bền vững là:
- Thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng cơ bản cho thế hệ về số lượng, chất
lượng và các sản phẩm nông nghiệp khác.
11
- Cung cấp lâu dài việc làm, đủ thu nhập và các điều kiện sống tốt cho
những người trực tiếp làm nông nghiệp.
- Duy trì và có thể tăng cường khả năng sản xuất của các cơ sở tài
nguyên thiên nhiên, khả năng tái sản xuất của các tài nguyên tái tạo được
không phá vỡ chức năng của các chu trình sinh thái cơ sở và cân bằng tự
nhiên, không phá vỡ bản sắc văn hóa – xã hội của cộng đồng sống ở nông
thôn hoặc không gây ô nhiễm môi trường.
- Giảm thiểu khả năng bị tổn thương trong nông nghiệp, củng cố lòng
tin cho nông dân.

Những nguyên tắc được coi là trụ cột trong sử dụng đất đai bền vững
và là những mục tiêu cần đạt được:
“- Duy trì, nâng cao sản lượng (Hiệu quả sản xuất);
- Giảm tối thiểu mức rủi ro trong sản xuất (An toàn);
- Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và ngăn chặn sự thoái hóa đất, nước;
- Có hiệu quả lâu dài;
- Được xã hội chấp nhận” (Hội khoa học đất Việt Nam, 2000) [7]
Thực tế nếu diễn ra đồng bộ với những mục tiêu trên thì khả năng bền
vững sẽ đạt được, nếu chỉ đạt được một hay vài mục tiêu mà không phải tất cả
thì khả năng bền vững chỉ mang tính bộ phận.
Vận dụng các nguyên tắc đã nêu ở trên, ở Việt Nam một loại hình được
coi là bền vững phải đạt được 3 yêu cầu:
- Bền vững về kinh tế: Cây trồng cho năng suất cao, chất lượng tốt,
được thị trường chấp nhận.
- Bền vững về mặt xã hội: Nâng cao được đời sống nhân dân, thu hút
được lao động, phù hợp với phong tục tập quán của người dân.
12
- Bền vững về môi trường: Các loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được
độ màu mỡ của đất, ngăn chặn sự thoái hóa đất và bảo vệ môi trường sinh thái
đất (Nguyễn Ngọc Nông và CS, 2007) [11].
Ba yêu cầu trên là để xem xét và đánh giá các loại hình sử dụng đất ở
thời điểm hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá theo các yêu cầu trên
để có những định hướng phát triển nông nghiệp ở từng vùng.
Tóm lại: Đối với sản xuất nông nghiệp việc sử dụng đất bền vững chỉ
đạt được trên cơ sở suy trì các chức năng chính của đất là đảm bảo khả năng
sản xuất của cây trồng một cách ổn định, không làm suy giảm đối với tài
nguyên đất đai theo thời gian và việc sử dụng đất không gây ảnh hưởng xấu
đến hoạt động sống của con người.
2.2.3. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên Thế giới và Việt Nam.
2.2.3.1. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới

Tổng diện tích bề mặt của toàn thế giới là 510 triệu Km
2
trong đó đại
dương chiếm 361 triệu Km
2
(71%), còn lại là diện tích lục địa chỉ chiếm 149
triệu Km
2
(29%). Bắc bán cầu có diện tích lớn hơn nhiều so với Nam bán cầu.
Toàn bộ quỹ đất có khả năng sản xuất nông nghiệp trên thế giới là 3.256 triệu
ha, chiếm khoảng 22% tổng diện tích đất liền. Diện tích đất nông nghiệp trên
thế giới được phân bố không đều: Châu Mỹ chiếm 35%, Châu Á chiếm 26%,
Châu Âu chiếm 13%, Châu Phi chiếm 6%. Bình quân đất nông nghiệp trên
thế giới là 12.000m
2
. Đất trồng trọt trên toàn thế giới mới đạt 1,5 tỷ chiếm
10,8% tổng diện tích đất đai, 46% đất có khả nẳng sản xuất nông nghiệp như
vậy còn 54% đất có khả năng sản xuất nhưng chưa được khai thác. Diện tích
đất đang canh tác trên thế giới chỉ chiếm 10% tổng diện tích đất tự nhiên
(khoảng 1.500 triệu ha), được đánh giá là:
- Đất có năng suất cao: 14%
- Đất có năng suất trung bình: 28%
- Đất có năng suất thấp: 58%
Nguồn tài nguyên đất trên thế giới hàng năm luôn bị giảm, đặc biệt là đất
nông nghiệp mất đi do chuyển sang mục đích sử dụng khác. Mặt khác dân số
ngày càng tăng, theo ước tính mỗi năm dân số thế giới tăng từ 80 - 85 triệu
13
người. Như vậy, với mức tăng này mỗi người cần phải có 0,2 – 0,4 ha đất nông
nghiệp mới đủ lương thực, thực phẩm. Đứng trước những khó khăn rất lớn đó
thì việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất của đất nông nghiệp là hết sức cần thiết.

2.2.3.2. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam
Tính đến ngày 01/01/2012, Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên là
33121,2 nghìn ha, trong đó đất nông nghiệp là 26.110 nghìn ha chiếm 78,83%
tổng diện tích đất tự nhiện, đất phi nông nghiệp là 3.687,7 nghìn ha, chiếm
11,14% diện tích tự nhiên, đất chưa sử dụng là 3.323,5 nghìn ha, chiếm
10,03% tổng diện tích tự nhiên. Hiện trạng sử dụng đất đai của Việt Nam
được thể hiện qua bảng 2.1.
Bảng 2.1. Cơ cấu đất đai theo mục đích sử dụng của Việt Nam năm 2012
STT Loại Đất 433
Diện tích
(ha)
Cơ cấu
(%)

Tổng diện tích tự nhiên 33.121,2

100,0

1 Đất nông nghiệp 26.110 78,83

1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 10.130

30,58

1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 6.282,50

18,97

1.1.1.1 Đất trồng lúa 4.120


12,44

1.1.1.2 Đất cỏ dùng vào chăn nuôi 290

0,88

1.1.1.3 Đất trồng cây hàng năm khác 1.872,50

5,65

1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 3.847,50

11,61

1.2. Đất lâm nghiệp 15.400

46,50

1.2.1 Rừng sản xuất 7.924,30

23,93

1.2.2 Rừng phòng hộ 5.421

16,37

1.2.3 Rừng đặc dụng 2.054,7

6,20


1.3 Đất nuôi trồng thủy sản 559,447

1,69

1.4 Đất làm muối 2,353

0,007

1.5 Đất nông nghiệp khác 18,20

0,053

2 Đất phi nông nghiệp 3.687,7

11,14

3 Đất chưa sử dụng 3.323,50

10,03

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
14
Diện tích đất bình quân đầu người ở Việt Nam thuộc loại thấp nhất thế
giới. Ngày nay với áp lực về dân số và tốc độ đô thị hóa diện tích đất đai ngày
càng giảm, đặc biệt là diện tích đất nông nghiệp. Vì vậy, vấn đề đảm bảo
lương thực, thực phẩm trong khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm
đang là một áp lực rất lớn. Do đó việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất
nông nghiệp ngày càng trở nên quan trọng đối với nước ta.
2.3. Hiệu quả và tính bền vững trong sử dụng đất
2.3.1. Khái quát về hiệu quả sử dụng đất

Hiệu quả chính là kết quả như yêu cầu công việc mang lại. Do tính chất
mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu ngày càng cao của con
người mà ta phải xem xét kết quả tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra để tạo ra
kết quả đó là bao nhiêu? Có đưa lại kết quả hữu ích không? Chính vì thế khi
đánh giá hoạt động sản xuất không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà
còn phải đánh giá chất lượng các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản
phẩm đó. Đánh giá chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh cũng là một
nội dung đánh giá hiệu quả.
Để xác định bản chất và khái niệm hiệu quả cần xuất phát từ những
luận điểm của Mac và những luận điểm lý thuyết hệ thống sau:
- Thứ nhất: Bản chất của hiệu quả là thực hiện yêu cầu tiết kiệm thời
gian, thể hiện trình độ sử dụng nguồn lực xã hội. C.Mác cho rằng quy luật tiết
kiệm thời gian là quy luật có tầm quan trọng đặc biệt tồn tại trong nhiều
phương thức sản xuất. Mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật
đó, nó quyết định động lực phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện
phát triển văn minh xã hội và nâng cao đời sống của con người qua mọi thời
đại.
- Thứ hai: Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống thì nền sản xuất xã hội
là một hệ thống các yếu tố sản xuất và các quan hệ vật chất hình thành giữa con
15
người với con người trong quá trình sản xuất. Hệ thống sản xuất xã hội bao
gồm trong nó các quá trình sản xuất, các phương tiện bảo tồn và tiếp tục đời
sống xã hội, đáp ứng các nhu cầu xã hội, nhu cầu của con người là những yếu
tố khách quan phản ánh mối quan hệ nhất định của con người đối với môi
trường bên ngoài. Đó là quá trình trao đổi vật chất giữa sản xuất xã hội và môi
trường.
- Thứ ba: Hiệu quả kinh tế là mục tiêu nhưng không phải là mục tiêu
cuối cùng mà là mục tiêu xuyên suốt mọi hoạt động kinh tế. Trong quy hoạch
và quản lý kinh tế nói chung hiệu quả là quan hệ so sánh tối ưu giữa đầu vào
và đầu ra, là lợi ích lớn hơn thu được với một chi phí nhất định, hoặc một kết

quả nhất định với chi phí lớn hơn (Đỗ Thị Lan, Đỗ Anh Tài, 2007) [9].
Như vậy bản chất của hiệu quả được xem là: Việc đáp ứng nhu cầu của
con người trong xã hội; việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực để
phát triển bền vững.
* Hiệu quả kinh tế
Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể
là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối có kế hoạch thời gian lao động
theo các ngành sản xuất khác nhau. Theo nhà khoa học Samuelson Nodhuas
“Hiệu quả có nghĩa là không lãng phí. Nghiên cứu hiệu quả sản xuất phải xét
đến chi phí cơ hội. “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản
lượng hàng hóa khác” ( Vũ Thị Phương Thụy, 2000) [14]. Theo các nhà khoa
học Đức (stenien, Hanua, Rusteruyer, Simmerman): Hiệu quả kinh tế là một
chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và
mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ,
góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội.
16
Hiệu quả kinh tế là phạm trù chung nhất, nó liên quan trực tiếp tới nền
sản xuất hàng hóa và tới tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác. Vì
thế hiệu quả kinh tế phải đạt được ba vấn đề sau:
- Một là: Mọi hoạt động của con người đều phải tuân theo quy luật tiết
kiệm thời gian.
- Hai là: Hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm lý
thuyết hệ thống.
- Ba là: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh tế bằng quá trình tăng cường nguồn lực sẵn có phục vụ
cho lợi ích của con người.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết
quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết
quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra
là phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan cần xét cả phần so

sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai
đại lượng đó.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng bản chất của phạm trù kinh
tế sử dụng đất là: Với một diện tích nhất định sản xuất ra một khối lượng của
cải vật chất nhiều nhất với một lượng chi phí về vật chất và lao động thấp
nhất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng vật chất về xã hội (Phạm Vân
Đình và CS, 2001) [5].
* Hiệu quả xã hội
Phản ánh mối tương quan giữa kết quả thu được về mặt xã hội mà sản
xuất mang lại với các chi phí sản xuất xã hội bỏ ra. Loại hiệu quả này đánh
giá chủ yếu về mặt xã hội do hoạt động sản xuất mang lại.
17
“Hiệu quả về mặt xã hội sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác
định bằng khả năng tạo việc làm trên một diện tích đất nông nghiệp” (Nguyễn
Duy Tính, 1995) [13].
* Hiệu quả môi trường
“Hiệu quả môi trường là môi trường được sản sinh do tác động của sinh
vật, hóa học, vật lý , chịu ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố môi trường của
các loại vật chất trong môi trường” (Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách
khoa, 1998) [15]. Một hoạt động sản xuất được coi là có hiệu quả khi không có
những ảnh hưởng tác động xấu được coi là có hiệu quả khi không có những
ảnh hưởng tác động xấu đến môi trường đất, nước, không khí, không làm ảnh
hưởng tác động xấu đến môi trường sinh thái và đa dạng sinh học.
Quan niệm về hiệu quả trong điều kiện hiện nay là phải thỏa mãn vấn
đề tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tài nguyên trong sản xuất, mang lại lợi ích xã
hội và bảo vệ được môi trường.
2.3.2. Sự cần thiết phải đánh giá hiệu quả sử dụng đất
“Thế giới đang sử dụng khoảng 1,5 tỷ ha đất cho sản xuất nông nghiệp.
Tiềm năng đất nông nghiệp của thế giới khoảng 3 – 5 tỷ ha. Nhân loại đang
làm hư hại đất nông nghiệp khoảng 1,4 tỷ ha đất và hiện nay có khoảng 6 – 7

triệu ha đất nông nghiệp bị bỏ hoang do xói mòn và thoái hóa. Để giải quyết
nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp, con người phải thâm canh, tăng vụ tăng
năng suất cây trồng và mở rộng diện tích đất nông nghiệp” (FAO, 1976) [17].
Phát triển nông nghiệp bền vững có tính chất quyết định trong sự phát
triển chung của toàn xã hội. Điều cơ bản nhất của phát triển nông nghiệp bền
vững là cải thiện chất lượng cuộc sống trong sự tiếp xúc đúng đắn về môi
trường để giữ gìn tài nguyên cho thế hệ sau này.
18
2.3.3. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất
Trong quá trình sử dụng đất đạt tiêu chuẩn cơ bản và tổng quát khi
đánh giá hiệu quả là mức độ đáp ứng nhu cầu của xã hội và sự tiết kiệm lớn
nhất về chi phí các nguồn tài nguyên, sự ổn đinh lâu dài của hiệu quả. Do đó,
tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất là mức độ đạt được các mục tiêu
kinh tế, xã hội và môi trường (Đỗ Thị Lan, Đỗ Tài Anh, 2007) [9].
“Hiệu quả sử dụng đất có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất nông – lâm
nghiệp, đến môi trường sinh thái, đến đời sống người dân. Vì vậy, đánh giá
hiệu quả sử dụng đất phải tuân theo quan điểm sử dụng đất bền vững hướng
vào ba tiêu chuẩn chung là bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền
vững về môi trường” (FAO, 1994) [18].
2.4. Định hướng sử dụng đất nông nghiệp
2.4.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn trong đề xuất sử dụng đất
- Truyền thống, kinh nghiệm và tập quán sử dụng đất lâu đời của nhân
dân Việt Nam.
- Những số liệu, tài liệu thống kê định kỳ về sử dụng đất (diện tích,
năng suất, sản lượng), sự biến động và xu hướng phát triển.
- Chiến lược phát triển của các ngành: Nông nghiệp, lâm nghiệp, công
nghiệp, xây dựng, giao thông
+ Các dự án quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội của các vùng và
địa phương.
+ Kết quả nghiên cứu tiềm năng đất đai về phân bố, sản lượng, chất

lượng và khả năng sử dụng ở mức độ thích nghi của đất đai.
+ Trình độ phát triển khoa học kỹ thuật phục vụ cho sản xuất đạt hiệu
quả kinh tế cao.
+ Tốc độ gia tăng dân số, dự báo dân số qua các thời kỳ.
19
2.4.2. Quan điểm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
- Sử dụng đất phải gắn liền với định hướng phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương.
- Khai thác sử dụng đất phải dựa trên cơ sở quy hoạch và lập kế hoạch
sử dụng đất.
“Quản lý đất đai thông qua quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất đai
vừa đảm bảo tính thống nhất của quản lý nhà nước về đất đai vừa tạo điều
kiện để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc sử dụng đất” (Bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn, 1999) [2].
- Khai thác sử dụng đất phải đạt hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường và
tiến tới sự ổn định bền vững lâu dài.
- Khai thác sử dụng đất phải gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH – HĐH.
- Khai thác sử dụng đất phải đảm bảo khai thác tối đa lợi thế so sánh,
tiềm năng của từng vùng trên cơ sở kết hợp giữa chuyên môn hóa và đa dạng
hóa sản phẩm và sản xuất hàng hóa.
- Khai thác sử dụng đất phải đảm bảo ưu tiên trước hết cho mục tiêu
đảm bảo an ninh lương thực của các nông hộ và địa phương.
- Khai thác sử dụng đất phải dựa trên cơ sở kinh tế của nông hộ, nông
trại phù hợp với trình độ dân trí, phong tục tập quán nhằm phát huy kiến thức
bản địa và nội lực của địa phương.
- Khai thác sử dụng đất phải phải đảm bảo ổn định về xã hội, an ninh
quốc phòng.
2.4.3. Định hướng sử dụng đất
Định hướng sử dụng đất nông nghiệp là xác đinh phương hướng sử

dụng đất nông nghiệp theo điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, điều kiện vật
chất xã hội, thị trường…đặc biệt là mục tiêu, chủ trương chính sách của nhà
20
nước nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất và bảo
vệ môi trường. Nói cách khác, định hướng sử dụng đất nông nghiệp là việc
xác định một cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong đó cơ cấu cây trồng, cơ cấu
vật nuôi phù hợp với điều kiện sinh thái của vùng lãnh thổ. Trên cơ sở nghiên
cứu hệ thống cây trồng và các mối quan hệ giữa chúng với môi trường để
định hướng sử dụng đất phù hợp với điều kiện từng vùng.
Các căn cứ để định hướng sử dụng đất:
- Đặc điểm địa lý, thổ nhưỡng.
- Tính chất đất hiện tại.
- Dựa trên yêu cầu sinh thái của cây trồng, vật nuôi và các loại hình sử
dụng đất.
- Dựa trên các mô hình sử dụng đất phù hợp với yêu cầu sinh thái của
cây trồng, vật nuôi và đạt hiệu quả sử dụng đất cao (Lựa chọn loại hình sử
dụng đất tối ưu).
- Điều kiện sử dụng đất, cải tạo đất bằng các biện pháp thủy lợi, phân
bón và các tiến bộ khoa học kỹ thuật về canh tác.
- Mục tiêu phát triển của vùng nghiên cứu trong những năm tiếp theo
hoặc lâu dài.
Để đưa ra hệ thống sử dụng để sản xuất nông nghiệp tối ưu, hiệu quả
phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng địa phương cũng
như tận dụng và phát huy được tiềm năng của đất, nâng cao năng suất cây
trồng, góp phần từng bước cải thiện đời sống của nhân dân là rất cần thiết. Đề
tài “Đánh giá hiệu quả và định hướng sử dụng đất nông nghiệp trên địa
bàn xã Tân Đoàn huyện Văn quan Tỉnh Lạng Sơn” không nằm ngoài mục
tiêu trên.



21
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1.Đối tượng nghiên cứu
- Các loại hình sử dụng đất nông nghiệp
- Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
- Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi trong địa giới hành chính của xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan,
tỉnh Lạng Sơn.
Nghiên cứu về các loại hình sử dụng đất sản xuất nông nghiệp chính
trên địa bàn, xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
3.2.1. Địa điểm
Xã Tân Đoàn, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn
3.2.2. Thời gian tiến hành
Từ 08/01/2014 đến 30/4/2014
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của xã Tân Đoàn,
huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn
3.3.2. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của xã Tân Đoàn
3.3.3. Xác định các loại hình sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã Tân
Đoàn
3.3.4. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của xã Tân Đoàn
- Hiệu quả kinh tế
- Hiệu quả xã hội
- Hiệu quả môi trường
22
3.3.5. Lựa chọn các loại hình sử dụng đất (LUT) đạt hiệu quả kinh tế - xã

hội – môi trường
3.3.6. Định hướng sử dụng đất nông nghiệp và giải pháp thực hiện trong
tương lai
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
- Điều tra thu thập số liệu thứ cấp: Thu nhập các tài liệu, số liệu đã có
tại các phòng ban chức năng (Cán bộ địa chính xã, cán bộ khuyến nông của
xã văn phòng thống kê, các tài liệu có liên quan đến tình hình sử dụng đất
nông nghiệp của xã.
- Điều tra thu thập số liệu sơ cấp:
+ Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn(RRA):Thông qua việc thực
tế quan sát, phỏng vấn cán bộ và người dân để điều tra hiện trạng sử dụng đất
của xã, thu thập các thông tin liên quan đến đời sống và tình hình sử dụng đất
nông nghiệp.
+ Phương pháp đánh giá nông thôn có người dân tham gia (PRA): Trực
tiếp tiếp xúc với người dân, tạo cơ hội để trao đổi, bàn bạc đưa ra những khó
khăn, nguyện vọng, kinh nghiệm trong sản xuất. Sử dụng phương pháp PRA
để thu thập số liệu phục vụ phân tích hiện trạng, hiệu quả các loại hình sử
dụng đất và đưa ra các giải pháp trong sử dụng đất nông nghiệp nhằm đảm
bảo tính thực tế, khách quan. Chọn điều tra ngẫu nhiên 50 hộ dân trong xã.
(phiếu điều tra nông hộ _ Phụ lục số 01).
3.4.2. Phương pháp tính hiệu quả các loại hình sử dụng đất
3.4.2.1. Hiệu quả kinh tế
- Tổng giá trị sản phẩm (T): = p
1
q
1
+ p
2
q

2
+ + p
3
q
3
Trong đó:
+ q: khối lượng của từng loại sản phẩm được sản xuất/ ha/năm
23
+ p: giá của từng loại sản phẩm trên thị trường tại cùng một thời điểm
+ T: Tổng giá trị sản phẩm của một ha đất canh tác/năm
- Thu nhập thuần (N): N=T- Csx
Trong đó:
+ N: thu nhập thuần túy của một ha đất canh tác/năm
+ Csx: chi phi sản xuất của một ha đất/năm
- Hiệu quả đồng vốn: Hv= T/ Csx
- Giá trị ngày công lao động: Hlđ= N/ngày công lao động/ha/năm
3.4.2.2. Hiệu quả xã hội
- Đảm bảo an ninh lương thực
- Đáp ứng nhu cầu nông hộ
- Giá trị ngày công lao động nông nghiệp
- Tỷ lệ giảm hộ đói nghèo
- Mức độ giải quyết công an việc làm và thu hút lao động
3.4.2.3. Hiệu quả môi trường
- Tỷ lệ che phủ
- Khả năng bảo vệ, cải tạo đất
- Ý thức của người dân trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật
3.4.3. Phương pháp tính toán phân tích số liệu
- Số liệu được kiểm tra, xử lý tính toán bằng phương pháp thủ công.

24

PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Tân Đoàn, huyện Văn
quan, tỉnh Lạng Sơn
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Xã Tân Đoàn nằm ở phía Đông Nam huyện Văn Quan, cách trung tâm
huyện 22 km về phía Đông. Diện tích tự nhiên là 2.083,24 ha, có vị trí địa lý
như sau:
- Phía Đông bắc giáp xã Tràng Các
- Phía Đông giáp xã Tân Thành huyện Cao Lộc
- Phía Tây giáp xã Tràng Sơn và Yên Phúc
- Phía Nam giáp xã Tràng Phái
- Phía Bắc giáp xã Chu Túc
4.1.1.2. Địa hình, địa mạo
Địa hình của xã thuộc vùng núi thấp, đỉnh cao nhất là 754m. Địa hình
dốc hình lòng máng, mức độ chia cắt không mạnh. Độ dốc trung bình 22
0
C –
25
0
C, bao gồm một số loại như sau:
a. Địa hình núi đất
Tập trung thành 3 dãy lớn chạy từ Bắc xuống Nam. Dãy phía Đông tiếp
giáp với xã Tràng Các. Dãy phía Tây tiếp giáp với xã Tràng Sơn. Dãy ở giữa
lớn nhất, cùng 2 dãy trên tạo ra 2 thung lũng lớn hình lòng máng, Mương dốc
chính là Đông Nam và Tây Nam. Độ cao trung bình 550m; độ dốc cấp III,
tring bình 23
0
, thuận lợi cho trồng cây ăn quả và cây lâm nghiệp [1].

×