Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 117 trang )


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Thế kỷ XX đã chứng kiến những thành tựu lớn trong lí luận văn
học. Một trong những thành tựu làm thay đổi các quan niệm cũ về phương
thức tồn tại của tác phẩm văn học, đó là sự ra đời của Mĩ học tiếp nhận(tiếp
nhận văn học). Nếu lí luận văn học tiền hiện đại chỉ chú ý đến tác giả, lí luận
văn học hiện đại đã có những bước tiến quan trọng trong việc khám phá văn
bản văn học như là cấu trúc ngôn từ động thì tư duy lí luận văn học hậu hiện
đại lại có những khám phá mới hơn về đặc trưng bản thể của văn bản văn học
trong quan hệ với những yếu tố khác, với người tiếp nhận. Có thể khẳng định,
sự chuyển đổi từ Mĩ học sáng tạo qua Mĩ học tiếp nhận xứng đáng là một
trong những bước ngoặt quan trọng của tư duy lí luận văn học thế giới. Từ
đây“Mĩ học tiếp nhận nêu lên những giá trị dễ thay đổi, trực tiếp gắn liền với
cá nhân người đọc thông qua quá trình cụ thể hoá văn bản… Từ đây lịch sử
văn học không chỉ đơn giản là con số cộng các tác giả và tác phẩm mà còn
được hiểu là các tác phẩm và người tiếp nhận trong những biến chuyển lịch
sử của nó”[18, tr167].
1.2. Trên văn đàn Việt Nam cuối những năm 80 của thế kỷ XX, xuất
hiện một hiện tượng lạ – hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp. Các sáng tác của ông
ngay sau khi ra đời đã nhanh chóng trở thành tâm điểm chú ý của giới nghiên
cứu phê bình và những người yêu văn chương. Có lẽ ông là tác giả đầu tiên
trong văn học Việt Nam lập kỷ lục có được nhiều bài viết nhất về sáng tác của
mình chỉ trong một thời gian ngắn. Đây là điều đáng mừng cho văn học và
cũng là biểu hiện phong phú của sự tiếp nhận. Qua khảo sát các bài viết, công
trình nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chúng tôi nhận thấy, bạn
đọc đã dùng những hệ qui chiếu khác nhau để soi chiếu vào tác phẩm. Người
nhìn nhận hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp ở phương diện giới thiệu tác giả tác

2


phẩm. Người khác chỉ đánh giá một vài truyện ngắn đơn lẻ hoặc một vài
phương diện về nghệ thuật truyện ngắn nói chung. Xuất phát từ những cách
tiếp cận khác nhau nên các ý kiến đánh giá về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
chỉ là những nhận định mang tính chất riêng lẻ, có lúc cảm tính (khen hết lời
mà chê cũng tột bậc), chưa đi sâu vào những sáng tạo riêng của nhà văn cũng
như chưa có cái nhìn toàn diện về cây bút này. Mặt khác, xung quanh hiện
tượng văn học này vẫn có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng chưa có bài viết nào
thống kê và lí giải tại sao hiện tượng này lại gây nhiều sự tranh luận đến thế.
Cũng có bài viết nêu lên những hướng tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp và ít nhiều liên quan đến vấn đề tiếp nhận, tuy nhiên, chúng tôi cho
rằng, chưa có nhà nghiên cứu – phê bình nào đề cập đến vấn đề tiếp nhận
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp một cách cụ thể, khoa học và hệ thống. Chọn
đề tài “Vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp” chúng tôi sẽ nêu
lên những vấn đề xung quanh hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp và nhìn nhận nó
một cách khoa học bằng ánh sáng của lí thuyết tiếp nhận. Từ đó giúp bạn đọc
hiểu hơn về những đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp đối với văn học nước
nhà.
1.3. Chọn đề tài “Vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, chúng
tôi không những được trở lại những vấn đề về lịch sử văn học mà còn có cơ
hội tiếp cận với những thành tựu của tư duy lí luận văn học hiện đại và hậu
hiện đại, từ đó giúp chúng tôi mở ra những nhận thức mới về phương thức tồn
tại của tác phẩm văn học. Đây cũng là một dịp để chúng tôi khẳng định những
đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp trong quá trình đổi mới văn học nước nhà.
Những sáng tác của ông không chỉ nêu lên những vấn đề bức xúc của đời
sống xã hội mà còn có tác động quan trọng đối với vấn đề tư duy lí luận văn
học về góc độ tác phẩm văn học.

3
1.4. Là một giáo viên dạy văn ở trường phổ thông, tôi nhận thấy vấn đề
tiếp nhận văn học là vấn đề rất cần thiết khi tìm hiểu đúng bản chất của văn

chương. Nhờ nó tôi có thể vận dụng vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy
và học tập văn trong nhà trường .
2. Lịch sử vấn đề
Trong thời kỳ đổi mới văn học nước nhà nửa đầu thế kỷ XX. Hiện
tượng Nguyễn Huy Thiệp ngay khi vừa xuất hiện đã tạo nên một cuộc tranh
luận sôi nổi kéo dài và cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Số lượng
các bài viết về ông rất lớn. Tuy nhiên những ý kiến đánh giá xung quanh tác
phẩm của Nguyễn Huy Thiệp cũng rất khác nhau. Sự đánh giá ấy vô hình
chung đã thừa nhận Nguyễn Huy Thiệp là một hiện tượng văn học phức tạp
và tác phẩm của ông luôn có độ mở lớn. Năm 2001, tác giả Phạm Xuân
Nguyên đã tập hợp, biên soạn những bài viết về Nguyễn Huy Thiệp trong
cuốn sách “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp”[41], giúp cho những ai quan tâm đến
“hiện tượng văn học” này cái nhìn khái quát, khách quan và đa chiều hơn.
Trong cuốn sách này, chúng tôi nhận thấy, các bài biết chủ yếu phân thành hai
luồng chính: phản đối và đồng tình.
Các ý kiến phản đối một phần do người đọc đồng nhất cái phản ánh với
cái được phản ánh, mặt khác, trong thời điểm văn học đã đổi mới, nhưng họ
vẫn dùng nhãn quan một chiều, thụ động để đánh giá tác phẩm nên không
tránh khỏi những hạn chế. Ý kiến phản đối chủ yếu tập trung vào truyện
Tướng về hưu và bộ ba truyện ngắn “giả lịch sử ”(Đặng Anh Đào): Vàng
lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết. Ngoài ra còn một số truyện khác của Nguyễn Huy
Thiệp cũng bị lên án do phản ánh hiện thực quá “tàn nhẫn”. Đó là các ý kiến
của những nhà phê bình như Lê Hà(Các vị tướng nói về phim “Tướng về
hưu”), Tạ Ngọc Liễn(Về truyện ngắn “Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp, Về
mối quan hệ giữa văn và sử), Đỗ Văn Khang(Có một cách đọc “Vàng lửa”;

4
Sự “mơ mộng” và “nghiêm khắc” trong truyện ngắn “Phẩm tiết”; Vì sao văn
của Ngụyên Huy Thiệp ngày càng sa sút), Nguyễn Thúy Ái(Viết như thế,
cũng là một cách bắn súng lục vào quá khứ), Vũ Phan Nguyên(Ba lần đọc

Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp), Hồng Diệu(Một cây bút có tài
nhưng…;Xung quanh sáng tác Nguyễn Huy Thiệp), Mai Ngữ(Cái tâm và cái
tài của người viết), Trung Phương(Chữ nghĩa với tâm hồn)


Bên cạnh đó, các ý kiến đồng tình đã xoáy sâu vào những nét mới mẻ,
những sáng tạo nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và đưa ra
một số khám phá rất có ý nghĩa. Đó là bài phê bình khen ngợi truyện ngắn
“Tướng về hưu” của nhà nghiên cứu văn học Đặng Anh Đào(Khi ông
“Tướng về hưu xuất hiện”), Nguyễn Mạnh Đẩu(Đôi điều cảm nhận sau khi
đọc truyện và xem phim “Tướng về hưu”), Trần Đạo(“Tướng về hưu” một tác
phẩm có tính nghệ thuật) đó là những bài khen ngợi bộ ba truyện "giả lịch
sử " của nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân(Đọc văn phải khác với đọc
sử), Thùy Sương(Về một cách hiểu truyện ngắn “Vàng lửa”),Văn Giá(Bàn
thêm về truyện ngắn“Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp), Trương Hồng
Quang và Nguyễn Xuân Mai(“Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp, “triết học
lịch sử” hay là “Văn xuôi nghệ thuật”), Nguyễn Diệp(Đọc “Phẩm tiết” của
Nguyễn Huy Thiệp), Vương Anh Tuấn(Lịch sử trong quan niệm của Nguyễn
Huy Thiệp), nhà nghiên cứu và phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp(Cuốn
theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp) Đó còn là những bài viết bày tỏ sự khâm
phục và ngưỡng mộ đối với tài năng viết truyện ngắn của nhà văn Nguyễn
Huy Thiệp như các bài viết của: Hoàng Ngọc Hiến(Tôi không chúc bạn
“thuận buồm xuôi gió”), Văn Tâm(“Đọc” Nguyễn Huy Thiệp), Diệp Minh
Tuyền(Nguyễn Huy Thiệp, một tài năng mới), Thái Hòa(Có nghệ thuật ba-rốc
trong các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hay không), Trần Duy
Thanh(Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp), Nguyễn Đăng Mạnh(Truyện ngắn

5
Nguyễn Huy Thiệp, vài cảm nghĩ) Nguyễn Thanh Sơn(Đọc truyện Nguyễn
Huy Thiệp), Đông La(Về cái “Ma lực” trong truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp), Đỗ Đức Hiểu(Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp), Vương Trí Nhàn(Tưởng
tượng về Nguyễn Huy Thiệp) Nhìn chung, các bài viết đều đi từ những đặc
điểm sáng tạo nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và xuất phát
từ cái Tâm của nhà phê bình.
Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ xin điểm lại một vài ý kiến
tiêu biểu xung quanh vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
GS Đặng Anh Đào trong bài "Thị hiếu và lối đọc truyện hiện nay qua
một cuộc tranh luận"[57], bên cạnh việc đánh giá các giá trị của tác phẩm,
còn nêu cụ thể lí do khiến cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhiều tranh
luận, đó là "Nguyễn Huy Thiệp đã gây ra một cái hẫng giữa phát và nhận. Lối
viết đa âm đụng phải lối đọc thánh thư" [57,tr203] và thế là không cùng
"sóng" nên gây tranh cãi. Cũng trong bài viết này bà còn khẳng định "Tác
phẩm Nguyễn Huy Thiệp do sức mạnh gợi mở ra ngoài cuộc đời quá, do thức
dậy quá nhiều liên tưởng, nên mọi người đều gán cho nó sự liên tưởng của
mình và sinh ra cãi nhau. Những người ưa đọc thánh thư bực mình vì muốn
tìm câu phán của nhà văn, có khi lại gắn nhầm, và cho rằng nha văn đã phán
láo. Ngược lại, người đọc thiên về trí tuệ đã phản đối cách đọc ấy, gây nên độ
căng của một cuộc tranh luận khó dứt, và cũng khẳng định đổi mới của thị
hiếu hiện nay" [57,tr204). Ngoài ra trong bài viết "Khi ông Tướng về hưu xuất
hiện"[41,tr21], bà đã nêu ra lối tiếp nhận cũ từ trong truyện thống và lối tiếp
nhận mới của người đọc khi họ đem chúng xem xét truyện ngắn này. Đọc
Tướng về hưu mà người đọc tự tạo ra một khoảng cách để nhìn nhận vấn đề,
trước lối viết thản nhiên và trung hoà của nó, ấy là cách đọc mới. Ngược lại,
ban đọc đọc Tướng về hưu theo trật tự tuyến tính, tìm xem nhân vật nào là
chính diện, nhân vật ấy đã trừng trị cái ác như thế nào? và tiếng nói của nhân

6
vật đó chính là tư tưởng của tác phẩm, ấy là cách đọc cũ. Nhà nghiên cứu này
cho rằng, với Tướng về hưu, "không thể đọc trên một dòng chữ, một đoạn
mạch, mà là ở sự khái quát ở người đọc" [41,tr22].

Thái Hoà trong bài viết "Có nghệ thuật Ba-rốc trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp hay không" [41,tr92], cũng bày tỏ quan điểm của mình về
vấn đề tiếp nhận của người đọc, nhưng ông đề cập đến phương diện nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Thái Hoà cho rằng "nhân vật của
Nguyễn Huy Thiệp mang sức tải của một quan niệm sống, quan niệm xử thế
với người đời những quan niệm khác nhau va chạm, xung đột, bùng nổ
Và chính khi người đọc phản ứng mạnh mẽ với Nguyễn Huy Thiệp, tức cũng
tự trình bày một cách hiểu, một quan niệm về cuộc sống, về văn chương nghệ
thuật"[41,tr95].
Bàn về vấn đề "Đọc văn phải khác với đọc sử"[41,tr179], nhà nghiên
cứu Lại Nguyên Ân cũng cho bạn đọc thấy một vấn đề quan trọng khi tiếp cận
tác phẩm văn học, ấy là cách đọc. Văn chương được quyền hư cấu nên cách
đọc nó khác xa với cách đọc những công trình sử học. Ngoài ra, ông còn đề
cập đến yếu tố văn bản, đó là sự lựa chọn kết thúc mở trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp cũng gây nên những cách hiểu không giống nhau từ phía
người đọc. Nói về truyện Vàng lửa ông viết "Ba đoạn kết dự kiến do vai tôi
tạo ra làm cho câu chuyện trở nên bất định có thể thế này hoặc thế kia.
Nhưng sự bất định của các chi tiết sự kiện lại một lần nữa đánh thức cách
nhìn chủ động, xác định ở từng người đọc"[41,tr182]. Và ông còn khẳng định,
nhà văn "muốn tôn trọng người đọc với sự nhận thức rất độc lập của họ thì
nên để họ tự xác lập lấy các nhận định của họ"[41,tr183].
Xuất phát từ quan điểm thi pháp học, GS Đỗ Đức Hiểu trong quá trình
"Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp" [41,tr472] đã nhận thấy một số tác phẩm văn học
thế kỷ XX rất khó đọc, khó hiểu, trong đó có truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.

7
Vì thế, "người đọc không còn thụ động thưởng thức tác phẩm văn học, mà trở
thành người đọc tích cực: đọc là một cuộc phiêu lưu giữa văn bản ngôn từ
người đọc phải từ bỏ lối đọc truyền thống và phải rèn luyện cách đọc tích
cực, tức là phải khám phá, phải cùng nhà văn sáng tạo"[41,tr477].

Văn Giá trong bài "Bàn thêm về Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp"
[41,tr205] đã nhận xét về cách kết thúc "mở" trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp: "Một số truyện ngắn gần đây của Nguyễn Huy Thiệp không có kết thúc
rành mạch theo những phương pháp dễ dãi. Anh luôn đưa ra những giả định
có thể thế này, thế kia, thế khác nữa, hối thúc người đọc suy nghĩ tự tìm ra lối
kết thúc theo lối riêng của mình không cho phép biếng lười ăn sẵn. Nhìn rộng
hơn, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhiều tầng ý nghĩa được nén lại trong
sự trình bày kiệm lời. Một số nhân vật của anh ta là những ẩn dụ đa
nghĩa"[41,tr205].
Có thể thấy, các ý kiến trên đã đề cập đến yếu tố văn bản và cách đọc
đã đem đến cho người tiếp nhận những kết quả khác nhau khi cùng tiếp cận
một tác phẩm văn học. Không phải ngẫu nhiên, sự xuất hiện của Nguyễn Huy
Thiệp lại tạo thành hai luồng ý kiến: khen, chê rõ ràng, không phải chỉ liên
quan đến một nhóm người mà liên quan đến cả nước. Trước hiện tượng tiếp
nhận như vậy, ai đúng? ai sai? Dưới ánh sáng của lí thuyết tiếp nhận thế kỷ
XX mà chúng tôi sẽ giới thiệu dưới đây có thể lí giải hiện tượng Nguyễn Huy
Thiệp trên cơ sở khoa học.
Những năm đầu thế kỷ XX, trên thế giới đã có nhiều nhà lí luận nghiên
cứu về lí thuyết tiếp nhận(đặc biệt ở phương Tây). Dựa trên những kết quả
nghiên cứu tác phẩm văn học theo Hiện tượng học của Husserl, Roman
Ingarden là người đầu tiên cho ra đời công trình “Tác phẩm văn học”[32].
Ông tìm ra những khả năng khác nhau để lĩnh hội và lí giải giá trị tác phẩm
văn học. Ông nhấn mạnh: “Tác phẩm văn học không đồng nhất với moi sự

8
đọc và trong phê bình văn học, những ý kiến khác nhau không liên quan đến
bản thân tác phẩm mà chỉ liên quan đến sự cụ thể hoá của từng nhà phê
bình” [12,tr43]. Ngoài ra Heidegger và những đồng nghiệp của ông đã tạo ra
những biến thể mới của Hiện tượng học như Tường giải học, Mĩ học tiếp
nhận.

Quan điểm của Heidegger đã được một người Đức khác - nhà tường
giải học triết học lớn là Hans Goerg Gadame tiếp tục phát triển trong công
trình triết học nghệ thật nổi tiếng “Chân lí và phương pháp” (1960). Tác giả
đặt ra những vấn đề hoàn toàn mới mẻ cho Lí luận văn học. Đó là “Nghĩa của
văn bản thể hiện qua cái gì? Vai trò của sự chủ ý của nhà văn trong nghĩa
này là gì? Có thể hiểu được những tác phẩm mà về mặt lịch sử và văn hoá là
xa lạ đối với người đọc? Có thể có sự hiểu “khách quan” hay mọi sự hiểu đều
lệ thuộc vào tình thế lịch sử cụ thể” [16,tr15]. Khám phá sự vận động của cấu
trúc ngôn từ động của văn bản nghệ thuật, H.G. Gadamer đã đặt tiền đề quan
trọng để lí luận văn học tiến thêm một bước xa hơn, thấy được văn bản nghệ
thuật còn có những khả năng mới trong quan hệ với những yếu tố khác, với
người tiếp nhận.
Dựa trên lí luận của H.G. Gadamer, những năm 60 của thế kỷ XX,
Hans Robert Jauss và Wolfgang Iser và các nhà khoa học khác tuy có những
quan điểm không giống nhau nhưng họ vẫn có điểm đồng nhất đó là vấn đề:
Sự hiểu một văn bản văn học xảy ra như thế nào? Những người đọc thuộc các
nhóm xã hội- lịch sử và các thời đại khác nhau có những kinh nghiệm gì trong
việc tiếp nhận văn bản. Đây chính là bước phát triển mới của Tường giải học.
Lần đầu tiên, sau một thời gian chỉ chú ý đến tác giả, văn bản, người ta đã
quan tâm đến người đọc, nghiên cứu vai trò người đọc đối với sự tồn tại của
tác phẩm văn học. Từ đây, lịch sử văn học theo Mĩ học tiếp nhận, không đơn
giản chỉ là lịch sử của những tác phẩm và tác giả, mà còn là lịch sử tiếp nhận

9
của người đọc. Với công trình “Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với
khoa học văn học”[33] H. R Jauss đã xây dựng một lý thuyết tường giải học
mới. Theo quan điểm của ông, sự tồn tại của tác phẩm không thể hình dung
được nếu thiếu sự tham gia của người đọc. Từ phương diện tiếp cận tác phẩm
văn học văn học này, về sau Derrida cũng cho rằng: "Văn bản văn học không
khép kín, nghĩa của nó không bị trói buộc bằng sự giúp đỡ của tác giả hay là

sự liên quan với hiện thực; văn bản văn học luôn mở, nó cần được bổ sung và
tạo khả năng bổ sung" [14,tr7].
Như vậy, Mĩ học tiếp nhận đã bác bỏ tính chất khép kín của văn bản
văn học mà mĩ học sáng tạo trước đây vẫn bảo vệ, thay vào đó là tính chất mở
và dấu ấn cá nhân. Ý nghĩa của văn bản ngày càng phong phú đa dạng nhờ
người đọc. Đây là hướng nghiên cứu mới về tác phẩm văn học của tư duy lí
luận văn học hiện đại. Thành tựu của lí luận văn học hiện đại trên đây, ít
nhiều liên quan đến vấn đề tiếp nhận tác phẩm văn học nói chung và vấn đề
tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, là đề tài mà chúng tôi đang nghiên
cứu nói riêng.
Cùng với thế giới tình hình nghiên cứu lí luận ở việt Nam cũng ảnh
hưởng theo xu hướng trên. Từ khoảng những năm 70 của thế kỷ XX, rải rác
trên các báo, các tạp chí đã xuất hiện những bài báo nghiên cứu về tiếp nhận
văn học. Đó là các tác giả Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Phan Anh.
Những năm 80, có các bài viết của Hoàng Trinh, Văn học so sánh và
vấn đề tiếp nhận văn học[63]; Giao tiếp văn học [64] và của Nguyễn Văn
Dân: Nghiên cứu sự tiếp nhận văn học trên quan điểm liên ngành[6]. Nhìn
chung, những bài viết của hai nhà nghiên cứu này đều nhấn mạnh sự tác động
của người đọc đối với văn học và thừa nhận vấn đề tiếp nhận văn học là một
vấn đề quan trọng cần được nghiên cứu, nhất là ở nền lý luận văn học nước ta
hiện nay.

10
Vấn đề tiếp nhận văn học thực sự được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn
ở thập niên 90. Đó là bài viết của các tác giả Nguyễn Lai: Tiếp nhận văn học
– một số vấn đề thời sự [35]; Nguyễn Thanh Hùng: Trao đổi thêm về tiếp
nhận văn học[31]. Năm 1991 Nguyễn Văn Dân đã biên soạn và giới thiệu
cuốn sách “Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận”[7]. Tác giả đã đưa ra vấn đề
về chủ thể tiếp nhận theo quan điểm của H.R.Jauss. Đây là một công trình
tương đối có hệ thống trong việc giới thiệu lý thuyết tiếp nhận trong thời điểm

này.
Năm 1992 trên Tạp chí văn học số 1, Nguyễn Thị Thanh Thủy đề cập
đến vấn đề: Tiếp nhận văn bản văn chương trên phương diện các phạm trù ý.
[60]. Năm 1995 bà tiếp tục phân tích vai trò của kinh nghiệm thẩm mỹ trong
việc tiếp nhận tác phẩm văn chương[61]. Năm 1993, Đỗ Đức Hiểu cũng bàn
đến sự đọc của chủ thể tiếp nhận trong bài “Đổi mới và phê bình văn học”
[28].
Nói chung từ thập niên 90 của thế kỷ 20 các nhà nghiên cứu, các giáo
sư, giảng viên đã quan tâm đến lý thuyết tiếp nhận trong nghiên cứu và giảng
dạy. Điều đó được thể hiện trong những giáo trình văn học từ năm 1997 trở
lại đây. Các nhà nghiên cứu Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Văn Hạnh,
Huỳnh Như Phương, Từ Sơn… đều có những bài viết về tiếp nhận tiếp nhận
văn học. Năm 1998, trong công trình viết chung với Nguyễn Văn Hạnh, nhà
nghiên cứu Huỳnh Như Phương đã nhấn mạnh đến lập trường và sự lý giải
của người đọc.
Riêng nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã có nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề tiếp nhận như: Mấy vấn đề tiếp nhận văn học, Lý luận tiếp nhận và
phê bình văn học, Ngôn ngữ với việc lĩnh hội tác phẩm thơ…đã lý giải những
vấn đề cơ bản nhất của lý thuyết tiếp nhận giúp chúng tôi có cái nhìn cụ thể
hơn về lý thuyết tiếp nhận, để có thể vận dụng tốt vào đề tài đang nghiên cứu.

11
Năm 1997, nhà nghiên cứu Phương Lựu đã viết "Giáo trình tiếp nhận
văn học"[36]. Trong công trình này, ông chỉ ra cả ưu và nhược điểm của Mĩ
học tiếp nhận thế kỷ XX, từ đó hoạt động tiếp nhận văn học được ông xem xét
trên hai bình diện vĩ mô và vi mô. Lý thuyết tiếp nhận còn được ông giới
thiệu trong một số công trình khác như giáo trình Lí luận văn học, Lý luận
phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, Mười trường phái phê bình văn học
phương Tây Có thể nói, những công trình có bàn về vấn đề tiếp nhận, được
trình bày ngắn gọn, súc tích mang tính chất định hướng, giúp chúng tôi có cái

nhìn tổng thể về sự phát triển của lý thuyết tiếp nhận.
Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Trịnh Bá Đĩnh thì “người có thành
tích nhất trong việc giới thiệu lý thuyết này ở nước ta là Trương Đăng Dung”.
Thực ra vấn đề này đã có nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến nhưng đến những
năm cuối của thập niên 90 mới được Trương Đăng Dung nghiên cứu một cách
khoa học và hệ thống. Trong công trình “Từ văn bản đến tác phẩm văn học”
[11], tác giả đặt ra vấn đề: tính chất mở của tác phẩm là điều kiện của sự
thưởng thức thẩm mĩ. Nhưng ấn tượng thẩm mĩ xuất hiện từ đâu? Theo ông
giữa các cực của tính chủ ý và không chủ ý, ấn tượng thẩm mĩ xuất hiện trong
sự di động này. Ông còn cho rằng mỗi lần đọc là một lần người đọc “vấp
ngã” vào văn bản. Ở tạp chí Văn học nước ngoài số 4 - 2003, trong bài viết
“Phương thức tồn tại của tác phẩm văn học”[13] ông nhấn mạnh đến vai trò
của chủ thể tiếp nhận, đó là: “Tác phẩm văn học phụ thuộc vào những hoạt
động cụ thể hoá (đọc) có chủ ý của người đọc, và bản thân tác phẩm cũng
hiện ra đúng với diện mạo của nó nếu gặp được sự cụ thể hoá lí tưởng. Sự cụ
thể hoá này mỗi người một vẻ, không giống ai. Như vậy tác phẩm văn học là
vật hai lần có ý thức”[13, tr164) ). Đây là một ý kiến mới so với các công
trình trước đó. Điều này cho thấy chính tính đa nghĩa và độ mở của văn bản
khiến cho những cách lí giải về nó đều có cơ hội tồn tại và trên thực tế không

12
thể có kết luận cuối cùng về giá trị tác phẩm. Đây là cái nhìn thể hiện cảm
quan hậu hiện đại khi nói về đời sống tác phẩm trong tương quan với chủ thể
tiếp nhận. Vẫn ở bài viết này, Trương Đăng Dung nhấn mạnh quan điểm:
"Tác phẩm văn học tồn tại thông qua việc người ta đọc nó và sự tác động của
nó đến người đọc"[13,tr164) và nêu lên hướng tiếp cận phương thức tồn tại
của tác phẩm văn học, trên hai bình diện: một là tính chất ngôn ngữ, cái quyết
định đặc trưng văn học của văn bản; hai là khả năng tạo lập đời sống cụ thể
của văn bản văn học qua người đọc. Đây là những đóng góp đáng quý của
ông vào ý thức đổi mới và hiện đại nền lý luận văn học nước nhà. Ngoài ra ở

tạp chí Nghiên cứu văn học số 3- 2004 Trương Đăng Dung có bài viết :“Văn
bản văn học và sự bất ổn của nghĩa”[15] nhấn mạnh đến sự đọc. Cùng thời
gian trên, nhà nghiên cứu này còn cho xuất bản chuyên luận Tác phẩm văn
học như là quá trình[17]. Việc tiếp cận bản chất của tác phẩm văn học từ đặc
trưng của văn bản và sự tạo nghĩa thông qua người đọc đã cho thấy, tác phẩm
văn học không tĩnh mà động, không phải là sản phẩm cố định mà là quá trình.
Đây là vấn đề quan trọng khi nghiên cứu tác phẩm văn học.
Có thể thấy, những công trình về lý thuyết tiếp nhận trên đã đưa ra
những lý thuyết vừa khái quát vừa cụ thể về tiếp nhận văn học. Qua đây
chúng tôi có thể lí giải được vì sao tác phẩm văn học lại có nhiều cách hiểu
khác nhau. Đồng thời các công trình nghiên cứu về tiếp nhận văn học cho
thấy lý thuyết tiếp nhận tồn tại như một ngành nghiên cứu riêng trong khoa
học văn học. Chúng tôi trân trọng các công trình nghiên cứu đó như những
gợi ý hết sức quý báu có tính chất định hướng trong quá trình thực hiện đề tài
"Vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp".
Trở lại các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi nhận thấy, bên
cạnh các bài viết được tác giả Phạm Xuân Nguyên biên soạn trong cuốn “Đi
tìm Nguyễn Huy Thiệp”[41], truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn trở thành

13
nguồn đề tài hấp dẫn cho nhiều báo cáo khoa học, khoá luận tốt nghiệp, luận
văn của các sinh viên, học viên. Các công trình này đã khai thác được nhiều
những cách tân mới mẻ, độc đáo, từ cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân
vật, tới ngôn từ, giọng điệu Các công trình trên, dù nghiên cứu truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp ở góc độ nào, dù ít hay nhiều, người viết cũng đã bàn đến
những ý kiến khác nhau của người đọc khi tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, từ đó có lí giải, nông hoặc sâu những biểu hiện của lí thuyết tiếp nhận.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, hầu hết các bài viết, công trình nghiên
cứu đó mới chỉ đề cập đến một vài phương diện biểu hiện của lí thuyết tiếp
nhận, chưa có công trình nào tập trung một cách đầy đủ, hệ thống, khoa học

và dựa trên những thành tựu của tư duy lí luận văn học thế kỷ XX để lí giải về
vấn đề tiếp nhận trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Các ý kiến bàn về lí
thuyết tiếp nhận nói chung và vấn đề tiếp nhận trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp nói riêng sẽ có tính chất định hướng cho chúng tôi thực hiện đề tài
này một cách toàn diện hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Luận văn khảo sát các ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê
bình về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, từ đó thấy được các cách tiếp nhận
truyện ngắn của ông. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu đi
trước, trong luận văn này, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu vấn đề tiếp nhận
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp một cách toàn diện và hệ thống. Từ đó giúp
bạn đọc có cái nhìn khách quan nhất về hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp.
3.2. Qua vấn đề tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi
còn trả lời cho những câu hỏi quan trọng của lí luận văn học về tác phẩm văn
học, đó là: phương thức tồn tại của tác phẩm văn học là gì? ý nghĩa của tác
phẩm văn học có phải là nhất thành bất biến?

14
3.3. Với đề tài này, chúng tôi cũng muốn xác định những đóng góp của
Nguyễn Huy Thiệp cho nền văn học nước nhà và chứng minh cho sự phát
triển, đổi mới về tư duy nghệ thuật trong văn học Việt Nam hiện đại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Trong đề tài này, chúng tôi tìm hiểu về lí thuyết tiếp nhận văn học
trong sự vận động của tư duy lí luận văn học. Trên cơ sở lý luận đó, chúng tôi
đi vào thực tế sáng tác văn học sau 1975 ở Việt Nam và lựa chọn hiện tượng
văn học Nguyễn Huy Thiệp và tìm hiểu vấn đề tiếp nhận từ truyện ngắn của
ông. Từ đó, thấy được sự phong phú về ý nghĩa của, các truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp qua mỗi người đọc, ở những thời điểm khác nhau, và làm sáng rõ
một hiện tượng văn học trong thời kỳ đổi mới.
4.2. Các ý kiến, quan điểm tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

rất phong phú và đa dạng. Tuy vậy, ở luận văn này, chúng tôi chủ yếu khảo
sát những ý kiến đánh giá, qua các bài viết trong cuốn “Đi tìm Nguyễn Huy
Thiệp”[41]. Thực hiện luận văn này, chúng tôi lựa chọn cuốn Nguyễn Huy
Thiệp truyện ngắn của Nxb hội nhà văn, tái bản năm 2005.
5. Phương pháp nghiên cứu
_ Phương pháp khảo sát, thống kê
_ Phương pháp phân loại
_ Phương pháp so sánh, đối chiếu
_ Phương pháp phân tích, tổng hợp
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Đây là luận văn thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu về vấn đề tiếp nhận
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Trên cơ sở những thành tựu của lí luận văn
học hiện đại và hậu hiện đại, luận văn nghiên cứu diễn trình tiếp nhận truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp nhằm khẳng định: phương thức tồn tại của tác phẩm
văn học qua sự xác lập đời sống cụ thể của văn chương thông qua người đọc.

15
6.2. Qua diễn trình tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy thiệp, luận văn
khẳng định: lịch sử văn học không chỉ đơn giản là con số cộng của các tác giả
và tác phẩm mà còn được hiểu là các tác phẩm và người tiếp nhận trong
những biến chuyển lịch sử của nó. Tác phẩm văn học không phải là sản phẩm
cố định mà là quá trình tạo nghĩa không ngừng thông qua người đọc.
6.3. Luận văn cũng nêu lên những đóng góp của nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp trong quá trình đổi mới văn học nước nhà.


















16
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA LÍ THUYẾT TIẾP NHẬN ĐỐI VỚI VIỆC
NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ VĂN HỌC

Thế kỷ XX là cái mốc quan trọng đối với sự vận động của tư duy lí
luận văn học. Nhìn lại quá trình phát triển của tư duy lí luận văn học từ truyền
thống đến hiện đại, các nhà nghiên cứu đã có nhiều cách nhìn nhận và lí giải
khác nhau về vấn đề tác phẩm văn học. Nếu tư duy lí luận văn học tiền hiện
đại chú ý đến vai trò của hiện thực, tác giả thì tư duy lí luận văn học hiện đại
và hậu hiện đại đã thấy được sự khác biệt giữa văn bản và tác phẩm văn học,
thấy được vai trò của người đọc trong quá trình hình thành các giá trị văn học.
1. Từ mỹ học sáng tạo đến mỹ học tiếp nhận
Nếu cuối thế kỷ XIX, lí luận văn học phát hiện ra vai trò của tác giả,
đầu thế kỷ XX phát hiện ra yếu tố văn bản thì giữa thế kỷ XX lí luận văn học
phát hiện ra người đọc. Cuối thế kỷ XIX với Mỹ học sáng tạo, tác giả là người
đóng vai trò trung tâm của tác phẩm, bạn đọc nhìn vào tác phẩm chỉ thấy tác
giả đầy quyền uy đang ngự trị. Đến với tác phẩm, bạn đọc đi tìm nghĩa chủ ý

của tác giả, tức ý đồ của tác giả trước và trong khi sáng tác. Những khái niệm
như nhân vật, kết cấu, cốt truyện, chủ đề, tư tưởng… là những khái niệm của
Mĩ học sáng tạo được áp dụng để đánh giá, thẩm định giá trị của tác phẩm văn
học. Người đọc khám phá tác phẩm theo ý đồ tác giả. Tác phẩm kết thúc cũng
là lúc nghĩa và ý nghĩa của nó dừng lại. Bạn đọc không phải băn khoăn, day
dứt hay bị ám ảnh bởi chi tiết này hay nhân vật nọ vì mọi cái đã quá rõ ràng,
tác giả đã cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết để độc giả cứ thế lĩnh hội
tác phẩm. Đương nhiên, một hệ quả tất yếu diễn ra, là sản phẩm mà độc giả

17
lĩnh hội được từ tác phẩm đều giống nhau, tác phẩm chỉ có thể hiện ra với một
diện mạo duy nhất, đó là chủ ý của tác giả.
Thế kỷ XX đã chứng kiến những phát hiện mới trong tư duy lí luận văn
học. Một trong những phát kiến đó là đề xuất vai trò của người đọc. Sự
chuyển đổi từ mỹ học sáng tạo qua mỹ học tiếp nhận là bước ngoặt quan trọng
của tư duy lí luận văn học.
Giữa thế kỷ XX, với việc nhận ra sự khác biệt giữa văn bản văn học và
tác phẩm văn học, lí luận văn học hiện đại đã vượt lên tư duy lí luận văn học
tiền hiện đại. Nếu lí luận văn học tiền hiện đại( nhất là khoa học văn học thực
chứng trước thế kỷ XX) chỉ nhấn mạnh đến mối quan hệ nhân quả, đề cao yếu
tố môi trường, tác giả…thì lí luận văn học hiện đại đã nhận ra những yếu tố
đặc thù của văn bản văn học và phương thức tồn tại của tác phẩm văn học
thông qua người đọc. Lí luận hiện đại đã phát hiện ra vai trò của văn bản,
nhưng văn bản đó phải tạo ra được đời sống cho mình thông qua người đọc để
trở thành tác phẩm văn học. Từ chỗ lấy mỹ học sáng tạo làm cơ sở, tư duy lí
luận văn học hậu hiện đại đã từng bước khẳng định vai trò quan trọng của mỹ
học tiếp nhận. Sẽ không sai nếu nói rằng tư duy lí luận văn học hậu hiện đại
đã đưa vấn đề đọc lên tầm triết học.
Theo nhà ngiên cứu văn học Trương Đăng Dung, những thành tựu của
tư duy lí luận văn học hiện đại đã thể hiện những bước tiến quan trọng trong

việc khám phá văn bản văn học như là cấu trúc ngôn từ động. Nhưng rồi tư
duy lí luận văn học hậu hiện đại lại có những khám phá mới hơn về đặc trưng
bản thể của văn bản văn học trong quan hệ với những yếu tố khác, với người
tiếp nhận. Các lí thuyết hậu hiện đại cho rằng nghĩa của văn bản không ổn
định, nó mang tính quan hệ và được tạo nên do một quá trình. Tiếp theo khái
niệm nghĩa đang tồn tại của lí luận văn học hiện đại là khái niệm nghĩa được
thiết lập của văn học hậu hiện đại. Câu hỏi phương thức tồn tại của tác phẩm

18
là gì? đã nêu lên hai vấn đề phải đề cập đến: Một là tính chất ngôn ngữ, cái
quyết định đặc trưng văn học của văn bản; hai là khả năng tạo lập một đời
sống của văn bản nghệ thuật. Cả hai đều liên quan đến quá trình xâm nhập đời
sống của văn bản văn học, nói chính xác hơn, đó là quá trình tự tạo ra đời
sống của văn bản. “Như vậy là sau khi lí luận văn học hiện đại xác định được
vai trò trung tâm tạo nghĩa của văn bản văn học độc lập với tác giả và môi
trường ra đời của nó, lý luận hậu hiện đại đã khám phá ra quá trình tạo lập
đời sống của văn bản văn học trong quan hệ với sự tiếp nhận của người đọc.
Đây là cơ sở để lí luận văn học hậu hiện đại thể hiện tham vọng lấy mỹ học
tiếp nhận thay cho mỹ học sáng tạo” [18,tr165].
Thật ra, chỗ dựa lớn nhất của tư duy lí luận văn học hiện đại và hậu
hiện đại là những tư tưởng triết học. Vì thế Roman Ingarden, một triết gia
theo trường phái Hiện tượng học nhưng ông muốn đưa triết học vào lí luận
văn học và ông cho ra đời cuốn sách “Tác phẩm văn học”. Theo R. Ingarden
tác phẩm văn học như là khách thể mang tính chủ ý. Và như là khách thể
mang tính chủ ý thì đời sống của tác phẩm văn học cũng “phụ thuộc vào
những hoạt động cụ thể hoá (đọc) văn bản có chủ ý của người đọc hướng tới
nó” [18,tr166]. Một mặt, tồn tại một văn bản văn học như là sản phẩm sơ lược
với nhữnh chỗ trống và những sự việc chưa xác định giống như một bộ
xương. Mặt khác, thông qua sự cụ thể hoá (đọc) như là hoạt động của ý thức
hướng về nó mà bộ xương được đắp thêm da thịt và tác phẩm văn học hình

thành. Tính chất của sự cụ thể hoá phụ thuộc vào người đọc, bởi vì nhà nhà
văn khi viết đã có ý tạo ra sự vô tình. Từ những chi tiết, hình ảnh được miêu
tả dường như không chính xác, mỗi người đọc sẽ cấp cho chi tiết, hình ảnh là
của riêng mình mà nhà văn không kiểm soát được. Bản thân tác phẩm sẽ hiện
ra đúng với diện mạo của nó nếu gặp được sự cụ thể hoá(đọc) lí tưởng. Sự cụ
thể hoá văn bản của người đọc mà R. Ingarden nói ở đây chính là hoạt động

19
có chủ ý hướng tới đối tượng. Văn học khác với nghệ thuật khác ở chỗ, nó có
khả năng mời gọi người đọc cụ thể hoá những tình huống không chính xác
trong tác phẩm. Đó là sức hấp dẫn của tác phẩm văn học. Nhà văn như người
“tạo việc làm” cho người đọc. Khi ta đọc văn bản là ta đọc “sai”, vì ý nghĩ
của ta không trùng khít với tác giả. Văn bản văn học có tính chất mơ hồ
không chính xác, nên người đọc phải là người đồng sáng tạo, bằng cách cụ thể
hoá văn bản để lấp đầy những sự mơ hồ và không chính xác đó. Bản thân văn
bản văn học, theo quan điểm của Ingarden, là hai lần có ý thức, lần một là ý
thức của tác giả, lần hai là ý thức của độc giả. Không lần nào phủ nhận lần
nào, chỉ có thể là lần một diễn ra sẽ có lần hai. Tác phẩm sau khi xuất bản sẽ
trôi nổi, nó chỉ sống khi có ý thức của độc giả hướng tới.
Với sự xuất hiện của Mĩ học tiếp nhận, lí luận văn học quan tâm nhiều
đến độc giả- người cụ thể hoá cho văn bản. Từ đây văn bản văn học mang
thông điệp đối thoại có được vị thế mới: làm đối tác đối thoại. Đây là một
đóng góp có ý nghĩa lí luận của Mĩ học tiếp nhận nói chung và lí luận văn học
hậu hiện đại nói riêng. Trong thực tế, trường phái mỹ học tiếp nhận
Konstanz(Đức) đã tập hợp được nhiều nhà khoa học xuất sắc trong đó có
Wolfgang Iser và Hans Robert Jauss. Hai nhà khoa học này, bên cạnh những
quan điểm tương đồng cũng có những quan điểm khác nhau về lý thuyết tiếp
nhận. Theo quan điểm của W. Iser, khi ta tiếp cận với một văn bản luôn có
một thứ người đọc tiềm ẩn trong văn bản. Ông không cho rằng tác giả đã
“chết” mà vẫn như vô hình định hướng cho người ta hiểu tác phẩm, đó là

người đọc tiềm ẩn mách nước cho ta đi theo hướng nào đó để khám phá tác
phẩm. Còn H . R. Jauss, trong công trình “Lịch sử văn học như là sự khiêu
khích đối với khoa học văn học”[33], cho rằng, tác phẩm văn học như là quá
trình chứ không phải sản phẩm cố định. Nghĩa là, dòng sông ngữ nghĩa vẫn
luôn trôi, nghĩa của tác phẩm không phụ thuộc vào chủ ý của tác giả, ý nghĩa

20
của tác phẩm văn học có được trong tinh thần tiếp nhận của người đọc, vì thế
nó vẫn là quá trình. Jauss cũng nhấn mạnh khái niệm “tầm đón đợi”, rằng mỗi
người đọc có một tầm đón đợi khác nhau trước tác phẩm. Công trình này của
ông được coi như là tuyên ngôn của trường phái mỹ học tiếp nhận Đức.
Với những thành tựu của tư duy lí luận hiện đại và hậu hiện đại, Mĩ học
tiếp nhận đã bác bỏ tính chất khép kín của văn bản văn học mà mĩ học sáng
tạo trước đây vẫn bảo vệ, thay vào đó là tính chất mở và dấu ấn cá nhân. Mĩ
học tiếp nhận nêu lên những giá trị dễ thay đổi, trực tiếp gắn liền với cá nhân
người đọc thông qua quá trình cụ thể hoá văn bản. Vì vậy tiếp nhận văn bản
không phải là quá trình đi tìm chủ ý của tác giả. Văn bản văn học cần đến
người đọc lí tưởng để thiết lập đời sống cho tác phẩm văn học. Người tiếp
nhận đối thoại và tái tạo tác phẩm và tác phẩm tái tạo người đọc. "Từ đây lịch
sử văn học không chỉ đơn giản là con số cộng các tác giả tác phẩm mà còn
được hiểu là các tác phẩm và người tiếp nhận trong những biến chuyển lịch
sử của nó"[18,tr167].
Như vậy, sự chuyển đổi hệ hình tư duy của lí luận văn học trước
những thành tựu của lý thuyết tiếp nhận là một lẽ tất yếu. Nếu lí luận truyền
thống nghiêng về chủ thể sáng tạo, lí luận hiện đại nghiêng về văn bản thì lí
luận hậu hiện đại quan tâm đến người đọc.
Q
uá trình vận động

từ mỹ học sáng

tạo đến mỹ học tiếp nhận cho ta thấy lí luận văn học hậu hiện đại đã có cơ sở
để thể hiện tham vọng lấy mỹ học tiếp nhận thay cho mỹ học sáng tạo.
2. Mối quan hệ giữa văn bản và tác giả
Theo quan niệm của tư duy lí luận truyền thống(thuật ngữ truyền thống
ở đây được hiểu là những quan niệm văn học trở nên quen thuộc, ăn sâu vào ý
thức văn học, từng chi phối văn học qua nhiều thế hệ – tính từ thời cổ đại đến
hết thế kỷ XIX), tác phẩm văn học là nơi để chuyển tải tư tưởng, kí thác tâm
sự của tác giả, sự ý thức về mối quan hệ tác giả và tác phẩm dù chưa hiện diện

21
như một hệ thống lý thuyết, nhưng cũng đủ để trở thành một truyền thống
kiên cố và đầy tự giác trong tư duy văn học phương Đông, không chỉ ở thời
trung đại mà thậm chí còn tồn tại dai dẳng cho đến tận ngày nay. Khi đó, tác
giả đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành tác phẩm văn học.
Nếu giai đoạn trước, tác giả được xem như là “thư kí trung thành của
thời đại” (phản ánh đúng hiện thực đời sống), là một “thợ thủ công”, thì càng
về sau nó được quan niệm như chủ thể sáng tạo quan trọng của tác phẩm. Vào
đầu thế kỷ XIX, khi khoa học văn học thực sự hình thành ở phương Tây thì
tác giả được chính thức “phát hiện”. Người ta cho rằng, tác phẩm chính là sản
phẩm của tác giả. Từ đây, câu hỏi tác giả là ai và quan hệ tác giả với tác
phẩm như thế nào, đã được nhà phê bình văn học Pháp nổi tiếng trả lời bằng
việc khởi xướng phương pháp Phê bình tiểu sử, lấy việc nghiên cứu con
người tác giả để tìm hiểu tác phẩm. Đây cũng là phương pháp đầu tiên xuất
hiện trong nghiên cứu văn học, khi khoa học văn học chính thức ra đời. Mối
quan hệ “cha” –“con” trong quan niệm này đã chi phối đến công việc nghiên
cứu văn học trong một thời gian dài. Quan niệm này đã dẫn đến những hệ quả
tất yếu là, tác phẩm văn học gần như đã “yên phận” vì nó là sản phẩm tinh
thần do nhà văn sáng tạo ra, đương nhiên, sự tồn tại và ý nghĩa của nó phải
phụ thuộc vào nhà văn, do nhà văn quyết định. Ý nghĩa của tác phẩm không
nằm ngoài ý đồ mà nhà văn đã định sẵn từ trước, và "nghĩa của tác phẩm

không thay đổi vì luôn luôn có một hoạt động ý thức cá thể nhất định chi phối
nó trong một thời gian cụ thể nhất định nào đó"[13,tr172]. Tư tưởng tác phẩm
vì thế cũng chính là tư tưởng của tác giả. Với quan niệm này, tác phẩm đã và
chỉ được nhìn trong mối quan hệ chi phối, ràng buộc bởi chính hành vi sáng
tạo ra nó; tác phẩm là “con đẻ” của nhà văn, là “vật phụ thuộc” của tác giả, nó
bị đồng nhất với quá trình sáng tạo, với ý đồ tư tưởng, với sự chủ ý của nhà
văn. Việc phân tích, đánh giá tác phẩm, vì vậy cần phải căn cứ vào tác giả,

22
phải đi tìm và lĩnh hội cho được tư tưởng, tình cảm của nhà văn gửi gắm
trong tác phẩm.
Như một lẽ dĩ nhiên, trước vai trò tuyệt đối của tác giả, người đọc
không có vai trò gì lớn đối với tác phẩm, bởi trước người đọc, mọi việc xem
như đã “an bài”, “xong xuôi”. Nói khác đi, người đọc dường như không có
mối liên quan tất yếu nào với tác phẩm. Như vậy, lí luận văn học và mỹ học
truyền thống, lí luận văn học mác xít đã tiếp cận tác phẩm văn học trước hết
bằng con đường tìm hiểu tác giả, nhìn tác phẩm như một sản phẩm đã được
hoàn tất, hầu như tách rời qui luật tiếp nhận, không xuất phát từ phía bạn đọc,
từ chủ thể tiếp nhận.
Đặt tác phẩm trong mối quan hệ với tác giả, lí luận tiền hiện đại đã xác
lập quyền uy tuyệt đối của tác giả đối với tác phẩm, trao cho nhà văn quyền
quyết định ý nghĩa, tạo giá trị và đem lại đời sống cho tác phẩm của mình.
Tác phẩm lúc này giống như một “phiên bản”, một “tồn tại khác” của tác giả.
Việc quá đề cao, thậm chí tuyệt đối hoá vai trò của tác giả đã dẫn đến việc
không tôn trọng đúng mức tính độc lập tương đối của tác phẩm.
Tóm lại, tác phẩm văn học trong quan niệm truyền thống như là một
vật phụ thuộc trong quan hệ với hiện thực, với tác giả. Tác phẩm bị cào bằng,
thậm chí bi chìm đi trong những mối liên kết phi văn bản như hiện thực lịch
sử, tiểu sử cá nhân, giai thoại văn học v.v Tìm hiểu tác phẩm vì thế mà căn
cứ vào yếu tố ngoại văn như hiện thực, thời đại, tác giả - các yếu tố tham gia

vào quá trình đánh giá giá trị của tác phẩm văn học. Tác phẩm như vậy đã
được lý giải từ quan hệ nhân quả thông qua những dữ kiện ngoài văn học
Thậm chí, tác phẩm đôi khi không còn là mục đích nghiên cứu mà chỉ là
phương tiện để tìm hiểu hiện thực xã hội hoặc con người tác giả. Văn bản lúc
này không phải là đối tượng để khám phá tác phẩm ở phương diện chất liệu,
hình thức ngôn ngữ mà chỉ là cái vỏ ngoài để chuyển tải nội dung có sẵn trong

23
ý đồ tác giả. Ý nghĩa của tác phẩm, vì vậy, là cái ổn định, bất biến mà người
đọc hoàn toàn có thể nắm bắt được; và người đọc, do đó cũng chỉ sắm một vai
trò rất khiêm tốn, thụ động, là người khám phá ra cái ý nghĩa đã có sẵn trong
tác phẩm. Như vậy, đối với tư duy lí luận truyền thống, điều quan trọng
không phải là phương thức tồn tại của tác phẩm văn học là gì, mà vấn đề là
tác phẩm đã ra đời như thế nào. Mỹ học sáng tạo đã hoàn toàn chi phối lý luận
truyền thống.
Thực chất, chúng ta không thể phủ nhận hoàn toàn sự chi phối của hiện
thực và tác giả đến tác phẩm văn học. Nó cũng đã góp phần tạo nên một cách
lí giải về tác phẩm văn học, tồn tại trong thời gian dài và có những thành công
nhất định. Tuy nhiên, nghiên cứu, lí giải tác phẩm chỉ bằng vào mối quan hệ
nhân- quả, bằng vào hệ qui chiếu giản đơn, bằng vào những mối liên hệ bề
mặt có thể cảm nhận được của thế giới, lí luận văn học truyền thống đã không
tránh khỏi quan niệm sơ lược, một chiều về tác phẩm văn học, thiếu nhiều
điểm nhìn, bỏ qua nhiều tiềm năng to lớn của tác phẩm, chỉ thấy mặt ổn định,
chưa thấy mặt biến đổi, thấy cái trực tiếp, chưa thấy cái gián tiếp… Cách tiếp
cận này chỉ là cách ta tìm ra điều nhà văn muốn nói chứ không phải là điều
mà tác phẩm thực sự nói được với người đọc, và nhiều hơn, với các thế hệ
người đọc…Nói khác đi, sẽ không thể hiểu hết được tác phẩm văn học nếu
chỉ dựa vào hành vi sáng tạo ra nó. Tuy nhiên, cho đến nay, việc nghiên cứu
tác phẩm một chiều trên đây đã tạo thành lối mòn trong suy nghĩ của nhiều
người, ngay cả với những nhà nghiên cứu. Vai trò tác giả luôn ngự trị trong

các công trình nghiên cứu về tác phẩm văn học, đã làm mất ý nghĩa khách
quan của tác phẩm được tiếp nhận từ phía bạn đọc. Quan niệm truyền thống
về tác phẩm văn học đã bộc lộ ngày càng rõ những hạn chế nhất định của nó.
Tiếp nối những quan điểm truyền thống là những quan niệm của tư duy lí luận

24
văn học hiện đại, đã khám phá mới về đặc trưng bản thể của văn bản nghệ
thuật trong quan hệ với những yếu tố khác, với văn bản và người đọc.
3. Mối quan hệ giữa văn bản và độc giả
Lí luận truyền thống coi trọng quá trình khám phá ý đồ sáng tạo của tác
giả. Và như trên đã nói, tác phẩm trong quan điểm truyền thống được đồng
nhất với thế giới tư tưởng của nhà văn, bị hệ tư tưởng của nhà văn chi phối
hoàn toàn. Việc đọc tác phẩm trong quan niệm truyền thống, vì thế gắn bó
mật thiết với những ý tưởng của tác giả. Ý nghĩa của tác phẩm bị chi phối bởi
tác giả dựa trên những ấn tượng, phán đoán chủ quan của người đọc. Nhưng
sang thế kỷ XX, nhiều thành tựu trong nghiên cứu khoa học ra đời. Trong đó,
thành tựu của khoa học xã hội nhân văn cũng cho thấy không thể tin cậy tuyệt
đối vào năng lực phán đoán chủ quan của con người trước bất cứ đối tượng
nào. Vì vậy, để tiếp cận được bản chất của đối tượng không thể căn cứ vào
một phương diện duy nhất nào đó. Từ đây, những quan niệm truyền thống về
tác phẩm văn học trong lí luận tiền hiện đại đã không còn phù hợp. Những
thành tựu của các lĩnh vực khoa học xã hội như: Ngôn ngữ học, Cấu trúc luận,
Hiện tượng luận, Ký hiệu học, Lý thuyết thông tin, Tường giải học, Tâm lí
học…là cơ sở cho những kiến giải mới của nhiều trường phái lý luận ở thời
kỳ hiện đại xuất hiện. Rõ ràng, thế kỷ XX đã đánh dấu một bước chuyển biến
mới của lý luận văn học.
Đối với văn bản văn học, những khám phá về bản chất ngôn ngữ đầu
thế kỷ XX, cho thấy, tuỳ theo cách nhìn nhận về bản chất ngôn ngữ mà tư duy
lí luận văn học hiện đại có cách tiếp cận văn bản văn học tương ứng với bản
chất ngôn ngữ. Bởi vì, ngôn ngữ trong văn học không đơn giản là cái vỏ của

tư duy mà nó chính là tư duy, là yếu tố có khả năng sinh tạo tư tưởng. Triết
học ngôn ngữ cũng thừa nhận: Ngôn ngữ không chỉ chuyển tải ý nghĩa của
người phát ngôn mà chúng có thể tạo nên một thế giới độc lập. Đây chính là

25
sự phản bội của ngôn ngữ và ngôn ngữ là ngôi nhà hữu thể. Với triết học ngôn
ngữ đầu thế kỷ XX, bản chất của văn bản văn học được xem xét đặt ra như
một phát hiện lại dưới một thứ ánh sáng mới có khả năng soi sáng yếu tố bản
thể của tác phẩm văn học.
Chúng ta không thể không thừa nhận, bước đột phá đầu tiên và quan
trọng nhất, mở đầu cho cuộc cách mạng về lý luận văn học thế kỷ XX là việc
“phát hiện” ra văn bản. Phát hiện này đã đưa văn bản văn học vào trung tâm
của sự chú ý, và theo đó, là sự hoán đổi ngôi vị của các yếu tố trong hệ thống
văn học. Thay vì vị trí trung tâm thuộc về tác giả như trước đó, nay đến lượt
văn bản lên ngôi, vai trò chủ thể của tác phẩm văn học dịch chuyển từ tác giả
sang văn bản. Với việc lên ngôi của văn bản, người ta coi tác phẩm văn học là
một khách thể thuần tuý tồn tại khép kín, độc lập, tự trị trong văn bản. Văn
bản văn học - đó là một cấu trúc, một tập hợp ngôn ngữ với những câu chữ,
thủ pháp, những mối liên hệ theo cấu trúc nội tại của tác phẩm. Thông qua
cấu trúc ngôn ngữ ấy ý nghĩa được tạo thành. Văn bản văn học, do đó, là một
trung tâm tạo nghĩa. Lúc đó, nghĩa của văn bản là ổn định, nó nằm ngay trong
những thông điệp có trong văn bản, được tạo ta từ trong cấu trúc ngôn ngữ,
trong sự tương tác giữa các yếu tố hình thức của tác phẩm. Đương nhiên,
nghĩa của văn bản không phụ thuộc vào yếu tố hiện thực, không phụ thuộc
vào tư tưởng, ý đồ, chủ ý của nhà văn. Một hệ quả tất yếu là người ta đã đồng
nhất tác phẩm với văn bản. Trước khi phát hiện ra người đọc, người ta tưởng
rằng cái được tác giả viết ra là tác phẩm. Dựa trên tinh thần của Mỹ học tiếp
nhận, nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung viết cuốn Từ văn bản đến tác phẩm
văn học[11] đã nêu lên cái hành trình đi từ văn bản đến tác phẩm văn học và
các vấn đề đặt ra sau đó. Nhà kí hiệu học Xô viết Iu. M. Lotman nói: “Định

nghĩa được văn bản là một việc khó. Trước hết cần loại bỏ quan niệm đồng
nhất văn bản với toàn bộ tác phẩm”. Nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung đã

×