Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Đánh giá thực trạng xử lý nước thải nhà máy Cốc Hóa Thái Nguyên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.99 KB, 66 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM


TRIỆU THỊ ANH

Tên đề tài:

“ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XỬ LÝ NƯỚC THẢI
NHÀ MÁY CỐC HÓA THÁI NGUYÊN”


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Khoa học môi trường
Lớp : 42A-MT
Khoa : Môi Trường
Khóa : 2010 – 2014
Giáo viên hướng dẫn : TS. Vũ Thị Thanh Thủy




Thái nguyên, năm 2014

LỜI CẢM ƠN

Thực tập tốt nghiệp là giai đoạn rất quan trọng đối với mỗi sinh viên.
Đây là thời gian chúng ta vận dụng, kết hợp giữa kiến thức đã học trên ghế


nhà trường vào thực tiễn cuộc sống. Được sự đồng ý của Khoa Môi trường -
Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, em tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá thực trạng xử lý nước thải nhà máy Cốc Hóa Thái Nguyên”
Đến nay em đã hoàn thành thời gian thực tập tốt nghiệp và khóa luận tốt
nghiệp. Nhân dịp này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám Hiệu trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa Môi Trường, cùng tất cả
quý thầy cô đã tận tâm dạy dỗ, truyền đạt những tri thức khoa học và những kinh
nghiệm quý báu cho em trong suốt thời gian rèn luyện học tập tại trường.
Đặc biệt em xin chân thành cám ơn đến cô TS. Vũ Thị Thanh Thủy đã
tạo điều kiện tốt nhất, tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt thời gian
thực tập tốt nghiệp và bước đầu nghiên cứu khoa học.
Xin cảm ơn bác Đào Đại Dương, cán bộ phòng công nghệ kỹ thuật nhà
máy Cốc Hóa Thái Nguyên cùng gia đình đã động viên tạo điều kiện thuận lợi
cho em thực hiện tốt khóa luận này.
Dù đã cố gắng nhiều, xong luận văn không thể tránh khỏi những thiếu
sót và hạn chế. Kính mong nhận được sự chia sẻ và những ý kiến đóng góp
quý báu của thầy cô giáo và các bạn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 18 tháng 5 năm 2014
Sinh Viên

Triệu Thị Anh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BGH: Ban giám hiệu
BOD: Nhu cầu oxi hóa sinh học
BVMT: Bảo vệ môi trường
CHXHCNVN: Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa
COD: Nhu cầu oxi hóa hóa học
ĐCCT: Địa chất công trình

ĐCTV: Địa chất thủy văn
ĐH: Đại học
KLN: Kim loại nặng
LK: Lỗ khoan
NĐ-CP: Nghị định chính phủ
QCVN: Quy chuẩn Việt Nam
QĐ-BTNMT: Quyết định- Bộ tài nguyên môi trường
QH: Quốc hội
TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam
TSS: Hàm lượng chất rắn lơ lửng
UBND: Ủy ban nhân dân
VSV: Vi sinh vật
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1. Chỉ tiêu và phương pháp phân tích 29
Bảng 4.1. Thực trạng sản xuất của nhà máy 27
Bảng 4.2. Nguồn chất có thể gây ô nhiễm tại các phân xưởng của nhà máy
Cốc Hóa 29
Bảng 4.3. Nguồn phát sinh nước thải của nhà máy 30
Bảng 4.4. Phương pháp và khả năng xử lý nước thải của nhà máy Cốc Hóa 32
Bảng 4.5. Kết quả đo phân tích nước thải sinh hoạt 39
Bảng 4.6. Kết quả đo và phân tích nước thải sản xuất nhà máy Cốc Hóa. 40
Bảng 4.7. Kết quả phân tích nước thải sản xuất nhà máy Cốc Hoá……… 40
Bảng 4.8. Đánh giá của người dân về những ảnh hưởng đến môi trường 42














DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 4.1. Vị trí nhà máy Cốc Hóa 32
Hình 4.2. Sơ đồ nhân sự của nhà máy cốc hóa 36
Hình 4.3. Sơ đồ công nghệ sản xuất của Nhà máy Cốc Hóa 19
Hình 4.4. Sơ đồ công nghệ kèm theo dòng thải của phân xưởng than. 20
Hình 4.5. Sơ đồ công nghệ sản xuất của phân xưởng cốc 22
Hình 4.6. Sơ đồ công nghệ sản xuất kèm theo dòng thải của phân xưởng hóa. 24
Hình 4.7. Sơ đồ công nghệ kèm theo dòng thải của phân xưởng cán thép. 26
Hình 4.8. Sơ đồ công nghệ xử lý nước thải chứa phenol của nhà máy 34
Hình 4.9. Bể lắng cặn, tách dầu mỡ 36
Hình 4.11. Bể Aeroten 37
Hình 4.12. Bể lắng đứng 38

MỤC LỤC

PHẦN 1: MỞ ĐẦU 8

1.1. Đặt vấn đề 8

1.2. Mục đích của đề tài 9

1.3. Ý nghĩa của đề tài 10


1.4. Yêu cầu của đề tài 10

PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 11

2.1. Cơ sở khoa học 11

2.1.1. Một số khái niệm về môi trường, ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn
nước, đánh giá chất lượng nước 11

2.1.2. Khái niệm nước thải và nguồn nước thải 12

2.1.3. Một số văn bản pháp lý 13

2.2. Tình hình ô nhiễm nước trên thế giới, Việt Nam và Thái Nguyên 13

2.2.1. Tình hình ô nhiễm nước trên thế giới 13

2.2.2. Tình hình ô nhiễm nước ở Việt Nam 15

2.2.3. Tình hình ô nhiễm nước ở Thái Nguyên 19

2.3. Một số công nghệ trên thế giới và việt nam về xử lý nước thải 20

2.3.1. Trên thế giới 20

2.3.2. Tại Việt Nam 23

PHẦN 3
:

ĐỐI TƯỢNG NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 27

3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 27

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 27

3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 27

3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 27

3.3. Nội dung nghiên cứu 27

3.4 Phương pháp nghiên cứu 27

3.4.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu 27

3.4.2. Phương pháp lấy mẫu 28

3.4.3. Chỉ tiêu và phương pháp phân tích 28

Bảng 3.1. Chỉ tiêu và phương pháp phân tích 29

3.4.4. Phương pháp so sánh kết quả phân tích 29

PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 30

4.1. Điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội phường Cam Giá TP Thái Nguyên Tỉnh
Thái nguyên và đặc điểm cơ bản của nhà máy Cốc Hóa Thái Nguyên 30

4.1.1. Điều kiện tự nhiên phường Cam Giá thành phố Thái Nguyên 30


4.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội phường Cam Giá thành phố Thái Nguyên 30

4.1.3. Đặc điểm cơ bản của nhà máy Cốc Hóa 32

4.2. Hiện trạng nước thải và quy trình xử lý nước thải của nhà máy 30

4.2.1. Hiện trạng nước thải của nhà máy 30

4.2.2. Quy trình xử lý nước thải của nhà máy 32

4.3. Đánh giá chất lượng nước thải của nhà máy 39

4.4. Ý kiến của người dân về những ảnh hưởng do hoạt động của nhà máy gây
ra trong quá trình hoạt động 42

4.5. Một số định hướng và giải pháp khắc phục, giảm thiểu ô nhiễm môi trường
do hoạt động của nhà máy gây ra 43

PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 44

5.1. Kết luận 44

5.2. Kiến nghị thực tập 45

TÀI LIỆU THAM KHẢO 46






PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Việt Nam đang trên con đường phát triển và hội nhập, sự phát triển
kinh tế - xã hội đang đang diễn ra rất mạnh mẽ, mang lại nhiều lợi ích cho nền
kinh tế và nâng cao đời sống cho người dân. Tuy nhiên ngoài những lợi ích
mà kinh tế - xã hội đã đạt được thì tình trạng ô nhiễm môi trường do mặt trái
của những hoạt động trên đã gây ra ở mức báo động. Môi trường nói chung và
môi trường nước nói riêng đang bị ô nhiễm trầm trọng, đe dọa tới sức khỏe và
cuộc sống của người dân ở nhiều địa phương.
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi phía Bắc có tiềm năng phát
triển kinh tế mạnh mẽ, trong đó việc hình thành và phát triển các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp đang trở thành một thế mạnh kinh tế trong khu vực
phía Bắc như: khu công nghiệp Sông Công, cụm công nghiệp Điềm Thụy,
khu công nghiệp Lưu Xá – Gang Thép Thái Nguyên,… Nhưng sự ra đời và
hoạt động của nhiều nhà máy, xí nghiệp trong khu vực đã làm cho môi trường
ngày càng trở nên xấu đi và nhiều vùng bị ô nhiễm trầm trọng.
Nhà máy Cốc Hóa Thuộc Công ty cố phần Gang Thép Thái Nguyên –
phường Cam Giá thành phố Thái Nguyên được Trung Quốc viện trợ giúp đỡ
thiết kế xây dựng vào những năm đầu của thập niên 60, đây là một trong
những nhà máy góp phần không nhỏ trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương. Nhà máy Cốc Hóa
là doanh nghiệp sản xuất cốc luyện kim, chất lượng sản phẩm theo Tiêu chuẩn
Quản lý chất lượng Quốc tế ISO 9001: 2000. Nhiệm vụ chính của nhà máy là
tiếp nhận, bảo quản, phối liệu than mỡ sản xuất cốc luyện kim để cung cấp
cho quá trình sản xuất gang lò cao của Công ty. Ngoài ra, nhà máy còn có một
số hệ thống hoàn chỉnh về công nghệ và thiết bị thu hồi, chế biến các sản
phẩm hóa học trong quá trình tinh luyện cốc, tạo thành hoàng hóa cung cấp
cho nền kinh tế quốc dân như: khí cốc sạch, nhựa đường, thép cán… Tuy

nhiên, sự chú trọng phát triển kinh tế trong một thời gian dài của nhà máy đã
và đang gây ảnh hưởng xấu tới môi trường khu vực do vậy nhà máy cũng
không nằm ngoài danh sách những đơn vị gây ô nhiễm môi trường trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên.
Để giải quyết và hạn chế vấn đề về ô nhiễm môi trường nhà máy Cốc
Hóa đã và đang áp dụng các biện pháp kỹ thuật, hệ thống xử lý nước thải
nhằm mục đích đưa mình thành đơn vị hoạt động kinh doanh an toàn và thân
thiện với môi trường. Sự an toàn và thân thiện với môi trường được đánh giá
theo các khia cạnh như trạm xử lý nước thải không gây mùi hôi và ô nhiễm
môi trường không khí xung quanh, trạm phải hoạt động an toàn, ít sự cố,
không bị rò rỉ nước thải và giảm nguy cơ gây ô nhiễm đất, nguồn nước ngầm
và nước mặt trong khu vực, sự phát sinh các chất thải thứ cấp như bùn cặn
phải là ít nhất.
Qua lỗ lực cái thiện công nghệ sản xuất, hệ thổng xử lý chất thải những
năm gần đây nhà máy đã được loại khỏi danh sách những đơn vị gây ô nhiễm
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân cũng như để khẳng định lại sự
an toàn và thân thiện của hệ thống xử lý nước thải của nhà máy đồng thời
được sự nhất trí của BGH khoa Môi Trường, trường ĐH Nông Lâm Thái
Nguyên. Em tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Đánh gía thực trạng xử lý nước
thải nhà máy Cốc Hóa Thái Nguyên”.
1.2. Mục đích của đề tài
Thông qua nghiên cứu để nắm được các kỹ thuật xử lý nước thải đang
được áp dụng tại nhà máy Cốc Hóa.
Đánh giá khả năng xử lý nước thải, mức độ ô nhiễm và nguồn gây ô
nhiễm nước thải tại nhà máy Cốc Hóa từ đó đề xuất một số biện pháp xử lý
nhằm giảm thiểu ô nhiễm đối với môi trương nước.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu:
Giúp bản thân có cơ hội tiếp cận với cách thức thực hiện một đề tài

nghiên cứu, đồng thời giúp bản thân vận dụng được các kiến thức đã học vào
thực tế và rèn luyện kỹ năng tổng hợp, phân tích số liệu, tiếp thu, học hỏi và
bồi dưỡng những kinh nghiệm từ thực tế.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Tăng cường trách nhiệm của ban lãnh đạo nhà máy trước hoạt động sản xuất
đến môi trường để từ đó có hoạt động tích cực trong công tác xử lý nước thải.
Cảnh báo nguy cơ tiềm tàng về ô nhiễm suy thoái môi trương nước do
nước thải gây ra, ngăn ngừa và giảm thiểu ảnh hưởng của nước thải đến môi
trường, bảo vệ sức khỏe của người dân quanh khu vực nhà máy.
1.4. Yêu cầu của đề tài
- Công tác điều tra thu thập thông tin, phân tích số liệu chất lượng nước
thải nhà máy Cốc Hóa.
+ Thông tin và số liệu thu thập chính xác, trung thực, khách quan.
+ Các mẫu nghiên cứu và phân tích đảm bảo tính khoa học và đại diện
cho khu vực nghiên cứu.
+ Đánh giá đầy đủ, chính xác chất lượng nước thải của nhà máy.
+ Các kết quả phân tích được so sánh với TCVN, QCVN.
- Giải pháp kiến nghị đưa ra phải thực tế, có tính khả thi và phù hợp với
điều kiện của công ty.


Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Một số khái niệm về môi trường, ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn
nước, đánh giá chất lượng nước
- Môi trường: Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội
bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến hoạt động
sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người

và các thể chế. [7]
- Ô nhiễm môi trường: Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi các thành
phần môi trường không phù hợp với các TCVN, gây ảnh hưởng xấu đến con
người và vi sinh vật. [7]
- Ô nhiếm môi trường nước: Ô nhiễm môi trường nước là sự thay đổi
thành phần và tính chất của nước gây ảnh hưởng tới hoạt động sống bình
thường của con người và VSV. [15]
- Đánh giá chất lượng nước:
Theo Escap (1994) [13], chất lượng nước được đánh giá bởi các thông
số, chỉ tiêu là:
Các thông số lý học:
+ Nhiệt độ: Nhiệt độ tác động tới các quá trình sinh hóa diễn ra trong
nguồn nước tự nhiên. Sự thay đổi về nhiệt kéo theo các thay đổi về chất lượng
nước, tốc độ, dạng phân hủy các hợp chất hữu cơ, nồng độ oxi hòa tan.
+ pH: Là chỉ số thể hiện độ axit hay bazo của nước, là yếu tố môi trường
ảnh hưởng tới tốc độ phát triển và sự giới hạn phát triển của vsv trong nước.
Các thông số hóa học:
+ BOD: Là lượng oxi cần thiết để vsv phân hủy các chất hữu cơ trong
điều kiện tiêu chuẩn về nhiệt độ và thời gian.
+ COD: Là lượng oxi cần thiết để oxi hóa các hợp chất hóa học trong nước.
+ NO
3
: Là sản phẩm cuối cùng của quá trình phân hủy các chất có chứa
Nitơ có trong nước thải.
Các yếu tố KLN: Các kim loại nặng ở hàm lượng nhỏ thì chúng là yếu
tố cần thiết cho sự phát triển của các loại động, thực vật nhưng khi ở hàm
lượng lớn chúng là nguyên nhân gây độc hại cho sinh vật và con người thông
qua chuỗi mắt xích thức ăn.
Các thông số sinh học:
Coliform: là nhóm vsv quan trọng trong chỉ thị môi trường, xác định

mức độ ô nhiễm bẩn về mặt sinh học của nguồn nước.
2.1.2. Khái niệm nước thải và nguồn nước thải
- Nước thải: Theo TCVN 5980-1995 và ISO 6107-1 1980: Nước thải là
nước được thải ra sau khi đã qua sử dụng hoặc được tạo ra trong một quá trình
công nghệ và không còn giá trị trực tiếp đối với quá trình đó.
- Nguồn nước thải: Do hoạt động nhân tạo hay tự nhiên mà thành phần
nước thay đổi do nhiều loại chất được đưa vào nguồn nước. Khi lượng chất
thải được đưa vào nguồn nước quá nhiều, vượt qua khả năng tự làm sạch thì
nước sẽ bị ô nhiễm.
- Các nguồn gây ô nhiễm:
+ Sinh hoạt của con người.
+ Nước thải công nghiệp.
+ Hoạt động nông nghiệp.
+ Nước mưa chảy tràn.
+ Hoạt động du lịch thương mại.
+ Hoạt động tàu thuyền.
2.1.3. Một số văn bản pháp lý
- Căn cứ Luật BVMT năm 2005 được quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có
hiệu lực thi hành 1/7/2006.
- Luật Tài nguyên nước số 17/2012/QH13 đã được Quốc hội nước
CHXHCNVN khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 21/6/2012
.
- Nghị định số 149/2004 NĐ-CP. Quy định việc cấp phép thăm dò, khai
thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước.
- Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ về việc quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.
- Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày 28/02/2008 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006
của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều

của Luật BVMT.
- Quyết định 22/2006/QĐ-BTNMT về việc bắt buộc áp dụng Tiêu
chuẩn Việt Nam về môi trường do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
ban hành.
- Quy chuẩn Việt Nam: QCVN 08:2008/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về chất lượng nước mặt.
- QCVN 24:2009/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải
công nghiệp.
- TCVN 5945 – 2005 Nước thải công nghiệp – Tiêu chuẩn thải.
- TCVN 5942 – 1995 Chất lượng nước – Tiêu chuẩn nước mặt.
2.2. Tình hình ô nhiễm nước trên thế giới, Việt Nam và Thái Nguyên
2.2.1. Tình hình ô nhiễm nước trên thế giới
Theo Korzun và các cộng sự (1978), lượng nước toàn cầu là khoảng
1386 triệu km
3
, trong đó nước biển và đại dương chiếm tới 96,5%. Chỉ còn lại
khoảng 3,5% lượng nước trong đất liền và trong khí quyển. Lượng nước ngọt
mà con người có thể sử dụng được khoảng 35 triệu km
3
, chiếm 2,53% lượng
nước toàn cầu. Tuy nhiên trong tổng số lượng nước ngọt đó, băng và tuyết
chiếm tới 24 triệu km
3
và nước ngầm nằm ở độ sâu tới 600m so với mực nước
biển chiếm 10,53 triệu km
3
. Lượng nước ngọt trong các hồ chứa là 91.000
km
3
và trong các sông suối là 2120 km

3
. Lượng mưa trung bình hàng năm
trên bề mặt trái đất khoảng 800 mm. Tuy nhiên sự phân bố mưa là không
đồng đều giữa các khu vực trên thế giới, tạo nên những vùng mưa nhiều, dư
thừa nước và những vùng mưa ít, thiếu nước. Vùng dư thừa nước là nơi lượng
mưa cao, thỏa mãn được nhu cầu nước tiềm năng của thảm thực vật. Vùng
thiếu nước là nơi mưa ít không đủ cho thảm thực vật phát triển. Nhìn chung,
châu Phi, Trung Đông, miền Tây nước Mỹ, Tây Bắc Mehico, một phần của
Chile, Argentina và phần lớn Australia được coi là những vùng thiếu nước.
Nguồn nước trên các con sông là nguồn nước ngọt quan trọng, đáp ứng nhu
các nhu cầu nước của con người và sinh vật trên cạn. Theo Shiklomanov
(1990), lưu lượng nước trên các dòng sông, thông qua chu trình nước toàn
cầu, thể hiện sự biến động nhiều hơn lượng nước chứa trong các hồ, lượng
nước ngầm và các khối băng. So với nguồn nước mặt, nguồn nước ngầm có
trữ lượng lớn hơn rất nhiều so với nước của các con sông và hồ chứa. Đây là
nguồn nước ngọt rất dồi dào của nhân loại. Nếu chúng ta biết bảo vệ và khai
thác hợp lý thứ nước ngầm sẽ cho chúng ta nguồn nước ngọt rất bền vững.
Hiện nay đường thủy và sông ngòi nói chung ở châu Âu đều nhiễm độc, nhất
là từ các hợp chất hữu cơ chứa clo. Nguyên nhân là dọc hai bên bờ sông có
nhiều nhà máy, xí nghiệp hóa chất, như ở sông Ranh chẳng hạn. Ở Hà Lan
người ta đã phát hiện ra loại nông dược độc hại và những chất vi ô nhiễm
(Micropolluant) trong nước uống bắt nguồn từ sông Ranh. Ô nhiễm nước
uống do nitrat (NO
3
-
) từ nông nghiệp là một vấn đề nghiêm trọng. Nông
nghiệp hiên đại ngày nay sử dụng quá nhiều phân hóa học (nhất là phân đạm).
Khoảng chừng 20 năm qua, lượng NO
3
-

đã khuyếch tán trong đất và gây ô
nhiễm nước, ngày càng nhiều nguồn nước có lượng NO
3
-
quá mức quy định.
Song điều nguy hiểm hơn nữa là ở vùng nông thôn thường có dư lượng thuốc
bảo vệ thực vật quá cao. Tại các nguồn nước ở các khu công nghiệp thì nồng
độ các chất có hại vượt quá liều lượng cho phép bao gồm các chất hữu cơ, vô
cơ khó bị phân giải trong tự nhiên. Chúng có thể nổi trên mặt nước, lơ lửng
hoặc lắng sâu dưới đáy và tan trong nước. Ví dụ chỉ một giọt dầu cũng tạo
diện tích váng 0,25 m
2
trên mặt nước, tương tự một tấn dầu sẽ tạo váng 500
ha, dù lớp màng váng rất mỏng song vẫn gây hại với sinh vật thủy sinh. Ở các
đô thị của các nước đang phát triển thì 95% cống rãnh không được xử lý nước
thải và đã xả ra các cánh đồng lân cận. Thụy Sỹ là nước du lịch và vô cùng
sạch sẽ. Song các con sông suối ngoài biên giới Thụy Sỹ thì lại là nguồn
nước bị ô nhiễm hoàn toàn. Sông “Danuyp xanh” không còn là một hình ảnh
thơ mộng, hiện nay với chiều dài 100 km từ Cremxo đến biên giới Slovakia,
thực chất đã trở thành vùng nước chết về phương diện sinh học. Ở Hoa Kỳ,
hàng năm ngành nông nghiệp đã sử dụng khoảng 400 nghìn kg thủy ngân
trong các loại thuốc bảo vệ thực vật. Hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế
giới đều bị ô nhiễm nước ở các mức độ khác nhau. [18]
2.2.2. Tình hình ô nhiễm nước ở Việt Nam
Tốc độ CNH_HĐH và đô thị hóa ngày càng phát triển nhanh và sự gia tăng
dân số ngày càng gây áp lực nặng nề đối với nguồn nước trong lãnh thổ. Môi
trường nước ở các đô thị, làng nghề, khu công nghiệp ngày càng ô nhiễm nhiều
hơn. Đặc biệt ở các thành phố lớn hang trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang
gây ô nhiễm môi trường nước do không có các biện pháp, hệ thống xử lý
nước thải hợp tiêu chuẩn. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng,

ví dụ như: ngành công nghiệp rệt nay, ngành giấy và bột giấy nước thải
thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ô xi sinh hóa ( BOD); nhu
cầu ô xi hóa học (COD) có thể nên tới 700mg/l và 2500mg/l; hàm lượng chất
rắn lơ lửng cao gấp nhiều lần so với giới hạn cho phép.
Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN) vượt tới
84 lần, H
2
S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH
3
vượt tới 84 lần tiêu chuẩn cho phép
nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt ở khu vực xung quanh.
Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công
nghiệp tập chung là rất lớn.
Tại cụm công nghiệp Tham Lương thành phố Hồ Chí Minh, nguồn
nước bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng thải ước tính
khoảng 500,000 m
3
/ngày.
Khảo sát 1 số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì dệt nhuộm ở Bắc
Ninh cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m
3
/ngày chưa được xử lý đã thải
ra môi trường gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường trong khu vực.
Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt
không có hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông,
hồ, kênh, mương). Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước
thải, phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước
thải; một lượng rác thải rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được… là
những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm

trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn là rất nặng.
Ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới
300.000 - 400.000 m
3
/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý
nước thải, chiếm 25% lượng nước thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử
lý nước thải; lượng rác thải sinh hoại chưa được thu gom khoảng
1.200m
3
/ngày đang xả vào các khu đất ven các hồ, kênh, mương trong nội
thành; chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH
4
, NO
3
ở các sông, hồ, mương
nội thành đều vượt quá quy định cho phép ở thành phố Hồ Chí Minh thì
lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày; chỉ có 24/142 cơ sở y tế lớn là có xử
lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm thuộc diện phải di dời.
Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như
Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương… nước thải sinh hoạt cũng
không được xử lý độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt
quá tiểu chuẩn cho phép (TCVN), các thông số chất lơ lửng (SS), BOD,
COD, Ô xy hoà tan (DO) đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần TCVN.
Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông
nghiệp, hiện nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là
nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc
không được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô
nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung
bình biến đổi từ 1.500-3.500MNP/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông

Hậu, tăng lên tới 3800-12.500MNP/100ML ở các kênh tưới tiêu.
Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực
vật, các nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến
môi trường nước và sức khoẻ nhân dân.
Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích mặt nước sử dụng cho
nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là 751.999 ha. Do nuôi trồng
thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ thuật nên đã gây
nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng nhiều và
không đúng cách các loại hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, thì các thức ăn
dư lắng xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị ô nhiễm các
chất hữu cơ, làm phát triển một số loài sinh vật gây bệnh và xuất hiện một số
tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện thuỷ triều đỏ ở một số vùng ven
biển Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô
nhiễm môi trường nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu, nhận thức của người
dân về vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt
động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ
quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi
trường nước chưa sâu sắc và đầy đủ, chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là
loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời
sống con người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Các quy định
về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (chẳng hạn như chưa có các
quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn
nước). Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa
phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng.
Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước
theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý trong
việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước, gây nên tình
trạng thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước.

Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp (một số
nước ASEAN đã đầu tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1% GDP, còn ở
Việt Nam mới chỉ đạt 0,1%). Các chương trình giáo dục cộng đồng về môi
trường nói chung và môi trường nước nói riêng còn quá ít. Đội ngũ cán bộ
quản lý môi trường nước còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (Hiện nay
ở Việt Nam trung bình có khoảng 3 cán bộ quản lý môi trường/1 triệu dân,
trong khi đó ở một số nước ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu dân) [22]

2.2.2. Tình hình ô nhiễm nước ở Thái Nguyên
Theo đánh giá mới nhất của tỉnh Thái Nguyên, hiện nay tình trạng ô
nhiễm môi trường trên địa bàn ngày càng gia tăng và khó kiểm soát, tính chất
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ngày càng phức tạp, nhiều "điểm
nóng" về ô nhiễm môi trường còn tồn tại, gây bức xúc trong dư luận
Qua thống kê sơ bộ, hiện mỗi ngày toàn tỉnh thải ra trên 400 tấn chất thải sinh
hoạt nhưng số chất thải thu gom, xử lý mới đạt khoảng 36%, riêng lượng chất
thải y tế được thu gom, xử lý hợp vệ sinh cũng chỉ đạt gần 50%. Kết quả quan
trắc môi trường hàng năm cho thấy: môi trường không khí đã bị ô nhiễm cục
bộ, nhất là tại các khu vực: Nhà máy xi măng Núi Voi, Nhà máy xi măng
Quang Sơn (huyện Đồng Hỷ), Nhà máy xi măng La Hiên (huyện Võ Nhai)
Đáng ngại hơn, xung quanh các khu mỏ khai thác than hàm lượng bụi đã vượt
quy chuẩn cho phép đến 5 lần. Cùng với tình trạng ô nhiễm không khí, môi
trường đất tại các khu vực gần khu công nghiệp có biểu hiện ô nhiễm kim loại
nặng rõ rệt, điển hình như đất ruộng gần Khu công nghiệp Sông Công hàm
lượng Zn vượt 8,9 lần, hàm lượng Cd vượt 11 lần; tại Khu công nghiệp gang
thép Thái Nguyên hàm lượng Pb vượt tiêu chuẩn 2,8 lần, hàm lượng Zn vượt
46,6 lần Đặc biệt tại các khu vực khai thác, chế biến khoáng sản do chủ yếu
khai thác theo phương thức lộ thiên, thủ công bán cơ giới đã gây tác động xấu
đến môi trường, gây thất thoát tài nguyên như tại các điểm mỏ: than Làng
Cẩm, đôlômít Làng Lai, mỏ sắt Trại Cau Nguy hại hơn, ở một số mỏ than
Khánh Hòa, Phấn Mễ, Núi Hồng, mỏ sắt Trại Cau do khai thác lộ thiên đã tạo

ra các mương khai thác sâu tới hơn 100 m so với mực nước biển và đổ thải
cao hơn 100 m so với mặt địa hình khu vực, làm biến dạng địa hình, tác động
xấu đến hệ sinh thái khu vực, bồi lấp dòng chảy mặt, thậm chí gây mất nước,
sụt lún đất Tuy việc xác định tác nhân gây ô nhiễm môi trường đã khá rõ
ràng, tỉnh Thái Nguyên đã "khoanh vùng" 52 cơ sở gây ô nhiễm môi trường
và 48 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhưng việc xử lý còn chưa
kịp thời. Hiện Sở Tài Nguyên - Môi Trường tỉnh mới xác nhận 10 đơn vị, cơ
sở hoàn thành xử lý triệt để ô nhiễm, còn nhiều đơn vị vẫn gây ô nhiễm kéo
dài mặc dù đã bị xử lý vi phạm hành chính
Trước thực tế này, tỉnh Thái Nguyên đang khẩn trương hoàn thành Đề
án bảo vệ môi trường giai đoạn 2011 - 2015 với mục tiêu giải quyết các vấn
đề môi trường cấp bách, khắc phục và giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ
đa dạng sinh học, kịp thời ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo đó, tỉnh tiến
hành di dời các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trong các khu
dân cư vào các khu, cụm công nghiệp, kiểm soát công nghệ, hạn chế cho phép
đầu tư các cơ sở sản xuất có công nghệ mang tiềm năng gây ô nhiễm lớn, yêu
cầu các khu, cụm công nghiệp phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đảm
bảo dòng chảy và cải thiện môi trường, cảnh quan lưu vực sông Cầu, tiếp tục
nâng độ che phủ rừng theo chỉ tiêu kế hoạch đề ra /. [21]
2.3. Một số công nghệ trên thế giới và việt nam về xử lý nước thải
2.3.1. Trên thế giới
* Tại Singapore
Với tốc độ sụt giảm nguồn cấp nước hồ chứa Jatiluhur miền Tây Java,
cư dân Jakarta sắp phải đối mặt với những cơn khát. Ở nước láng giềng
Singapore, nơi vẫn phải nhập khẩu nước, người ta đang dùng nước thải để
làm nguồn cấp nước thay thế.
“Đừng lo khát nước! Bạn có thể uống Nước Mới của chúng tôi,” một
hướng dẫn viên nói với các nhà báo và viên chức của UN Habitat đang tham
quan trung tâm NEWater tại Singapore. Được hỏi về ý nghĩa của từ NEWater,
Henry Yap, hướng dẫn viên nói trên giải thích rằng đó là loại “nước mới”,

sạch, mát và trong như pha lê.
“Nước mới” có mùi vị chả khác gì các loại nước đóng chai khác và là
thương hiệu của loại nước được “chế tạo” từ những cống thoát nước của
Singapore. Nước thải sinh hoạt được xử lý bằng 2 công nghệ tiên tiến: màng
lọc UF và tia cực tím UV.
“Uống nước mới rất an toàn vì được xử lý bằng công nghệ lọc tuyệt
vời,” Yap vừa nói vừa phân phát những chai “Nước Mới” cho khách thăm,
trong đó có rất nhiều phóng viên từ TQ, Ấn Độ, Indo, Malay, Lào, Nepal,
Pakistan và Việt Nam.
Theo như thành phần công bố trên nhãn mác, NEWater có cả
carbohydrates, protein và soda. Trung tâm giới thiệu Nước Mới được khai
trương từ tháng 2 năm 2003 gần Sungei Bedok, nhằm cung cấp cho người
dân những hiểu biết về tài nguyên nước và giới thiệu công nghệ cho sinh viên
và du khách. NEWater là một trong bốn chiến lược nước sạch của Singapore,
đảo quốc nhỏ với 4,2 triệu cư dân, vốn không được thiên nhiên ban tặng
nguồn nước ngọt tự nhiên như những quốc gia láng giềng: Indonesia,
Malaysia, Philippines và Việt Nam.
“NEWater là một kỳ tích của Singapore,” - Nordin Mahmood, trợ lý
quản trị thuộc Ủy ban Cơ sở Hạ tầng Singapore (Public Utilities Board -
PUB), cơ quan quản lý nguồn nước quốc gia.
Hàng chục năm nay Singapore phải nhập khẩu nước từ bang Johor -
Malaysia. Nhưng 2 hiệp ước mua bán nước cấp quốc gia hết hạn lần lượt vào
các năm 2011 và 2061, và quan hệ song phương thường bị ảnh hưởng bởi
những bất đồng về giá nước thô.
“Chúng ta ngày càng đông đúc, tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa làm
cho hòn đảo vốn dĩ đã nhỏ càng thêm chật chội, không còn đủ chỗ để tích trữ
nước nữa,” Ông Tan Gee Paw, chủ tịch Ủy ban PUB phát biểu. “Dân số và
kinh tế tăng đồng nghĩa với nguồn nước sẽ thiếu,” Ông Paw nói thêm. Để đáp
ứng nguồn nước cho Singapore, năm 2002 chính phủ đã quyết định phát triển
NEWater thành một nguồn cấp nước tin cậy, không phụ thuộc vào thiên nhiên

Muốn tái sử dụng nước thải, NEWater đã pha trộn nước thải trong các hồ trữ
với nguồn nước thô để chuẩn bị cho các công đoạn tiếp theo. Mặc dù chi phí
đầu tư không nhỏ nhưng chính phủ vẫn quyết định dùng cả 3 cấp xử lý: Lọc
Ultra (UF), lọc thẩm thấu ngược (RO) và thanh trùng bằng tia cực tím (UV),
đảm bảo độ tinh khiết tối đa của thành phẩm NEWater. Nước sau khi qua
màng UF đảm bảo chỉ còn các ion muối khoáng hòa tan, một số phân tử hữu
cơ, tuyệt đối không còn các loại cặn, vi khuẩn, tảo, nấm và virus. Công đoạn
tiếp theo là Thẩm thấu ngược, sử dụng màng bán thấm với những lỗ lọc chỉ
cho phân tử nước đi qua. Các tạp chất, vi khuẩn, virus và ion kim loại, thuốc
trừ sâu không thể qua nổi màng lọc này. Thẩm thấu ngược là công nghệ đã
được ứng dụng từ lâu trong ngành sản xuất nước tinh khiết, siêu tinh khiết
trong công nghiệp, y tế và cả trên vũ trụ. Qua công đoạn này nước thải nay đã
thực sự tinh khiết nhưng vẫn được xử lý thêm một lần nữa bằng tia cực tím,
đảm bảo diệt khuẩn tuyệt đối 100%. Lúc này, Nước mới NEWater đã an toàn
cho ăn uống, sinh hoạt và sử dụng vào các mục đích khác. “NEWater trong
như pha lê và sạch hơn bất cứ một loại nước nào có trong tự nhiên,” Ông Tan
Ban Thong, giám đốc Water Hub, trung tâm hàng đầu nghiên cứu và phát
triển công nghệ mới của Singapore nhận xét. Ông còn đùa thêm rằng: “Biến
Nước mới NEWater thành rượu vang là bước tiếp theo của chúng tôi,” Tuy
nhiên cho đến nay, NEWater vẫn chỉ dung để quảng bá chứ chưa được bán
trên thị trường. Lý do: Singapore là một trong những nơi hiếm hoi trên thế
giới người ta có thể uống nước trực tiếp từ vòi. Không giống với Singapore,
nước máy ở hầu hết các nước trong khu vực như Indonesia, Malaysia,
Philipine và Việt Nam đều không thể uống trực tiếp vì nguy cơ nhiễm
khuẩn ColiForm và các loại tạp chất (có thể do hệ thống đường ống cũ kỹ xây
dựng từ 80 năm về trước, khi những nơi này còn là thuộc địa). Ở Singapore,
nước đóng chai chỉ chiếm 0.03 % tổng lượng nước uống So với nhiều quốc
gia khác như Pháp, Mỹ, Italia và cả Indonesia, Singapore là nơi có chỉ số
nước tinh khiết bình quân trên đầu người quá thấp. Hiện tại, NEWater mới chỉ
được sử dụng trong công nghiệp và các khu thương mại. Từ năm 2003,

NEWater được dung chủ yếu trong các nhà máy công nghiệp: sản xuất, làm
mát, nồi hơi Bằng cách này, một lượng lớn nước thô nhập khẩu được tập
trung cho sinh hoạt. [23]
2.3.2. Tại Việt Nam
* Công nghệ NANO VAST xử lý nước nhiễm Asen và kim loại nặng
Trước sự nhiễm độc asen trong nước ngầm ngày càng gia tăng gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đối với sức khỏe con người, mới đây các nhà khoa học
thuộc phòng Hóa vô cơ – Viện Hóa học đã nghiên cứu chế tạo và ứng dụng
thành công hệ thống xử lý nước nhiễm asen và kim loại sử dụng công nghệ
NanoVAST. Đây được coi là một giải pháp loại bỏ asen và các kim loại nặng
hiệu quả, an toàn và kinh tế. Trên cơ sở công nghệ này có thể thiết kế hàng
loạt các hệ xử lý asen cho nước ăn uống sử dụng ở quy mô gia đình, cụm gia
đình, cơ quan xí nghiệp, trường học, bệnh viện….
Nhiễm độc asen trong nước ngầm, được xem là một cuộc khủng hoảng
môi trường chưa từng có trong lịch sử thế giới hiện đại. Ô nhiễm asen theo
diện rộng đã gây ngộ độc đến số lượng lớn dân chúng. Một nghiên cứu năm
2007 cho thấy có trên 137.000.000 người ở hơn 70 quốc gia có thể bị ảnh
hưởng bởi nhiễm độc asen trong nước ăn uống điển hình là: Ấn Độ, Đài Loan,
Achentina, Trung Quốc, Mehico, Thái Lan, Chile, Bangladesh, Mỹ,
Campuchia, Việt Nam… Năm 2002 các nhà khoa học viện Công nghệ
Massachusetts đã dự đoán trên toàn thế giới có khoảng 1,2 triệu trường hợp
tăng sắc tố da, 600.000 trường hợp mắc chứng dày biểu bì và sừng hóa da,
125.000 trường hợp ung thư da và 3.000 người chết mỗi năm do ung thư các
cơ quan nội tạng liên quan đến việc ăn uống nước có chứa hàm lượng asen cao.
Ô nhiễm asen trong nước ngầm (nguồn nước đặc biệt quan trọng cung
cấp nước cho người dân) ở Việt Nam là vấn đề đã được khẳng định. Theo
đánh giá của WHO, khoảng trên 15 triệu người Việt Nam (gần 1/5 dân số) có
thể phải đối mặt với nguy cơ tiềm tàng về nhiễm độc asen do sử dụng các
nguồn nước ô nhiễm không được xử lý triệt để. Mức độ ô nhiễm đặc biệt cao
ở các tỉnh Hà Nam, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Long An, Đồng

Tháp, An Giang và Kiên Giang Do đó, việc loại bỏ asen và các kim loại
nặng trong nước ăn uống trở thành nhu cầu cấp thiết, đòi hỏi phải có một giải
pháp về công nghệ có hiệu quả. phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và có
tính khả thi cao.
Trong các kỹ thuật sử dụng để loại bỏ asen, hấp phụ được đánh giá là
kỹ thuật phổ biến có hiệu quả cao trong xử lý nước. Hàng loạt chất hấp phụ
mới được phát triển nhằm nâng cao hiệu quả loại bỏ các chất gây ô nhiễm hữu
cơ và vô cơ trong nước đặc biệt là asen. Chất hấp phụ nanocomposite được
quan tâm đặc biệt vì chúng kết hợp được bản chất và ưu thế của từng cấu tử
nhất là các cấu tử có kích thước nano. Chúng đại diện cho một sự thay thế hấp
dẫn, là một chất hấp phụ xúc tác với hoạt tính cao và chọn lọc theo hướng phù
hợp với một tác nhân nào đó. Các chất hấp phụ mới tiên tiến có thành phần,
cấu trúc, chức năng và đặc tính đặc biệt được nghiên cứu áp dụng trong xử lý nước.
Tại Việt Nam việc nghiên cứu loại bỏ asen cho nước sinh hoạt đã bắt
đầu từ lâu, nhưng nói chung chúng ta chưa có một công nghệ và vật liệu nào
tỏ ra có ưu thế vượt trội trong việc xử lý asen cả ở quy mô gia đình cũng như
quy mô công nghiệp. Công nghệ chủ yếu vẫn là oxy hoá cộng kết tủa - lắng
lọc đồng thời với quá trình xử lý mangan và sắt có sẵn trong nước ngầm. Đây
là một công nghệ cổ điển, hiệu quả loại bỏ asen thấp, sự can thiệp của các tác
nhân oxy hoá đôi khi không đem lại kết quả mong muốn.
Đi tìm lời giải cho bài toán xử lý asen, gần đây, các nhà khoa học thuộc
phòng Hóa vô cơ - Viện Hóa học đã nghiên cứu chế tạo thành công hệ thống
xử lý nước nhiễm Asen và kim loại nặng sử dụng công nghệ Nano VAST,
trong đó có sử dụng 2 loại vật liệu hấp phụ asen tiên tiến chế tạo trong nước là
NC-F20 và NC-MF. Đây là kết quả nghiên cứu của đề tài “Hoàn thiện công
nghệ và chế tạo thiết bị xử lý nước nhiễm asen sử dụng vật liệu hấp phụ hiệu
năng cao NC-F20 cho vùng nông thôn Hà Nam” thuộc Chương trình mục tiêu
quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, do KSC. Phạm Văn
Lâm – Phòng Hóa vô cơ - Viện Hóa học làm chủ nhiệm. [17]
* Công nghệ xử lý nước thải ở khu công nghiệp Việt Nam – Singapore

Nhà máy xử lý nước thải được thiết kế với công suất 6000m
3
/ngày.
Nước thải từ các nhà máy trong khu công nghiệp được thu gom về bể
thu nước thải sau khi qua song chắn rác nhằm tách bỏ rác thô, có kích thước
lớn. Nước thải từ bể gom được bơm lên sang rác nhỏ dạng trống quay, sau đó
đưa vào bể phân phối. Nước thải từ bể phân phối được đưa vào bể điều hòa
nhằm mực đích điều hòa về nồng độ lưu lượng trước khi qua các công trình
xử lý nước thải sinh học tiếp theo.
Từ bể điều hòa, nước thải được dẫn qua chứa và từ đây được bơm lên
tháp lọc sinh học. Tháp lọc sinh học được sử dụng vật liệu đệm là tấm plastic
xếp song song làm giá thể cho vi sinh vật đính bám phát triển. Tháp lọc sinh
học đóng vai trò xử lý sinh học bậc 1 do vi sanh vật dạng đính bám tồn tại
đồng thời các chủng hiếu khí, tùy nghi và cá kị khí, có khả năng xử lý ổn
định, chịu được sự thay đổi về tải lượng ô nhiễm đầu vào.
Nước thải sau khi qua tháp lọc sinh học có nồng độ BOD % khoảng
120 mg/l được đưa vào bể hoàn lưu. Một phần nhỏ được tuần hoàn lại bể lọc

×