ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NÔNG VĂN HỰU
Tên đề tài:
“ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT SỬ DỤNG ĐẤT
NÔNG NGHIỆP HỢP LÝ XÃ CỐC ĐÁN, HUYỆN NGÂN SƠN
TỈNH BẮC KẠN”
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Địa chính môi trường
Khoa : Quản lý Tài Nguyên
Khóa học : 2010 – 2014
Giảng viên hướng dẫn : Th.S Hoàng Hữu Chiến
Thái Nguyên, năm 2014
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1. Dân số của xã Cốc Đán giai đoạn 2011-2013 30
Bảng 4.2. Tình hình sản xuất một số cây trồng chính của xã Cốc Đán 31
qua các năm 2011 – 2013 31
Bảng 4.3. Tình hình vật nuôi qua các năm của xã từ năm 2011-2013 31
Bảng 4.4. Hiện trạng sử dụng đất năm 2013 của xã Cốc Đán 36
Bảng 4.5. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp năm 2013 của xã Cốc Đán 37
Bảng 4.6.Tình hình biến động diện tích đất nông nghiệp 38
giai đoạn 2011-2013 của xã Cốc Đán 38
Bảng 4.7. Hiện trạng sử dụng đất phi nông nghiệp
và đất chưa sử dụng của xã năm 2013 40
Bảng 4.8.Tình hình biến động diện tích đất phi nông nghiệp 41
và đất chưa sử dụng của xã giai đoạn 2011-2013 41
Bảng 4.9. Hiệu quả kinh tế các loại hình sử dụng đất nông nghiệp 44
MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục đích, yêu cầu của đề tài 2
1.2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài 2
1.2.2. Yêu cầu của đề tài 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài 3
PHẦN 2. TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU 4
2.1. Một số lý luận về việc sử dụng đất nông nghiệp và
tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên Thế Giới 4
2.1.1. Một số lý luận về sử dụng đất nông nghiệp 4
2.1.2. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên Thế Giới 7
2.2. Đánh giá tính hiệu quả và tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp 9
2.2.1. Sự cần thiết đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 9
2.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới sử dụng đất nông nghiệp 10
2.2.3. Khái quát về hiệu quả và hiệu quả sử dụng đất 13
2.2.4. Sử dụng đất bền vững 16
2.3. Đánh giá loại hình sử dụng đất theo phương pháp đánh giá đất của FAO 19
2.3.1. Loại hình sử dụng đất 19
2.3.2. Nội dung chính của đánh giá các loại hình sử dụng đất 19
2.4. Những nghiên cứu về nâng cao hiệu quả sử dụng đất trên Thế Giới và
Việt Nam 19
2.4.1. Những nghiên cứu trên Thế Giới 19
2.4.2. Những nghiên cứu của Việt Nam 21
PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 23
3.1. Đối tượng nghiên cứu 23
3.2. Phạm vi nghiên cứu 23
3.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 23
3.4. Nội dung nghiên cứu 23
3.4.1. Điều tra, nghiên cứu điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội xã Cốc Đán . 23
3.4.2. Điều tra, xác định các loại hình sử dụng đất chính của xã Cốc Đán 23
3.4.3. Đánh giá hiệu quả của các loại hình sử dụng đất chính 23
3.4.4. Xác định các yêu cầu sử dụng của các loại hình sử dụng đất (LUT)
có triển vọng và định hướng sử dụng đất nông nghiệp 23
3.4.5. Đề xuất một số giải pháp sử dụng đất nông nghiệp hợp lý
trên cơ sở kết quả nghiên cứu đánh giá LUT của xã Cốc Đán 23
3.5. Phương pháp nghiên cứu 23
3.5.1. Phương pháp điều tra số liệu thứ cấp 23
3.5.2. Phương pháp điều tra số liệu sơ cấp 24
3.5.3. Phương pháp khảo sát thực địa 24
3.5.4. Phương pháp xử lý số liệu điều tra 24
3.5.5. Phương pháp tính hiệu quả sử dụng đất 24
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 26
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Cốc Đán 26
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 26
4.1.2. Điều kiện kinh tế-xã hội của xã Cốc Đán 29
4.1.3. Tình hình quản lý đất đai và hiện trạng sử dụng đất 33
4.2. Xác định, mô tả và đánh giá hiệu quả các LUT hiện tại 42
4.2.1. Xác định và mô tả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp chính
của xã Cốc Đán 42
4.2.2. Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp chính
của xã Cốc Đán 44
4.3. Đề xuất hướng sử dụng đất nông nghiệp hợp lý 47
4.3.1. Cơ sở khoa học, thực tiễn của các đề xuất 47
4.3.2. Đề xuất các loại hình sử dụng đất có triển vọng 49
4.4. Đề xuất một số giải pháp thực hiện 50
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 53
5.1. Kết luận 53
5.1.1. Tình hình cơ bản của xã Cốc Đán. 53
5.1.2. Kết quả đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của xã Cốc Đán 53
5.2. Kiến nghị 54
1
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất là một bộ phận hợp thành quan trọng của môi trường sống, không
chỉ là tài nguyên thiên nhiên mà còn là nền tảng để định cư và tổ chức hoạt
động kinh tế, xã hội, không chỉ là đối tượng của lao động mà còn là tư liệu sản
xuất đặc biệt không thể thay thế trong sản xuất nông - lâm nghiệp. Chính vì
vậy, sử dụng đất nông nghiệp là hợp thành của chiến lược phát triển nông
nghiệp bền vững và cân bằng sinh thái.
Do sức ép của đô thị hoá và sự gia tăng dân số, đất nông nghiệp đang
đứng trước nguy cơ suy giảm về số lượng và chất lượng. Con người đã và đang
khai thác quá mức mà chưa có biện pháp hợp lý để bảo vệ đất đai. Hiện nay,
việc sử dụng đất đai hợp lý, xây dựng một nền nông nghiệp sạch, sản xuất ra
nhiều sản phẩm chất lượng đảm bảo môi trường sinh thái ổn định và phát triển
bền vững đang là vấn đề mang tính toàn cầu. Thực chất của mục tiêu này chính
là vừa đem lại hiệu quả kinh tế, vừa đem lại hiệu quả xã hội và môi trường.
Đứng trước thực trạng trên, nghiên cứu thực trạng, tiềm năng đất đai,
tìm hiểu một số loại hình sử dụng đất nông nghiệp, đánh giá mức độ thích hợp
của các loại hình sử dụng đất đó làm cơ sở cho việc đề xuất sử dụng đất hợp
lý, hiệu quả, đảm bảo sự phát triển bền vững là vấn đề có tính chiến lược và
cấp thiết của Quốc gia và của từng địa phương.
Cốc Đán là một xã nông nghiệp nằm ở phía bắc của huyện Ngân Sơn
trong những năm qua, nền sản xuất nông nghiệp của xã đã được chú trọng đầu
tư phát triển. Năng suất, sản lượng không ngừng tăng lên, đời sống vật chất
tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Song trong nền sản xuất nông
nghiệp của xã còn tồn tại nhiều yếu điểm đang làm giảm sút về chất lượng do
2
quá trình khai thác sử dụng không hợp lý: trình độ khoa học kỹ thuật, chính
sách quản lý, tổ chức sản xuất còn hạn chế, tư liệu sản xuất giản đơn, kỹ thuật
canh tác truyền thống, đặc biệt là việc độc canh cây lúa ở một số nơi đã không
phát huy được tiềm năng đất đai mà còn có xu thế làm cho nguồn tài nguyên
đất có xu hướng bị thoái hoá.
Nghiên cứu đánh giá các loại hình sử dụng đất hiện tại, đánh giá đúng mức
độ của các loại hình sử dụng đất để tổ chức sử dụng đất hợp lý có hiệu quả cao
theo quan điểm bền vững làm cơ sở cho việc đề xuất quy hoạch sử dụng đất và
định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp của xã là vấn đề cấp thiết.
Xuất phát từ thực tiễn trên, được sự đồng ý của Ban giám hiệu Nhà
Trường, Ban chủ nhiệm Khoa Quản lý Tài Nguyên - Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên và với sự hướng dẫn trực tiếp của Thầy giáo - Th.S Hoàng
Hữu Chiến, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá thực trạng và đề
xuất sử dụng đất nông nghiệp hợp lý xã Cốc Đán, huyện Ngân Sơn, tỉnh
Bắc Kạn”.
1.2. Mục đích, yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Đánh giá hiện trạng các loại hình sử dụng đất cùng hiệu quả kinh tế xã
hội môi trường nhằm phát hiện những thuận lợi, khó khăn của việc phát triển
các loại hình sử dụng đất thích hợp.
- Đề xuất các giải pháp sử dụng đất nông nghiệp hợp lý xã Cốc Đán,
huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn.
1.2.2. Yêu cầu của đề tài
- Điều tra, đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Cốc Đán
phát hiện những tiềm năng và tồn tại trong sử dụng đất nông nghiệp.
- Điều tra, xác định các loại hình sử dụng đất hiện tại và đánh giá tiềm
năng các loại hình sử dụng đất chính, phát hiện các yếu tố hạn chế của các các
3
loại hình sử dụng đất hiện tại.
- Trên cơ sở đánh giá yêu cầu sử dụng đất và hiệu quả của các loại hình
sử dụng đất, đề xuất các giải pháp sử dụng đất nông nghiệp hợp lý xã Cốc
Đán, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học: Giúp củng cố thêm
kiến thức đã học, vận dụng kiến thức lý thuyết vào thực tiễn. Đồng thời là cơ
hội để học hỏi kinh nghiệm làm việc và nâng cao năng lực của bản thân.
- Ý nghĩa thực tiễn sản xuất: Đánh giá được hiện trạng sử dụng đất, chỉ
ra những thuận lợi khó khăn của việc sử dụng đất nông nghiệp. Đánh giá hiệu
quả kinh tế xã hội và môi trường từ đó đưa ra được những loại hình sử dụng
đất mang lại hiệu quả cao. Là cơ sở cho quy hoạch sử dụng đất, đưa ra những
chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao đời sống nhân dân
trong thời gian tới.
4
PHẦN 2
TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU
2.1. Một số lý luận về việc sử dụng đất nông nghiệp và tình hình sử dụng
đất nông nghiệp trên Thế Giới
2.1.1. Một số lý luận về sử dụng đất nông nghiệp
2.1.1.1. Đất nông nghiệp
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên ban tặng cho con
người, con người sinh ra trên đất, sống và lớn lên nhờ vào sản phẩm của đất. Tuy
vậy, không phải ai cũng hiểu đất là gì? Đất sinh ra từ đâu? Tại sao lại phải giữ gìn
bảo vệ nguồn tài nguyên này. Học giả người Nga, Docutraiep cho rằng “Đất là vật
thể thiên nhiên cấu tạo độc lập, lâu đời do kết quả của quá trình hoạt động tổng hợp
của 5 yếu tố hình thành bao gồm: đá, thực vật, động vật, khí hậu, địa hình, thời
gian”. Bàn về vấn đề này, C.Mác đã viết: “Đất là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ biến
quý báu nhất của sản xuất nông nghiệp”, “Điều kiện không thể thiếu được của sự
tồn tại và sinh sống của hàng loạt thế hệ loài người kế tiếp nhau”. Theo quan niệm
của các nhà thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho rằng “Đất là phần trên mặt của
vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể mọc được” và đất đai được hiểu theo nghĩa rộng:
“Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các yếu tố cấu
thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt bao gồm: khí hậu, thời tiết,
thổ nhưỡng, địa hình, mặt nước, các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm
và khoáng sản trong lòng đất, động thực vật, trạng thái định cư của con người,
những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại” [2].
Với ý nghĩa đó, đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản
xuất của các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản
hoặc sử dụng vào mục đích nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Khi nói đất
nông nghiệp người ta nói đất sử dụng chủ yếu vào sản xuất của các ngành nông
5
nghiệp, bởi vì thực tế có trường hợp đất đai được sử dụng vào mục đích khác
nhau của các ngành. Trong trường hợp đó, đất đai được sử dụng chủ yếu cho
hoạt động sản xuất nông nghiệp mới được coi là đất nông nghiệp, nếu không sẽ
là các loại đất khác (tùy theo việc sử dụng vào mục đích nào là chính).
Luật đất đai năm 2003 nêu rõ: “Đất nông nghiệp là đất sử dụng vào
mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp và
nuôi trồng thủy sản, làm muối và mục đích bảo vệ, phát triển rừng, bao gồm
đất sản xuất nông nghiệp, đất sản xuất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản,
đất làm muối và đất nông nghiệp khác”[11].
2.1.1.2. Vai trò của đất nông nghiệp
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên của mỗi quốc gia, đóng vai trò quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, nó là cơ sở tự nhiên, là tiền đề
cho mọi quá trình sản xuất nhưng vai trò của đất đối với mỗi ngành sản xuất có
tầm quan trọng khác nhau. C.Mác đã nhấn mạnh “Lao động chỉ là cha của cải
vật chất, còn đất là mẹ” [2]. Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước thống
nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật” [7], Luật đất đai năm 2003
khẳng định “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn
phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và
quốc phòng”[11]. Trong sản xuất nông lâm nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ
yếu và đặc biệt không thể thay thế, với những đặc điểm:
- Đất đai được coi là tư liệu sản xuất chủ yếu trong sản xuất nông lâm
nghiệp, bởi vì nó vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động trong quá
trình sản xuất. Đất đai là đối tượng bởi lẽ nó là nơi con người thực hiện các
hoạt động của mình tác động vào cây trồng vật nuôi để tạo ra sản phẩm.
- Đất đai là tài nguyên bị hạn chế bởi ranh giới đất liền và bề mặt địa
cầu. Đặc điểm này ảnh hưởng đến khả năng mở rộng quy mô sản xuất nông -
6
lâm nghiệp và sức ép về lao động và việc làm, do nhu cầu nông sản ngày càng
tăng trong khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Việc khai khẩn
đất hoang hóa đưa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp đã làm cho quỹ đất
nông nghiệp tăng lên. Đây là xu hướng vận động cần khuyến khích.
Tuy nhiên, đất đưa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp là đất hoang
hóa, nằm trong quỹ đất chưa sử dụng. Vì vậy, cần phải đầu tư lớn sức người
và sức của. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, cần phải tính toán kỹ để đầu tư
cho công tác này thực sự có hiệu quả.
- Đất đai có vị trí cố định và chất lượng không đồng đều giữa các vùng.
Mỗi vùng đất luôn gắn với các điều kiện tự nhiên (thổ nhưỡng, thời tiết, khí
hậu, nước,…) điều kiện kinh tế - xã hội (dân số, lao động, giao thông, thị
trường,…) và có chất lượng đất khác nhau. Do vậy, việc sử dụng đất đai phải
gắn liền với việc xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho phù hợp để nhằm
đem lại hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở nắm chắc điều kiện của từng vùng
lãnh thổ.
- Đất đai được coi là một loại tài sản, người chủ sử dụng có quyền nhất
định do pháp luật của mỗi nước quy định: Tạo thuận lợi cho việc tập chung,
tích tụ và chuyển hướng sử dụng đất từ đó phát huy được hiệu quả nếu biết sử
dụng đầy đủ và hợp lý.
Như vậy, đất đai là yếu tố hết sức quan trọng và tích cực của quá trình
sản xuất nông nghiệp. Thực tế cho thấy thông qua quá trình phát triển của xã
hội loài người, sự hình thành và phát triển của mọi nền văn minh, các thành
tựu vật chất, văn hoá khoa học đều được xây dựng trên nền tảng cơ bản đó là
đất và sử dụng đất, đặc biệt là đất nông lâm nghiệp. Vì vậy, sử dụng đất hợp
lý, có hiệu quả là một trong những điều kiện quan trọng cho nền kinh tế phát
triển nhanh và bền vững.
7
2.1.1.3. Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp
- Đất nông nghiệp phải được sử dụng đầy đủ, hợp lý. Điều này có nghĩa là
toàn bộ diện tích đất cần được sử dụng hết vào sản xuất, với việc bố trí cơ cấu
cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc điểm của từng loại đất nhằm nâng cao năng
suất cây trồng, vật nuôi đồng thời gìn giữ bảo vệ và nâng cao độ phì của đất.
- Đất nông nghiệp phải được sử dụng đạt hiệu quả cao. Đây là kết quả
của việc sử dụng đầy đủ, hợp lý đất đai, việc xác định hiệu quả sử dụng đất
thông qua tính toán hàng loạt các chỉ tiêu khác nhau: năng suất cây trồng, chi
phí đầu tư, hệ số sử dụng đất, giá cả sản phẩm, tỷ lệ che phủ đất… Muốn nâng
cao hiệu quả sử dụng đất phải thực hiện tốt, đồng bộ các biện pháp kỹ thuật
và chính sách kinh tế - xã hội trên cơ sở đảm bảo an toàn về lượng thực, thực
phẩm, tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và nông lâm sản cho
xuất khẩu [4].
- Đất nông nghiệp cần phải được quản lý và sử dụng một cách bền vững.
Sự bền vững ở đây là sự bền vững cả về số lượng và chất lượng, có nghĩa là đất
đai phải được bảo tồn không chỉ đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
còn cho thế hệ tương lai. Sự bền vững của đất đai gắn liền với điều kiện sinh
thái, môi trường. Vì vậy, các phương thức sử dụng đất nông lâm nghiệp phải gắn
liền với việc bảo vệ môi trường đất, đáp ứng được lợi ích trước mắt và lâu dài.
Như vậy, để sử dụng đất triệt để và có hiệu quả, đảm bảo cho quá trình
sản xuất được liên tục thì việc tuân thủ những nguyên tắc trên là việc làm cần
thiết và hết sức quan trọng với mỗi quốc gia.
2.1.2. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên Thế Giới
Đất nông nghiệp là nhân tố vô cùng quan trọng đối với sản xuất nông
nghiệp. Trên thế giới, mặc dù nền sản xuất nông nghiệp của các nước phát
triển không giống nhau nhưng tầm quan trọng đối với đời sống con người thì
quốc gia nào cũng thừa nhận. Hầu hết các nước coi sản xuất nông nghiệp là cơ
8
sở nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên, khi dân số ngày một tăng nhanh thì
nhu cầu lương thực, thực phẩm là một sức ép rất lớn. Để đảm bảo an ninh
lương thực loài người phải tăng cường các biện pháp khai hoang đất đai. Do
đó, đã phá vỡ cân bằng sinh thái của nhiều vùng, đất đai bị khai thác triệt để
và không còn thời gian nghỉ, các biện pháp gìn giữ độ phì nhiêu cho đất chưa
được coi trọng. Mặt khác, cùng với việc phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội,
công nghệ, khoa học và kỹ thuật, công năng của đất được mở rộng và có vai trò
quan trọng đối với cuộc sống của con người. Nhân loại đã có những bước tiến
kỳ diệu làm thay đổi bộ mặt trái đất và mức sống hằng ngày. Nhưng do chạy
theo lợi nhuận tối đa cục bộ không có một chiến lược phát triển chung nên đã
gây ra những hậu quả tiêu cực như: ô nhiễm môi trường, thoái hoá đất. Kết quả
là hàng loạt diện tích đất bị thoái hoá trên phạm vi toàn thế giới qua các hình
thức bị mất chất dinh dưỡng và chất hữu cơ, bị xói mòn, bị nhiễm mặn và bị
phá hoại cấu trúc của tầng đất Người ta ước tính có tới 15% tổng diện tích
đất trên trái đất bị thoái hoá do những hành động bất cẩn của con người gây ra
[12]. Theo P.Buringh [18], toàn bộ đất có khả năng nông nghiệp của thế giới
chừng 3,3 tỷ ha (chiếm 22% tổng diện tích đất liền); khoảng 78% (xấp xỉ 11,7
tỷ ha) không dùng được vào nông nghiệp.
Đất trồng trọt là đất đang sử dụng, cũng có loại đất hiện tại chưa sử dụng
nhưng có khả năng trồng trọt. Đất đang trồng trọt của thế giới có khoảng 1,5 tỷ
ha (chiếm xấp xỉ 10,8% tổng diện tích đất đai và 46% đất có khả năng trồng
trọt). Như vậy, còn 54% đất có khả năng trồng trọt chưa được khai thác [18].
Đất đai trên thế giới phân bố ở các châu lục không đều. Tuy có diện
tích đất nông nghiệp khá cao so với các Châu lục khác nhưng Châu Á lại có tỷ
lệ diện tích đất nông nghiệp trên tổng diện tích đất tự nhiên thấp. Mặt khác,
châu Á là nơi tập trung phần lớn dân số thế giới, ở đây có các quốc gia dân số
đông nhất nhì thế giới là Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia. Ở Châu Á, đất đồi
9
núi chiếm 35% tổng diện tích. Tiềm năng đất trồng trọt nhờ nước trời nói
chung là khá lớn khoảng 407 triệu ha, trong đó xấp xỉ 282 triệu ha đang được
trồng trọt và khoảng 100 triệu ha chủ yếu nằm trong vùng nhiệt đới ẩm của
Đông Nam Á. Phần lớn diện tích này là đất dốc và chua khoảng 40-60 triệu ha
trước đây vốn là đất rừng tự nhiên, nhưng đến nay do bị khai thác khốc liệt
nên rừng đã bị phá và thảm thực vật đã chuyển thành cây bụi và cỏ dại.
Đất canh tác của thế giới có hạn và được dự đoán là ngày càng tăng do
khai thác thêm những diện tích đất có khả năng nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu
cầu về lương thực thực phẩm cho loài người. Tuy nhiên, do dân số ngày một
tăng nhanh nên bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người ngày một giảm.
Đông Nam Á là một khu vực đặc biệt. Từ số liệu của UNDP năm 1995 [6]
cho ta thấy đây là một khu vực có dân số khá đông trên thế giới nhưng diện tích
đất canh tác thấp, trong đó chỉ có Thái Lan là diện tích đất canh tác trên đầu
người khá nhất, Việt Nam đứng hàng thấp nhất trong số các quốc gia ASEAN.
2.2. Đánh giá tính hiệu quả và tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp
2.2.1. Sự cần thiết đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Thế giới đang sử dụng khoảng 1,5 tỷ ha đất cho sản xuất nông nghiệp.
Tiềm năng đất nông nghiệp của thế giới khoảng 3-5 tỷ ha. Nhân loại đã làm hư
hại khoảng 1,4 tỷ ha đất và hiện nay mỗi năm có khoảng 6 -7 triệu ha đất nông
nghiệp bị bỏ do xói mòn và thoái hoá. Để giải quyết nhu cầu về sản phẩm nông
nghiệp của con người phải thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng và mở
rộng diện tích đất nông nghiệp [21]. Việc điều tra, nghiên cứu đất đai để nắm
vững số lượng và chất lượng đất bao gồm điều tra lập bản đồ đất, đánh giá hiện
trạng sử dụng đất, đánh giá phân hạng đất và quy hoạch sử dụng đất hợp lý là
vấn đề quan trọng mà các quốc gia đang rất quan tâm. Để ngăn chặn những suy
thoái tài nguyên đất đai do sự thiếu hiểu biết của con người, đồng thời nhằm
hướng dẫn những quyết định về sử dụng và quản lý đất đai, sao cho nguồn tài
10
nguyên này có thể được khai thác tốt nhất mà vẫn duy trì được sức sản xuất của
nó trong tương lai, cần thiết phải nghiên cứu thật đầy đủ về tính hiệu quả trong
sử dụng đất, đó là sự kết hợp hài hoà cả 3 lĩnh vực hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã
hội và bảo vệ môi trường trên quan điểm quản lý sử dụng đất bền vững.
2.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới sử dụng đất nông nghiệp
Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất là hết
sức cần thiết, nó giúp cho việc đưa ra những đánh giá phù hợp với từng loại
vùng đất để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng đất. Các nhân tố ảnh hưởng có thể chia ra làm 3 nhóm sau đây:
* Điều kiện tự nhiên: Điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố như đất
đai, khí hậu thời tiết, nước, sinh vật có ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất nông
nghiệp bởi vì đây là cơ sở để sinh vật sinh trưởng, phát triển và tạo sinh khối.
Đánh giá đúng điều kiện tự nhiên là cơ sở xác định cây trồng vật nuôi phù
hợp và định hướng đầu tư thâm canh đúng.
- Đặc điểm lý, hoá tính của đất: Trong sản xuất nông lâm nghịêp, thành
phần cơ giới, kết cấu đất, hàm lượng các chất hữu cơ và vô cơ trong đất
quyết định đến chất lượng đất và sử dụng đất. Quỹ đất đai nhiều hay ít, tốt
hay xấu, có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng đất.
- Nguồn nước và chế độ nước: Là yếu tố rất cần thiết, nó vừa là điều
kiện quan trọng để cây trồng vận chuyển chất dinh dưỡng vừa là vật chất giúp
cho sinh vật sinh trưởng và phát triển.
- Địa hình, độ dốc và thổ nhưỡng: Điều kiện địa hình, độ dốc và thổ
nhưỡng là yếu tố quyết định lớn đến hiệu quả sản xuất, độ phì đất có ảnh
hưởng đến sinh trưởng phát triển và năng suất cây trồng vật nuôi.
- Vị trí địa lý: Vị trí địa lý của từng vùng với sự khác biệt về điều kiện
ánh sáng, nhiệt độ, nguồn nước, gần đường giao thông, khu công nghiệp sẽ
quyết định đến khả năng và hiệu quả sử dụng đất. Vì vậy, trong thực tiễn sử
11
dụng đất nông lâm nghiệp cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế
sẵn có nhằm đạt được hiệu quả cao nhất về kinh tế, xã hội và môi trường.
- Điều kiện khí hậu: Các yếu tố khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến sản
xuất nông nghiệp và điều kiện sinh hoạt của con người. Tổng tích ôn, nhiệt độ
bình quân, sự sai khác nhiệt độ ánh sáng, về thời gian và không gian trực
tiếp ảnh hưởng tới sự phân bố, sinh trưởng và phát triển của cây, thực vật thuỷ
sinh, lượng mưa, bốc hơi có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ nhiệt độ, độ
ẩm của đất, cũng như khả năng đảm bảo cung cấp nước cho sinh trưởng của
cây trồng, gia súc, thuỷ sản [21].
*Biện pháp kỹ thuật canh tác
Biện pháp kỹ thuật canh tác là các tác động của con người vào đất đai,
cây trồng, vật nuôi nhằm tạo nên sự hài hoà giữa các yếu tố của quá trình sản
xuất để hình thành, phân bố và tích luỹ năng suất kinh tế. Theo tác giả Đường
Hồng Dật thì biện pháp kỹ thuật canh tác là những tác động thể hiện sự hiểu
biết sâu sắc của con người về đối tượng sản xuất, về thời tiết,về điều kiện môi
trường và thể hiện những dự báo thông minh và sắc sảo. Lựa chọn các tác
động kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử dụng đầu vào phù hợp với các
quy luật tự nhiên của sinh vật nhằm đạt mục tiêu đề ra [3].
Theo Frank Ellis và Douglass C.North [14], ở các nước phát triển, khi có
tác động tích cực của kỹ thuật, giống mới, thuỷ lợi, phân bón tới hiệu quả thì
cũng đặt ra yêu cầu đối với tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công
nghệ sản xuất tiến bộ là một đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng
trưởng nhanh. Cho đến giữa thế kỷ XXI, trong nông nghiệp Việt Nam, quy
trình kỹ thuật có thể góp phần đến 30% của năng suất kinh tế [3]. Như vậy
nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
khai thác đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
12
* Nhân tố kinh tế - xã hội: Bao gồm rất nhiều nhân tố như chế độ xã hội, dân
số, cơ sở hạ tầng, môi trường chính sách các yếu tố này có ý nghĩa quyết định, chủ
đạo đối với kết quả và hiệu quả sử dụng đất. Sau đây là một số nhân tố chủ yếu:
- Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp. Trong các yếu tố cơ sở
hạ tầng phục vụ sản xuất thì yếu tố giao thông vận tải là quan trọng nhất, nó góp
phần vào việc trao đổi tiêu thụ sản phẩm cũng như dịch vụ những yếu tố đầu vào
cho sản xuất. Các yếu tố khác như thuỷ lợi, điện, thông tin liên lạc, dịch vụ, nông
nghiệp đều có sự ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng. Trong đó thuỷ lợi
và điện là yếu tố không thể thiếu trong điều kiện sản xuất hiện nay, giúp cho việc
sử dụng đất theo bề rộng và bề sâu. Các yếu tố còn lại cũng có hỗ trợ trực tiếp
hoặc gián tiếp đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông lâm sản: Là cầu nối giữa người sản
xuất và tiêu dùng, ở đó người sản xuất thực hiện việc trao đổi hàng hoá, điều này
giúp cho họ thực hiện được tốt quá trình tái sản xuất tiếp theo.
- Trình độ kiến thức, khả năng và tập quán sản xuất của chủ sử dụng đất thể
hiện ở khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, trình độ sản xuất, khả năng về vốn lao
động, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất, kinh nghiệm truyền thống trong
sản xuất và cách xử lý thông tin để ra quyết định trong sản xuất. Do vậy, muốn
nâng cao hiệu quả sử dụng đất thì việc nâng cao trình độ và cập nhật thông tin
khoa học, kỹ thuật là hết sức quan trọng.
- Hệ thống chính sách: Chính sách đất đai, chính sách điều chỉnh cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nông thôn, chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ
sản xuất, chính sách khuyến nông, chính sách hỗ trợ giá, chính sách định canh
định cư, chính sách dân số, lao động việc làm, đào tạo kiến thức, chính sách
khuyến khích đầu tư, chính sách xoá đói giảm nghèo…các chính sách này đã có
những tác động rất lớn đến vấn đề sử dụng đất, phát triển và hình thành các loại
hình sử dụng đất mới.
13
Trong các nhóm nhân tố chủ yếu tác động đến việc sử dụng đất được
trình bày ở trên, từ thực tế từng vùng, từng địa phương có thể nhận biết thêm
những nhân tố khác tác động đến hiệu quả sử dụng đất, trong đó có những yếu
tố thuận lợi và những yếu tố hạn chế. Đối với những yếu tố thuận lợi cần khai
thác hết tiềm năng của nó, những nhân tố hạn chế phải có những giải pháp
khắc phục dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Vấn đề mấu chốt là tìm ra
những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng đất, để có những biện pháp
thay đổi cơ cấu sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả.
2.2.3. Khái quát về hiệu quả và hiệu quả sử dụng đất
Đánh giá đất cho các vùng sinh thái hoặc các vùng lãnh thổ khác nhau
là nhằm tạo ra một sức sản xuất mới, ổn định, bền vững và hợp lý. Trong đó
đánh giá hiệu quả sử dụng đất là một nội dung hết sức quan trọng. Vậy hiệu
quả sử dụng đất là gì?
Theo các nhà khoa học kinh tế Smuel-norhuas: “ Hiệu quả không có
nghĩa là lãng phí. Nghiên cứu hiệu quả sản xuất phải xét đến chi phí cơ hội.
Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng số lượng một loại hàng
hóa này mà không cắt giảm số lượng hàng hóa khác” [14].
Theo trung tâm từ điển ngôn ngữ [15] hiệu quả chính là kết quả cũng
như yêu cầu việc làm mang lại.
Theo khái niệm trên thì hiệu quả sử dụng đất phải là kết quả của quá
trình sử dụng đất. Trong đó ta quan tâm nhiều tới kết quả hữu ích, một đại
lượng vật chất tạo ra do mục đích của con người, được thể hiện bằng những
chỉ tiêu cụ thể xác định. Do tính chất mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên đất đai
là hữu hạn với nhu cầu ngày càng tăng của con người mà ta phải xem xét hiệu
quả sử dụng đất được tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra để tạo ra kết quả đó là
bao nhiêu? Có đưa lại kết quả hữu ích hay không? Chính vì thế khi đánh giá
hoạt động sản xuất nông nghiệp không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả
14
mà còn phải đánh giá chất lượng các hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm đó.
Đánh giá chất lượng của hoạt động sản xuất là nội dung đánh giá hiệu quả.
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu
cây trồng, vật nuôi phù hợp là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của
hầu hết các nước trên thế giới [22]. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các
nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông
nghiệp mà còn là sự mong muốn của người dân, những người trực tiếp tham
gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp.
Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, thực hiện đa dạng hóa cây trồng vật
nuôi trên cơ sở lựa chọn các sản phẩm có ưu thế ở từng địa phương, từ đó
nghiên cứu áp dụng công nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh
tranh cao. Đó là một trong những điều kiện vô cùng quan trọng để phát triển
nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa vừa mang tính ổn định vừa
đảm bảo sự bền vững.
Ngày nay nhiều nhà khoa học cho rằng: xác định đúng khái niệm, bản chất
hiệu quả sử dụng đất phải xuất phát từ luận điểm triết học của Mác và những
nhận thức lý luận của lý thuyết hệ thống, nghĩa là hiệu quả phải được xem xét
trên cả 3 mặt: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trường [14].
* Hiệu quả kinh tế:
Theo CacMac thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là
quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian lao
động theo các ngành sản xuất khác nhau theo các nhà khoa học Đức (Stenien,
Hanau, Rusteruyer, Simmerman-1995): Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh
mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả
hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng
thêm lợi ích xã hội [14].
15
Như vậy hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa kết
quả đạt được và chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả
đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là
phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xét cả về phần
so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa 2
đại lượng đó.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt hiệu quả
kinh tế và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị
đều tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Nếu đạt
được một trong hai yếu tố hiệu quả kĩ thuật và phân bổ thì khi đó sản xuất mới
đạt hiệu quả kinh tế.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng: Bản chất hiệu quả kinh tế sử
dụng đất là: Trên một diện tích đất nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải
vật chất nhiều nhất, với một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động thấp
nhất nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội. Xuất phát từ
lý do này mà trong quá trình đánh giá đất nông nghiệp cần phải chỉ ra được loại
hình sử dụng đất có hiệu quả kinh tế cao.
* Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là phạm trù có liên quan mật thiết với hiệu quả kinh tế và
thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con người, việc lượng hóa các chỉ tiêu
biểu hiện hiệu quả xã hội còn gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu phản ánh bằng các
chỉ tiêu mang tính định tính như tạo công ăn việc làm cho lao động, xóa đói giảm
nghèo, công bằng xã hội, định canh, định cư nâng cao mức sống toàn dân
Trong sử dụng đất nông nghiệp, hiệu quả về mặt xã hội chủ yếu được xác
định bằng khả năng tạo việc làm trên một diện tích đất nông nghiệp. Hiện nay,
việc đánh giá hiệu quả xã hội các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là vấn đề
đang được nhiều nhà khoa học quan tâm.
16
* Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường là một vấn đề mang tính toàn cầu, ngày nay đang
được chú trọng quan tâm và không thể bỏ qua khi đánh giá hiệu quả. Điều này
có ý nghĩa là mọi hoạt động sản xuất, mọi biện pháp khoa học kỹ thuật, mọi
giải pháp quản lý được coi là hiệu quả khi chúng không gây tổn hại hay có
những tác động xấu đến môi trường đất, môi trường nước và môi trường
không khí cũng như không làm ảnh hưởng xấu đến môi sinh và đa dạng sinh
học. Có được điều đó mới đảm bảo cho sự phát triển bền vững của mỗi vùng
lãnh thổ, mỗi quốc gia cũng như cả cộng đồng quốc tế.
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả môi trường là hiệu quả mang tính
lâu dài, vừa đảm bảo lợi ích hiện tại mà không làm ảnh hưởng xấu đến tương
lai, nó gắn chặt với quá trình khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên đất và
môi trường sinh thái.
Sử dụng đất hợp lý, hiệu quả cao và bền vũng phải quan tâm tới cả ba
hiệu quả trên, trong đó hiệu quả kinh tế là trọng tâm, không có hiệu quả kinh
tế thì không có điều kiện nguồn lực để thực thi hiệu quả xã hội và môi trường,
ngược lại, không có hiệu quả xã hội và môi trường thì hiệu quả kinh tế sẽ
không bền vững.
2.2.4. Sử dụng đất bền vững
Vào năm 1991, ở Nairobi đã tổ chức Hội thảo về “Khung đánh giá quản
lý đất bền vững ” đã đưa ra định nghĩa: “ Quản lý bền vững đất đai bao gồm
tổ hợp các công nghệ, chính sách và hoạt động nhằm liên hợp các nguyên lý
kinh tế xã hội với các quan tâm môi trường để đồng thời:
- Duy trì, nâng cao sản lượng (hiệu quả sản xuất).
- Giảm rủi ro sản xuất (an toàn).
- Bảo vệ tiềm năng nguồn lực tự nhiên và ngăn ngừa thoái hoá đất và
nước (bảo vệ).
17
- Có hiệu quả lâu dài (lâu bền).
- Được xã hội chấp nhận (tính chấp nhận) [5].
Năm nguyên tắc trên được coi là trụ cột của sử dụng đất đai bền vững
và là những mục tiêu cần phải đạt được, nếu thực tế diễn ra đồng bộ, so với
các mục tiêu cần phải đạt được. Nếu chỉ đạt một hay một vài mục tiêu mà
không phải tất cả thì khả năng bền vững chỉ mang tính bộ phận.
Vận dụng nguyên tắc trên, ở Việt Nam một loại hình sử dụng đất được
xem là bền vững phải đạt 3 yêu cầu sau:
- Bền vững về kinh tế: Cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị
trường chấp nhận.
Hệ thống sử dụng đất phải có mức năng suất sinh học cao trên mức
bình quân vùng có cùng điều kiện đất đai. Năng suất sinh học bao gồm các
sản phẩm chính và phụ (đối với cây trồng là gỗ, hạt, củ, quả và tàn dư để
lại). Một hệ bền vững phải có năng suất trên mức bình quân vùng, nếu không
sẽ không cạnh tranh được trong cơ chế thị trường.
Về chất lượng: Sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa phương,
trong nước và xuất khẩu, tùy mục tiêu của từng vùng.
Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất
của hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một
giai đoạn hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dưới mức đó
thì nguy cơ người sử dụng đất sẽ không có lãi, hiệu quả vốn đầu tư phải lớn
hơn lãi suất tiền vay vốn ngân hàng.
- Bền vững về mặt xã hội: Thu hút được lao động, đảm bảo đời sống và
phát triển xã hội.
Đáp ứng nhu cầu của nông hộ là điều quan tâm trước, nếu muốn họ
quan tâm đến lợi ích lâu dài (bảo vệ đất, môi trường ). Sản phẩm thu được
cần thoả mãn cái ăn, cái mặc, và nhu cầu sống hàng ngày của người nông dân.
18
Nội lực và nguồn lực địa phương phải được phát huy. Về đất đai, hệ thống
sử dụng đất phải được tổ chức trên đất mà nông dân có quyền hưởng thụ lâu dài,
đất đã được giao và rừng đã được khoán với lợi ích các bên cụ thể.
Sử dụng đất sẽ bền vững nếu phù hợp với nền văn hoá dân tộc và tập
quán địa phương, nếu ngược lại sẽ không được cộng đồng ủng hộ.
- Bền vững về môi trường: Loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được độ
màu mỡ của đất, ngăn chặn thoái hoá đất và bảo vệ môi trường sinh thái.
Giữ đất được thể hiện bằng giảm thiểu lượng đất mất hàng năm dưới
mức cho phép.
Độ phì nhiêu đất tăng dần là yêu cầu bắt buộc đối với quản lý sử dụng
bền vững.
Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%).
Đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài (đa canh bền vững hơn
độc canh, cây lâu năm có khả năng bảo vệ đất tốt hơn cây hàng năm ).
Ba yêu cầu bền vững trên là để xem xét và đánh giá các loại hình sử
dụng đất hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá các yêu cầu trên để
giúp cho việc định hướng phát triển nông nghiệp ở vùng sinh thái [5].
Tóm lại: khái niệm sử dụng đất đai bền vững do con người đưa ra được
thể hiện trong nhiều hoạt động sử dụng và quản lý đất đai theo các mục đích
mà con người đã lựa chọn cho từng vùng đất xác định. Đối với sản xuất nông
nghiệp việc sử dụng đất bền vững phải đạt được trên cơ sở đảm bảo khả năng
sản xuất ổn định của cây trồng, chất lượng tài nguyên đất không suy giảm
theo thời gian và việc sử dụng đất không ảnh hưởng xấu đến môi trường sống
của con người, của các sinh vật.
19
2.3. Đánh giá loại hình sử dụng đất theo phương pháp đánh giá đất của FAO
2.3.1. Loại hình sử dụng đất
Trong đánh giá đất, FAO đã đưa ra những khái niệm về loại hình sử
dụng đất, đưa vào nội dụng các bước đánh giá đất và coi loại hình sử dụng đất
là một đối tượng dùng trong đánh giá đất.
Loại hình Sử dụng đất (Land Use Types-LUT): Là bức tranh mô tả thực
trạng sử dụng đất của mỗi vùng với những phương thức sản xuất và quản lý sản
xuất trong điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội và kỹ thuật được xác định [13].
2.3.2. Nội dung chính của đánh giá các loại hình sử dụng đất
- Lựa chọn và mô tả các loại hình sử dụng đất hiện tại.
- Đánh giá các loại hình sử dụng đất hiện tại trên ba mặt:
+ Hiệu quả về kinh tế: Cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao và được thị
trường chấp nhận.
+ Hiệu quả về môi trường: Loại hình sử dụng đất bảo vệ được đất đai,
ngăn chặn sự thoái hoá đất, bảo vệ môi trường tự nhiên.
+ Hiệu quả về xã hội: Thu hút được nhiều lao động, đảm bảo đời sống
người dân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
- Lựa chọn các loại hình sử dụng đất có triển vọng: Lựa chọn các loại
hình sử dụng đất để có thể duy trì và phát triển trong tương lai cần thoả mãn
các điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường. Nói chung nếu có
hiệu quả kinh tế cao thì phải được người dân chấp nhận và môi trường đất,
nước và không khí không bị suy giảm.
2.4. Những nghiên cứu về nâng cao hiệu quả sử dụng đất trên Thế Giới
và Việt Nam
2.4.1. Những nghiên cứu trên Thế Giới
Cho tới nay, trên thế giới đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu, đề ra nhiều
phương pháp đánh giá để tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp theo hướng phát triển hàng hoá. Nhưng tuỳ thuộc vào điều kiện, trình độ
và phương thức sử dụng đất ở mỗi nước mà có sự đánh giá khác nhau.
20
Hàng năm các viện nghiên cứu nông nghiệp ở các nước trên thế giới
đều nghiên cứu và đưa ra được một số giống cây trồng mới, giúp cho việc tạo
ra được một số loại hình sử dụng đất mới ngày càng có hiệu quả hơn. Viện
lúa quốc tế IRRI đã có nhiều thành tựu về lĩnh vực giống lúa và hệ thống cây
trồng trên đất canh tác. Tạp chí " Farming Japan" của Nhật Bản ra hàng tháng
đã giới thiệu nhiều công trình ở các nước trên thế giới về các hình thức sử
dụng đất, điển hình là của Nhật. Nhà Khoa học Nhật Bản Otak Tanakad đã
nêu lên những vấn đề cơ bản về sự hình thành của sinh thái đồng ruộng từ đó
cho rằng yếu tố quyết định của hệ thống nông nghiệp là sự thay đổi về kỹ
thuật, kinh tế- xã hội. Các nhà khoa học Nhật Bản đã hệ thống hoá tiêu chuẩn
hiệu quả sử dụng đất thông qua hệ thống cây trồng trên đất canh tác là sự phối
hợp giữa các cây trồng và gia súc, các phương pháp trồng trọt và chăn nuôi,
độ sở hữu, giao đất cho nông dân sử dụng, thiết lập hệ thống trách nhiệm và
tính chủ động sáng tạo của nông dân trong sản xuất đã thúc đẩy kinh tế - xã
hội nông thôn phát triển toàn diện về mọi mặt và nâng cao được hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp [14].
Một trong những chính sách tập trung vào hỗ trợ phát triển nông nghiệp
quan trọng nhất là chính sách đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, ở Mỹ tổng số
tiền trợ cấp là 66,2 tỉ USD (chiếm 28,3% trong tổng thu nhập nông nghiệp),
Canada tương ứng là 5,7 tỉ USD (chiếm 39,1%), Oxtraylia 1,7 tỉ USD (chiếm
14,5%), Nhật Bản là 42,3 tỉ USD (chiếm 68,9%), Cộng đồng Châu Âu 67,2 tỉ
USD (chiếm 40,1%), Áo là 1,6 tỉ USD (chiếm 35,3%) [14].
Các nhà khoa học trên thế giới đều cho rằng: đối với các vùng nhiệt đới
có thể thực hiện các công thức luân canh cây trồng hàng năm, có thể chuyển
từ chế độ canh tác cũ sang chế độ canh tác mới tiến bộ hơn mang lại hiệu quả
cao hơn. Nghiên cứu bố trí luân canh các cây trồng hợp lý hơn bằng cách đưa
các giống cây trồng mới vào hệ thống canh tác nhằm tăng sản lượng lương
thực, thực phẩm/1đơn vị diện tích đất canh tác trong một năm. Ở Châu Á có
21
nhiều nước cũng tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác luân
phiên cây lúa với cây trồng cạn đã thu được hiệu quả cao hơn.
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế nông nghiệp của các nước đã
gắn phương thức sử dụng đất truyền thống với phương thức hiện đại và
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá nông nghiệp. Các nước Châu Á
trong quá trình sử dụng đất canh tác đã rất chú trọng đẩy mạnh công tác thuỷ
lợi, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, phân bón, các công thức luân
canh tiến bộ để ngày càng nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Nhưng
để đạt được hiệu quả thì một phần phải nhờ vào công nghiệp chế biến, gắn sự
phát triển công nghiệp với bảo vệ môi sinh, môi trường.
Xuất phát từ những vấn đề này, nhiều nước trong khu vực đã có sự
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng kết hợp hiệu quả kinh tế, hiệu
quả xã hội với việc bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái, tiến tới
xây dựng nền nông nghiệp sinh thái bền vững.
2.4.2. Những nghiên cứu của Việt Nam
Trong những năm qua, ở Việt Nam nhiều tác giả đã có những công trình
nghiên cứu về sử dụng đất, vì đây là một vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong phát triển sản xuất nông nghiệp. Các nhà khoa học đã chú trọng đến công
tác lai tạo và chọn lọc giống cây trồng mới năng suất cao, chất lượng tốt hơn để
đưa vào sản xuất. Làm phong phú hơn hệ thống cây trồng, góp phần đáng kể vào
việc tăng năng suất cây trồng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Các công trình
nghiên cứu đánh giá tài nguyên đất đai Việt Nam của Nguyễn Khang và Phạm
Dương Ưng (1995) [8]; đánh giá hiện trạng sử dụng đất theo quan điểm sinh thái
và phát triển lâu bền [20]; phân vùng sinh thái nông nghiệp vùng đồng bằng
Sông Hồng [10]; Hay hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác trên đất phù sa Sông
Hồng huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Dương của tác giả Vũ Thị Bình (1993) [1]; Đánh
giá kinh tế đất lúa vùng đồng bằng Sông Hồng, Quyền Đình Hà, (1993) [5].