Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Sử dụng phần mềm dạy học theo hướng tích cực hoá quá trình nhận thức của học sinh trong dạy học một số kiến thức vật lý 11, THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.35 MB, 117 trang )


1

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài.
Trong các nguồn lực để phát triển đất nước nhanh, hiệu quả, bền vững,
đúng định hướng thì nguồn lực con người là yếu tố cơ bản. Muốn xây dựng
nguồn lực con người, phải đẩy mạnh đồng bộ giáo dục đào tạo, khoa học công
nghệ và xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Muốn phát triển được giáo dục, một trong những vấn đề cấp thiết có tính
chiến lược là đổi mới phương pháp giáo dục. Từ việc truyền thụ tri thức thụ
động một chiều: Thầy giảng, trò ghi, sang hướng dẫn người học chủ động tư
duy trong quá trình tiếp cận tri thức. Phương pháp giáo dục được quy định
trong Luật Giáo dục nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại mục 2
Điều 4 ghi rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say
mê học tập và ý chí vươn lên” [13].
Trước bối cảnh đó, đổi mới phương pháp dạy học là cần thiết. Nghị
quyết hội nghị lần 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII chỉ rõ: "Đổi
mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp
dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy
học " [7].
Nhận thức được tầm quan trọng của công nghệ thông tin (CNTT) đối
với đổi mới giáo dục, trong Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT, Bộ trưởng Bộ
giáo dục và Đào tạo đã chỉ rõ: “Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin
trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra một bước chuyển biến cơ bản trong quá
trình đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, học tập và
quản lý giáo dục" [2].

2



Hiện nay, sự phát triển của CNTT đã mở ra triển vọng to lớn trong việc
đổi mới phương pháp dạy học. Hầu hết các trường đều được trang bị máy vi
tính, phòng học CNTT, kết nối Internet… Máy vi tính được sử dụng trong
dạy học để hỗ trợ các nhiệm vụ cơ bản của quá trình dạy học (QTDH) và nhất
là hỗ trợ đắc lực cho việc dạy và học chương trình mới theo hướng tích cực
hóa người học. Với sự trợ giúp của máy vi tính và phần mềm dạy học, giáo
viên (GV) có thể tổ chức quá trình học tập của học sinh (HS) theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động nhận thức của học sinh
[12], [18].
Với đặc thù của Vật lí học là môn khoa học thực nghiệm (TN) nên
trong quá trình hình thành những kiến thức mới cho HS đòi hỏi GV và HS
phải tiến hành các thí nghiệm. Từ đó tạo niềm tin, phát triển tư duy và góp
phần giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho HS. Thế nhưng việc tiến hành thí nghiệm
Vật lí hiện nay vẫn gặp một số khó khăn nhất định. Các khó khăn gặp phải khi
tiến hành các thí nghiệm là do một vài thí nghiệm cần thực hiện với nhiều
thao tác phức tạp; một vài thí nghiệm khác thì có mức độ nguy hiểm cao hoặc
không thể thực hiện được trong điều kiện bình thường; ở một số trường còn
thiếu hoặc thậm chí chưa có các phòng học bộ môn hoặc phòng thí nghiệm
thực hành, những nơi đã có phòng thí nghiệm thực hành thì thiếu cán bộ
chuyên trách; diện tích phòng học nhỏ và bố trí bàn ghế cũng như thiết bị ở
bên trong không thuận lợi cho việc sử dụng thí nghiệm trên lớp,…
Đối với môn Vật lí, muốn học sinh hiểu sâu sắc những định luật, bản
chất hiện tượng, cần phải có những phần mềm được xây dựng công phu để
mô tả tiến trình của các thí nghiệm. Một khó khăn là các nhà nghiên cứu khoa
học, giáo viên vật lí không chuyên về lĩnh vực tin học gặp rất nhiều khó khăn
để xây dựng các phần mềm như thế, từ thực trạng đó, mỗi giáo viên cần biết
khai khác những phần mền chuyên môn đã được xây dựng ở các nước cũng

3


như nước ta và kết hợp sử dụng chúng với các phương tiện dạy học hiện đại
như máy vi tính, Projector vào quá trình dạy và học nhằm giúp học sinh
phát huy tính tích cực học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức dưới sự tổ chức, điều
kiển của giáo viên, góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện
đại [27].
Với những lí do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài:
“Sử dụng phần mềm dạy học theo hướng tích cực hóa quá trình nhận thức
của học sinh trong dạy học một số kiến thức Vật lí 11, THPT".
2. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Nghiên cứu, khai thác và sử dụng phần mềm trong dạy học đã có nhiều
tác giả nghiên cứu như "Khai thác và sử dụng phần mềm Crocodile Physics
trong dạy học Vật lí ở trường trung học phổ thông" (Lê Thị Ngọc Thủy,
2005), "Nghiên cứu khai thác Working Model thiết kế dạy cơ học Vật lí 10
trung học phổ thông" (Hoàng Trọng Phú, 2004), "Khai thác và sử dụng phần
mềm Working Model trong dạy học Vật lí ở trường trung học phổ thông"
(Huỳnh Thị Đức Hạnh, 2006).
Tác giả Hoàng Trọng Phú là người đầu tiên nghiên cứu khai thác
Working Model vào dạy học. Tuy nhiên, tác giả chỉ giới hạn phạm vi ở phần
cơ học 10 và chưa đưa ra một hướng dẫn cụ thể, chi tiết cần thiết cho người
lần đầu tiên thiết kế mô phỏng với Working Model. Các TNMP được thiết kế
còn đơn giản, chưa khai thác hết những tính năng của phần mềm Working
Model. Với trình độ tin học và tiếng Anh hạn chế, nhiều GV còn rất ngần ngại
trong việc khai thác và sử dụng phần mềm Working Model để phục vụ dạy
học. Do vậy, trong thực tế, việc khai thác và sử dụng phần mềm này vào dạy
học Vật lí nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS chưa phát triển hết
khả năng vốn có của nó [8].

4


Trong dạy học Vật lí ở trường phổ thông, hầu hết các kiến thức VL được
rút ra từ những quan sát và thí nghiệm. Vì vậy, thí nghiệm là một phương tiện
rất quan trọng, có tác dụng to lớn trong việc nâng cao chất lượng nắm vững
kiến thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo của HS. Trong những năm gần đây, bên
cạnh những công trình nghiên cứu về việc sử dụng các thí nghiệm vào dạy
học có hiệu quả, còn có nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng MVT vào dạy
học VL và đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà giáo dục. Tiêu biểu là các
công trình nghiên cứu của các tác giả Mai Văn Trinh trong luận án Tiến sĩ
năm 2001 đã nghiên cứu đề tài “Nâng cao hiệu quả dạy học vật lí ở
trườngTHPT nhờ việc sử dụng MVT và các phương tiện dạy học hiện đại ”;
tác giả Trần Huy Hoàng với đề tài “Nghiên cứu sử dụng thí nghiệm với sự hỗ
trợ của MVT trong dạy học một số kiến thức cơ học và nhiệt học trung học
phổ thông”, luận án Tiến sĩ 2006; “ Khai thác và sử dụng Internet trong dạy
học điện học lớp 11 trung học phổ thông” của tác giả Phạm Vân Điệp, luận
văn Thạc sĩ 2007,
Hiện nay có nhiều phần mềm mô phỏng hỗ trợ dạy học Vật lí như:
PAKMA, Working Model, Crocodile Physics, Interactive Physics Trong
nhóm các phần mềm mô phỏng về Vật lí, phần mềm dạy học cho phép thiết
kế các thí nghiệm mô phỏng (TNMP) sinh động, hấp dẫn, mang lại hiệu quả
trong việc phân tích các hiện tượng, đặc biệt là khi không thể thực hiện thí
nghiệm thực hoặc để giải các bài tập Vật lí Những TNMP sẽ tạo điều kiện
tốt hơn cho HS quan sát, thu thập thông tin Nhờ đó HS sẽ hứng thú hơn,
hoạt động nhận thức có hiệu quả hơn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy
học ở trường phổ thông. Để tạo nguồn tư liệu tham khảo, hỗ trợ việc dạy và
học cho GV và HS, đáp ứng xu hướng vận dụng công nghệ thông tin và đổi
mới phương pháp dạy học.

5

Hiện nay phần mềm dạy học rất da dạng và phong phú được GV chú ý

quan tâm trong dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học
sinh.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Xây dựng quy trình, phương pháp, kỹ thuật sử dụng phần mềm dạy học
theo hướng tích cực hoá quá trình nhận thức của học sinh trong dạy học một
số kiến thức của các chương “Cảm ứng điện từ”, “Mắt.Các dụng cụ quang”
Vật lí lớp 11, THPT.
4. Đối tượng nghiên cứu.
- Quá trình dạy học Vật lí ở trường phổ thông có sử dụng phần mềm
dạy học
5. Giả thuyết khoa học.
Phần mềm dạy học có vai trò rất quan trọng trong việc phát huy tính
tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh. Nếu nghiên cứu, đề xuất
được quy trình thiết kế tiến trình dạy học với sự hỗ trợ của PMDH hợp lí thì
sẽ phát huy được tính tích cực trong hoạt động nhận thức của HS, góp phần
đổi mới PPDH và nâng cao hiệu quả dạy- học Vật lí ở thường THPT.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tích cực hóa hoạt động nhận thức của học
sinh trong dạy học Vật lí.
- Điều tra thực trạng của việc sử dụng PMDH trong dạy học Vật lí của
các trường THPT nói chung và trong một số kiến thức lớp 11 nâng cao nói
riêng.
- Nghiên cứu mục tiêu, nội dung, chương trình và SGK Vật lí 11.
- Đề xuất quy trình dạy học một số bài dạy học Vật lí có sử dụng phần
mềm dạy học.

6

- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá hiệu quả của việc vận
dụng phần mềm dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của

học sinh trong dạy học Vật lí, rút ra các kết luận cần thiết.
7. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài chỉ tập trung khai thác và sử dụng phần mềm dạy học theo
hướng tích cực hóa quá trình nhận thức của học sinh để thiết kế một số bài
dạy học trong 2 chương “ Cảm ứng điện từ “ và “ Mắt. Các dụng cụ quang “
Vật lí 11, THPT.
Phần thực nghiệm sư phạm sẽ được tiến hành ở một số trường THPT
Tp Ninh Bình.
8. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử
dụng các phương pháp sau đây:
*Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Nghiên cứu các tài liệu, sách báo liên quan đến đề tài nghiên cứu nhằm
xác định cơ sở lý luận của đề tài.
*Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra giáo dục : Phỏng vấn gián tiếp bằng phiếu hỏi và toạ đàm
trực tiếp với các đối tượng là giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục,
học sinh về thực trạng dạy học Vật lí ở trường phổ thông.
- Quan sát sư phạm : Dự giờ của giáo viên Vật lí
* Thực nghiệm sư phạm
Tiến hành dạy một số tiết học có sử dụng phần mềm dạy học theo
hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh; quan sát, kiểm tra đánh
giá hoạt động của HS khi học các giờ học này, sau đó so sánh với các lớp đối

7

chứng; kết hợp với việc trao đổi ý kiến của GV về các bài học có sử dụng
phần mềm thí nghiệm ảo này.
* Thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu thực nghiệm

sư phạm, so sánh kết quả học tập của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng, từ
đó rút ra nhận xét nhằm kiểm chứng giả thuyết khoa học của đề tài.
9. Cấu trúc luận văn.
Luận văn có cấu trúc như sau:
- Mở đầu
- Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng phần mềm
dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong
dạy học Vật lí
Chương 2: Phương pháp sử dụng phần mềm dạy học theo hướng
tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học Vật lí 11
nâng cao THPT.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
- Phần kết luận
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục.

8

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG PHẦN MỀM
DẠY HỌC THEO HƯỚNG TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG NHẬN
THỨC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ.
1.1. Cơ sở lí luận của việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh
trong dạy học Vật lí.
1.1.1. Quan niệm về tính tích cực nhận thức.
Tính tích cực nhận thức là khái niệm biểu thị sự nỗ lực của chủ thể khi
tương tác với đối tượng [22].
Theo Kharlamov: Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động của HS,

đặc trưng bởi khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá
trình nắm vững kiến thức. Tính tích cực nhận thức biểu hiện ở chỗ huy động
cao các chức năng tâm lí, đặc biệt là chức năng tư duy. Còn V.Ôkôn quan
niệm tính tích cực là lòng mong muốn không chủ định và gây nên những biểu
hiện bên ngoài hoặc bên trong của sự hoạt động.
Có tác giả quan niệm rằng tính tích cực nhận thức là thái độ cải tạo của
chủ thể đối với khách thể thông qua sự huy động ở mức độ cao các chức năng
tâm lí nhằm giải quyết những vấn đề học tập nhận thức.
Như vậy, tính tích cực nhận thức là một phẩm chất vốn có của con người;
là sự nỗ lực cao của hoạt động trí tuệ, sự huy động ở mức độ cao của ý chí
nhằm tìm tòi, khám phá, chủ động cải biến môi trường tự nhiên để phục vụ
cho con người.
Tóm lại, tính tích cực nhận thức là một phẩm chất rất quan trọng của con
người, được hình thành từ rất nhiều lĩnh vực, nhiều nhân tố, có quan hệ với
rất nhiều phẩm chất khác của nhân cách và với môi trường, điều kiện mà chủ

9

thể hoạt động và tồn tại. Là một trong những vấn đề quan trọng nhất của giáo
dục học hiện đại.
1.1.2. Hoạt động nhận thức của HS trong dạy học môn Vật lí.
Nhận thức vật lí là nhận thức chân lí khách quan. Quá trình nhận thức vật
lí bao gồm các giai đoạn điển hình:
Th
ực tiễn Vấn đề Giả thuyết Hệ quả Định luật Lý thuyết
Thực tiễn.
Do đó, con đường đi tìm những tính chất và quy luật vận động của sự vật,
hiện tượng vật lí trong tự nhiên là lấy thực tiễn làm chân lý, không phụ thuộc
vào ý muốn của con người. Vì vậy trong dạy học vật lí phải làm thế nào để
HS không những chiếm lĩnh, vận dụng được tri thức mà còn tin tưởng vững

chắc rằng: mọi hiện tượng trong tự nhiên đều diễn ra theo quy luật của tự
nhiên, có tính khách quan, có hệ thống chặt chẽ mà con người có thể nhận
thức được ngày càng sâu sắc và chính xác hơn [9].
Hoạt động nhận thức vật lí của HS phổ thông khác hẳn với hoạt động nhận
thức của nhà khoa học [22]. Những định luật vật lí, kĩ năng tiến hành thí
nghiệm vật lí đều là những điều đã biết. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS tái
tạo lại chúng trong một thời gian ngắn của tiết học để biến thành vốn riêng
của mình, chứ không đem lại điều gì mới mẻ cho kho tàng kiến thức vật lí.
Nhưng với bản thân HS, qua hoạt động tái tạo kiến thức đó mà trưởng thành
lên.
Theo quan điểm dạy học hiện nay, dạy vật lí là tổ chức, dướng dẫn HS
thực hiện các hành động nhận thức vật lí để họ tự giác lĩnh hội tri thức, rèn
luyện kĩ năng nhằm tạo ra sự biến đổi và phát triển ở chính người học [16].
Đối với HS THPT, những hành động được dùng phổ biến trong quá trình
nhận thức vật lí là:

10
- Quan sát hiện tượng tự nhiên, nhận biết những dấu hiệu đặc trưng bên
ngoài của sự vật hiện tượng vật lí;
- Phân tích một hiện tượng phức tạp ra thành những hiện tượng đơn giản;
- Xác định những giai đoạn diễn biễn của hiện tượng;
- Bố trí, tiến hành một thí nghiệm để tạo ra hiện tượng tự nhiên trong
những điều kiện xác định nhằm làm bộc lộ những mối quan hệ, những thuộc
tính của sự vật, hiện tượng;
- Đo một đại lượng vật lí;
- Ghi chép những thông tin thu thập được từ quan sát, thí nghiệm;
- Tìm các dấu hiệu giống nhau của các sự vật hiện tượng;
- Tìm tính chất chung của nhiều sự vật hiện tượng cùng loại;
- Tìm mối quan hệ khách quan, phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng vật
lí;

- Tìm mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng;
- Mô hình hoá những sự kiện thực tế quan sát được dưới dạng những khái
niệm, những mô hình lí tưởng để sử dụng chúng làm công cụ của tư duy;
- Lập đồ thị biểu diễn sự biến thiên của một đại lượng vật lí;
- Tìm mối quan hệ hàm số giữa các đại lượng vật lí, biểu diễn bằng công
cụ toán học;
- Đề xuất dự đoán;
- Giải thích một hiện tượng thực tế;
- Xây dựng một giả thuyết;
- Từ giả thuyết, suy ra một hệ quả;
- Lập phương án thí nghiệm để kiểm tra một giả thuyết (hệ quả);
- Đánh giá kết quả thu được từ thí nghiệm;
- Khái quát hoá kết quả, rút ra tính chất, quy luật hình thành các khái
niệm định luật và thuyết vật lí;

11
- Tìm những biểu hiện cụ thể trong thực tế của khái niệm, định luật vật lí;
- Diễn đạt bằng lời những kết quả thu được qua hành động;
- Tìm phương pháp chung để giải quyết vấn đề.
Nhận thức vật lí là một vấn đề khó đối với HS THPT. Để khai thác tính
hấp dẫn của bộ môn vật lí, GV phải dẫn dắt HS từng bước chiếm lĩnh kiến
thức vật lí và tập vận dụng sáng tạo kiến thức đó vào việc giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đặt ra qua những hành động chủ yếu trong dạy học vật lí
đó là [15] :
- Xây dựng tình huống có vấn đề;
- Xây dựng cấu trúc nội dung bài học thích hợp;
- Rèn luyện cho HS kĩ năng thực hiện một số thao tác cơ bản, một số
hành động nhận thức phổ biến;
- Hướng dẫn, tạo điều kiện để HS phát biểu, trao đổi, tranh luận về các
kết quả hành động của mình, động viên khuyến khích kịp thời;

- Lựa chọn và cung cấp cho HS những phương tiện, công cụ nhất thiết để
thực hiện hành động;
- Cho HS làm quen với các phương pháp nhận thức vật lí.
Như vậy, khi nắm được các hành động chính trong hoạt động nhận thức
vật lí của HS và nhờ đó xác định những hành động chính trong dạy học vật lí,
GV biết phải lựa chọn kiến thức, phương tiện nào và vận dụng như thế nào để
các hành động ấy ngày càng thành thạo và chính xác.
1.1.3. Tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh trong môn Vật lí.
Tính tích cực hoạt động nhận thức là tính tích cực chủ yếu được xét trong
quá trình nhận thức của HS trong học tập [22].
Điều đáng chú ý là: Mục đích giáo dục ngày nay ở nước ta và trên thế giới
không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ cho HS những kiến thức, kĩ năng loài
người đã tích luỹ được trước đây, mà còn đặc biệt quan tâm đến việc bồi

12
dưỡng cho họ năng lực sáng tạo ra những tri thức mới, giải quyết những vấn
đề mới phù hợp với hoàn cảnh của đất nước, của mỗi dân tộc [19].
Hoạt động học tập dựa trên sự hứng thú thì người HS không chỉ nắm vững
nội dung rộng lớn và sâu sắc mà còn tạo nên thái độ tích cực của cá nhân đối
với học tập.
Tính tích cực hoạt động nhận thức trong học tập liên quan với động cơ học
tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú
và tự giác là hai yếu tố tâm lí tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp
tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại,
phong cách học tập tích cực, sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú và bồi
dưỡng động cơ học tập [12],[9].
Những biện pháp kích thích hứng thú học tập của HS có thể là:
- Tạo điều kiện để HS củng cố lòng tin vào sức mình: GV kịp thời biểu
dương khi HS trả lời đúng hoặc thể hiện sự cố gắng, cho HS những bài tập tự
chọn kết hợp với những bài tập bắt buộc để các em phát triển khả năng tự học

của mình.
- Đảm bảo tính hấp dẫn trong học tập bằng cách cải tiến những phương
tiện, PPDH. Sử dụng những PPDH phù hợp, tối ưu, kết hợp truyền thống và
hiện đại.
- Tăng cường tính vấn đề trong dạy học bằng hệ thống câu hỏi nêu vấn
đề, kích thích óc tư duy, sáng tạo của HS trong quá trình học tập.
- Thu hút HS vào những công việc tự chọn, vào công tác ngoại khoá,
- Sử dụng sự hỗ trợ của CNTT trong DH cũng là một biện pháp hữu hiệu
nhằm kích thích hứng thú của các em trong học tập.
- Kiểm tra, đánh giá cũng là một động lực quan trọng tác động đến tính
tích cực trong học tập của HS. Do vậy, cần có những đổi mới trong hình thức
cũng như nội dung kiểm tra, đánh giá HS như: sử dụng phiếu học tập để củng

13
cố các kiến thức và kĩ năng vừa học trong bài, tạo điều kiện cho HS đánh giá
kết quả học tập lẫn nhau bằng cách sửa bài tập trên lớp, sử dụng phối hợp
hình thức kiểm tra trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận.
* Biểu hiện và mức độ tính tích cực hoạt động nhận thức.
Đối với HS tính tích cực được biểu hiện trong các hoạt động, đặc biệt là
những hoạt động trong bản thân các em và thường biểu hiện qua các hành vi
bên ngoài.
+ Dấu hiệu biểu hiện tính tích cực học tập.
Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của HS thể hiện ở những hoạt
động trí tuệ hoặc hoạt động cơ bắp. Có trường hợp tính tích cực học tập biểu
hiện ở những hoạt cơ bắp nhưng quan trọng là sự biểu hiện những hoạt động
trí tuệ. Hai hình thức này thường đi liền với nhau, song hoạt động hăng hái về
cơ bắp mà đầu óc không suy nghĩ thì chưa phải là hoạt động tích cực học tập
[15].
Theo G.I. Sukina (1979) có thể nêu ra các dấu hiệu của tính tích cực học
tập như sau:


- HS khao khát, tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của GV, bổ sung
các câu trả lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình về vấn đề nêu
ra
- HS hay thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề mà GV trình
bày chưa đủ rõ.
- HS chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kĩ năng đã học để
nhận thức những vấn đề mới.
- HS mong muốn được đóng góp với thầy, với bạn những thông tin mới
lấy từ những nguồn khác nhau, có khi vượt ra ngoài phạm vi bài học, môn
học.

14
- Ngoài những biểu hiện nói trên mà GV dễ nhận thấy còn có những biểu
hiện về mặt cảm xúc, khó nhận thấy hơn, như thờ ơ hay hào hứng, phớt lờ hay
ngạc nhiên, hoan hỉ hay buồn chán trước một nội dung nào đó của bài học
hoặc khi tìm ra lời giải thích hay cho một bài tập khó
Những dấu hiệu này biểu hiện khác nhau ở từng cá thể HS, bộc lộ rõ ở
những HS các lớp dưới, kín đáo ở HS các lớp trên. G.I. Sukina còn phân biệt
những biểu hiện của tính tích cực học tập về mặt ý chí:
- Tập trung chú ý vào vấn đề đang học.
- Kiên trì làm xong các bài tập.
- Không nản trước các tình huống khó khăn.
- Thái độ phản ứng khi chuông báo hết tiết học: tiếc rẻ, cố làm cho xong,
hoặc vội gấp sách vở, chờ được lệnh ra chơi.
+ Mức độ biểu hiện tính tích cực học tập.
G.I. Sukina phân biệt ba cấp độ biểu hiện tính tích cực học tập, từ thấp đến
cao:
- Bắt trước, sao chép: Xuất hiện do tác động kích thích bên ngoài. Kinh
nghiệm hoạt động cuả bản thân HS được tích luỹ dần thông qua việc tích cực

bắt chước hoạt động của GV và bạn bè. Trong hành động bắt chước cũng phải
có sự cố gắng của thần kinh và cơ bắp.
-Tìm tòi, thực hiện: HS tìm cách độc lập, tự lực giải quyết bài tập nêu ra,
mò mẫm những cách giải khác nhau để tìm cho được lời giải hợp lí nhất. Ở
mức độ này tính độc lập cao hơn mức trên, HS tiếp cận nhiệm vụ và tự tìm
cho mình phương tiện thực hiện.
- Sáng tạo: HS nghĩ cách giải mới, độc đáo, đề xuất những giải pháp có
hiệu quả, có sáng kiến lắp đặt những thí nghiệm để chứng minh bài học. Dĩ
nhiên, mức độ sáng tạo của HS là có hạn nhưng đó là mầm mống để phát triển
trí sáng tạo về sau này. Đây là biểu hiện tính tích cực cao nhất [12][17].

15








Sơ đồ 1.1: Sự biểu hiện và cấp độ của tính tích cực học tập.
Tóm lại, tính tích cực nhận thức của HS là trạng thái hoạt động thể hiện
khát vọng cao trong học tập, sự cố gắng về trí tuệ và nghị lực cao trong quá
trình nắm vững kiến thức.
* Biện pháp phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức vật lí
của học sinh.
+ Những nhân tố ảnh hưởng đến TTC nhận thức.
Nhìn chung TTC nhận thức phụ thuộc vào những nhân tố sau đây [22] :
1. Bản thân HS: Đặc điểm hoạt động trí tuệ (tái hiện, sáng tạo ); năng
lực HS (hệ thống tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, sự trải

nghiệm cuộc sống ); tình trạng sức khoẻ; trạng thái tâm lí (hứng thú, xúc
cảm, chú ý, nhu cầu, động cơ, ý chí ); phẩm chất (các giá trị đạo đức, thẩm
mỹ, tinh thần trách nhiệm ).
2. Môi trường giáo dục: Đặc điểm hoạt động trí tụê (tái hiện, sáng tạo );
chất lượng quá trình dạy học – giáo dục (nội dung, phương pháp, phương tiện,
hình thức kiểm tra đánh giá ); quan hệ thầy trò; không khí học tập
3. Điều kiện cơ sở vật chất, tinh thần (thời gian, tiền của, không khí đạo
đức ).
Có thể tóm tắt qua sơ đồ sau:
Tính tích cực
nh
ận thức

Biểu hiện
- Khao khát học
- Hay nêu thắc mắc
- Tập trung chú ý
- Kiên trì
Cấp độ
- Bắt chước
- Tìm tòi

-

Sáng t
ạo


16






















Sơ đồ 1.2: Các nhân tố ảnh hưởng đến TTC nhận thức của HS.

+ Các định hướng nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh.
Trong quá trình dạy học, để tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS thì
quá trình dạy học đó diễn biến sao cho:
-Học sinh được đặt ở vị trí chủ thể, tự giác, tích cực, sáng tạo trong hoạt
động nhận thức của bản thân.
- GV đóng vai trò là người đạo diễn, định hướng trong hoạt động dạy
học.
- Mục đích của dạy học không chỉ dừng lại cung cấp tri thức, rèn luyện kĩ

năng, kĩ xảo mà phải dạy cho HS cách học, cách tự học, tự hoạt động nhằm
đáp ứng các nhu cầu của bản thân và xã hội.
Môi trường giáo dục

Cơ sở vật chất



Tính tích cực
nhận thức

-Cảm giác, tri giác.
- Tư duy
- Tưởng tượng
- Ngôn ngữ
Phẩm
chất
Nhu cầu
động cơ
Tri
thức
Sức
khoẻ

Ý
chí
Trí
tuệ
Xúc cảm
Kinh nghiệm


17
+ Các biện pháp tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh.
Trên cơ sở các định hướng nêu trên, những biện pháp tích cực hoá hoạt
động nhận thức của HS được xác định là [22]:
1. Nói lên ý nghĩa lí thuyết và thực tiễn, tầm quan trọng của vấn đề
nghiên cứu.
2. Nội dung dạy học phải mới, nhưng không quá xa lạ với HS mà cái mới
phải liên hệ, phát triển cái cũ và có khả năng áp dụng trong tương lai. Kiến
thức phải có tính thực tiễn, gần gũi với sinh hoạt, suy nghĩ hàng ngày, thoả
mãn nhu cầu nhận thức của HS.
3. Phải dùng các phương pháp đa dạng và phối hợp nhuần nhuyễn: nêu
vấn đề, thí nghiệm, thực hành, so sánh, tổ chức thảo luận, xêmina và phối hợp
chúng với nhau.
4. Kiến thức phải được trình bày trong dạng động, phát triển và mâu
thuẫn với nhau, tập trung vào những vấn đề then chốt, có lúc diễn ra một cách
đột ngột, bất ngờ.
5. Sử dụng các phương tiện DH hiện đại thích hợp, có hiệu quả. Với bộ
môn Vật lí, nếu khai thác và sử dụng hiệu quả các thí nghiệm Vật lí sẽ thể
hiện rõ nét đặc thù của bộ môn và tính tích cực hoá hoạt động nhận thức của
HS rất tốt.
6. Sử dụng các hình thức tổ chức DH khác nhau: Cá nhân, nhóm, tập thể,
tham quan, làm việc trong vườn trường, phòng thí nghiệm.
7. Luyện tập, vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong các tình huống mới.
8. Thường xuyên kiểm tra đánh giá, khen thưởng và kỉ luật kịp thời, đúng
mức.
9. Kích thích tính tích cực qua thái độ, cách ứng xử giữa GV và HS, nêu
cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác.

18

10. Phát triển kinh nghiệm sống của HS trong học tập qua các phương
tiện thông tin đại chúng và các hoạt động xã hội.
11. Tạo không khí học tập thoải mái, môi trường lành mạnh trong lớp,
trong trường, tôn vinh sự học nói chung và biểu dương những HS có thành
tích học tập tốt. Chúng ta không thể tích cực hoá trong khi HS vẫn mang tâm
lí lo sợ, khi các em không có động cơ và hứng thú học tập và đặc biệt là thiếu
không khí dạy học. Trong môi trường đó HS dễ dàng bộc lộ những hiểu biết
của mình và sẵn sàng tham gia tích cực vào quá trình dạy học, vì khi đó tâm lí
các em rất thoải mái.
12. Có sự động viên, khen thưởng từ phía gia đình và xã hội.
1.2. Phần mềm dạy học.
1.2.1.Khái niệm phần mềm dạy học.
Theo từ điển tin học Anh-Việt, nhà xuất bản thanh niên 2000: “Phần mềm-
Sofware là các chương trình hay thủ tục chương trình, chẳng hạn như một ứng
dụng, tập tin, hệ thống, chương trình điều khiển thiết bị , cung cấp các chỉ thị
chương trình cho máy tính”.
PMDH là một trong những chương trình ứng dụng được xây dựng nhằm
hỗ trợ cho GV và HS trong QTDH.
PMDH là phần mềm phục vụ cho việc sử dụng MVT vào dạy học bằng
cách ra lệnh cho máy tính thực hiện các yêu cầu về nội dung và PPDH theo
các mục tiêu đã định. PMDH là phần mềm được thiết kế nhằm hỗ trợ có hiệu
quả việc dạy và học của GV, HS trong việc bám sát mục tiêu, nội dung,
chương trình, sách giáo khoa.
PMDH môn vật lí là một PMDH được các chuyên gia tin học viết dựa trên
cơ sở các kiến thức vật lí, các hiểu biết hợp lí đã được các nhà sư phạm, nhà
vật lí soạn sẵn, có thể được GV và HS dùng vào việc dạy và học các kiến thức
vật lí thông qua MVT.

19
Như vậy, PMDH là sản phẩm được kết tinh từ hai chuyên gia: sư phạm và

tin học, nó luôn chứa những tri thức của khoa học giáo dục và các sản phẩm
của CNTT. Không phải bất cứ một phần mềm nào hễ được sử dụng vào dạy
học thì được gọi là PMDH, mà chỉ có thể nói đến việc khai thác những khả
năng của nó để hỗ trợ cho QTDH mà thôi.
PMDH là phần mềm được thiết kế nhằm hỗ trợ có hiệu quả việc dạy và
học của GV và HS bám sát mục tiêu, nội dung chương trình SGK. Một
PMDH có chất lượng nếu nó đảm bảo được những tiêu chuẩn sư phạm của
một phương tiện dạy học, tính hiệu quả của việc sử dụng, có khả năng góp
phần đổi mới PPDH, phải phát huy tính chủ đông trong hoạt động nhận thức
của từng HS.
1.2.2. Phân loại phần mềm dạy học.
1.2.2.1. Đặc điểm của phần mềm dạy học.
- PMDH là phương tiện dạy học hiện đại có nhiều tính năng ưu việt so với
các loại hình thiết bị dạy học truyền thống.
- Đó là một chương trình được lập trình sẵn ghi vào đĩa mềm; có thể mang
một lượng thông tin lớn, chọn lọc ở mức cần và đủ theo nhu cầu của nhiều đối
tượng.
- Là nguồn cung cấp tư liệu phong phú đa dạng, hấp dẫn, gọn nhẹ, dễ bảo
quản, dễ sử dụng
- Có thể sử dụng thành tựu hiện đại của công nghệ truyền thông đa
phương tiện vào QTDH để nâng cao tính trực quan, sinh động, hấp dẫn của tài
liệu nghe nhìn.
1.2.2.2. Các loại phần mềm dạy học.
Hiện nay trên thế giới có nhiều PMDH đa dạng, phổ biến là các dạng sau:
phần mềm trò chơi học tập; PMDH công cụ; phần mềm mô phỏng các hiện
tượng, đối tượng, quá trình; phần mềm hệ thống lưu trữ và tìm kiếm thông tin

20
tham khảo; phần mềm gia sư, ôn tập, kiểm tra [22]. Nhưng nhìn chung có ba
loại PMDH sau:

- PMDH được xậy dựng dựa trên đối tượng sử dụng.
- PMDH được xây dựng dựa trên các môn học.
- PMDH được xây dựng dựa trên mục đích lí luận dạy học.
1.2.3. Vai trò của phần mềm trong dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt
động nhận thức của học sinh.
Một số hiện tượng xảy ra quá nhanh, hoặc quá chậm, gây khó khăn cho
việc quan sát hiện tượng. Một số TN lại quá nguy hiểm nên không thể tiến
hành được trong giờ dạy lên lớp Chính vì vậy, việc áp dụng thành tựu của
CNTT để khắc phục những khó khăn này là rất cần thiết [9]. Một trong những
biện pháp đó là chúng ta khai thác và sử dụng các PMDH, các PMDH này
chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao khi sử dụng để hỗ trợ việc tổ chức hoạt
động nhận thức cho HS trong dạy học vật lí.
PMDH có thể được sử dụng ở tất cả các giai đoạn khác nhau của quá trình
dạy học: đề xuất vấn đề nghiên cứu, hình thành kiến thức, kĩ năng mới, củng
cố kiến thức, kĩ năng đã thu được và kiểm tra, đánh giá kiến thức, kĩ năng của
HS.
- Ở giai đoạn định hướng mục đích nghiên cứu, PMDH được sử dụng để
đề xuất vấn đề cần nghiên cứu. Đặc biệt có hiệu quả là việc sử dụng PMDH
để tạo tình huống có vấn đề. Kết quả của việc sử dụng PMDH trong giai đoạn
này thường mâu thuẫn với kiến thức, kinh nghiệm có sẵn của HS, do đó tạo
nhu cầu hứng thú tìm tòi kiến thức mới của HS.
- Trong giai đoạn hình thành kiến thức mới, PMDH sẽ cung cấp một cách
có hệ thống các cứ liệu thực nghiệm, để từ đó khái quát hoá quy nạp, kiểm tra
được tính đúng đắn của giả thuyết hoặc hệ quả logic rút ra từ giả thuyết đã đề
xuất, hình thành kiến thức mới.

21
- Trong giai đoạn củng cố kiến thức, kĩ năng của HS PMDH có vai trò
không những kiểm tra kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mà còn đánh giá khả năng tự
lực, sáng tạo của HS trong quá trình học.

Các hiện tượng, quá trình vật lí diễn ra trong tự nhiên vô cùng phức tạp, có
mối đan xen chằng chịt lẫn nhau. Do đó, không thể cùng một lúc phân biệt
được những tính chất đặc trưng của từng hiện tượng riêng lẻ. Nhưng nhờ
PMDH mà ta có thể làm đơn giản hoá các hiện tượng, kiểm soát được các quá
trình, làm nổi bật các khía cạnh của hiện tượng, quá trình cần nghiên cứu,
chúng giúp cho HS sinh hiểu về các hiện tượng, quá trình này.
Trong quá trình nghiên cứu, nhiều PMDH chuyên biệt cho bộ môn ra đời,
góp phần đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
PMDH là thiết bị dạy học tổng hợp cho phép lựa chọn để đạt hiệu quả cao
trong mọi khâu của QTDH, giúp cho GV, HS làm việc một cách dễ dàng
nhanh chóng, hiệu quả, tiết kiệm nhiều thời gian công sức [22], [9], [17].
+ Về đổi mới nội dung dạy học.
PMDH có khả năng trình bày một cách trực quan, tinh giản, dễ hiểu, giúp
HS dễ dàng nắm được nội dung của chương trình. Mặt khác nó có khả năng
cung cấp thêm những tài liệu phong phú, đa dạng dùng để tra cứu, tham khảo,
đọc thêm, hệ thống hoá, luyện tập các mức độ khác nhau. PMDH dễ dàng
cung cấp những tài liệu cần thiết cho mỗi môn học, thích hợp với nhiều đối
tượng HS cùng lứa tuổi [9].
+ Về đổi mới PPDH.
PMDH có thể biểu thị thông tin dưới dạng văn bản, kí hiệu, đồ thị, bản đồ,
hình vẽ. Các tài liệu liên quan trong phần mềm được lựa chọn, thiết kế theo
cách phối hợp tối ưu nhằm tận dụng được thế mạnh của từng loại trong dạy
học.

22
PMDH với tư cách là một người đồng hành trong mọi hoạt động dạy học
có vai trò trợ giúp hay khuyến khích HS học tập một cách thoải mái, hứng thú
và hợp lí nhất. Sự hỗ trợ của PMDH là một hợp tác giống như chuyển giao
hay trao đổi thông tin nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho HS.
Đối với GV, PMDH hỗ trợ cho quá trình tổ chức hoạt động học tập cho HS

trong vấn đề mô phỏng, minh hoạ cho các thí nghiệm, các kiến thức cũng như
sự vật hiện tượng mà HS không thể quan sát trực tiếp được trong điều kiện
nhà trường, không thể hoặc khó có thể thực hiện nhờ các phương tiện khác.
PMDH giúp đỡ cho một số bước trong PPDH thực nghiệm, PPDH nêu vấn đề
(tạo tình huống có vấn đề) Hỗ trợ cho quá trình thí nghiệm, ôn tập, kiểm tra
kiến thức, đánh giá kết quả học tập của HS. Một số PMDH còn giúp tạo ra
một phương pháp học tập trong môi trường học tập mới bao gồm các đối
tượng chỉ tồn tại trên máy vi tính và tuân theo các quy luật mà lí thuyết và thế
giới thực tương ứng đã khẳng định. Hỗ trợ cho định hướng soạn giáo án theo
định hướng đổi mới cũng như thực hiện việc tổ chức các hoạt động học tập
cho HS, giúp tiết kiệm được thời gian trên lớp, giành nhiều cơ hội cho việc
trao đổi giữa GV và HS. Hỗ trợ cho quá trình tích cực hoá hoạt động nhận
thức cho HS như tạo không khí lớp học vui vẻ, thoải mái Hình thành động
cơ, hứng thú học tập cho HS, kích thích được óc tò mò, ham hiểu biết của HS
đối với sự vật hiện tượng.
Đối với HS, PMDH có thể giúp HS tự tìm tri thức mới, tự ôn tập, củng cố,
đào sâu kiến thức, tự luyện tập theo nội dung tuỳ chọn, theo các mức độ tuỳ
theo năng lực của HS. Hỗ trợ cho HS trong quá trình tự kiểm tra kiến thức và
đánh giá kết quả học tập của bản thân. Ngoài ra PMDH còn có khả năng hỗ
trợ trong việc tạo hứng thú và động cơ học tập lành mạnh, giúp tự phát triển
khả năng tư duy và tưởng tượng, rèn luyện và phát triển khả năng lập luận
chặt chẽ, có căn cứ khoa học cho HS [25].

23
Tóm lại, PMDH với tư cách là một phương tiện dạy học có những khả
năng hỗ trợ rất đa dạng và phong phú đối với vấn đề đổi mới PPDH hiện nay,
góp phần phát huy TTC, chủ động, sáng tạo của HS trong học tập.
+ Về hình thức tổ chức dạy học.
Trong thời đại xã hội phát triển với tốc độ nhanh như hiện nay, với sự hỗ
trợ của CNTT nói chung và PMDH nói riêng, việc dạy học không chỉ hạn chế

trong giờ học tại trường dưới sự hướng dẫn trực tiếp của GV mà HS có thể tự
học tại nhà, học ở mọi lúc, mọi nơi. PMDH có thể giúp cho việc cá thể hoá
cao độ do nó có khả năng mô phỏng kiến thức cần trình bày một cách phù hợp
với trình độ của HS [25].
Khi có sự trợ giúp của MVT và PMDH, HS có thể thao tác với PMDH để
qua đó tự tìm tòi, phát hiện và hình thành kiến thức mới cho bản thân hoặc
qua đó HS tự củng cố, kiểm tra lại kiến thức đã học. Không những vậy, nhờ
mạng Lan, Internet HS có thể học từ xa, trao đổi, thảo luận về nội dung và
phương pháp học tập để chủ động chiếm lĩnh tri thức mới.
1.2.4. Những khả năng sử dụng phần mềm dạy học trong dạy học Vật lí.
Lí luận và thực tiễn đã chứng minh rằng sử dụng PMDH trong quá trình
dạy-học theo hướng tích cực hoá quá trình nhận thức của HS sẽ đem lại hiệu
quả sư phạm cao.
PMDH giúp GV tiến hành dạy học một cách chủ động và rất tiện lợi trong
quá trình tự học của HS việc sử dụng các PMDH này ít phụ thuộc vào không
gian có thể tiến hành ở lớp, ở nhà miễn ở đó có MVT.
Trong tự nhiên, không phải các quá trình, các hiện tượng nào xảy ra cũng
dễ quan sát. Một số hiện tượng, quá trình xảy ra quá nhanh hoặc quá chậm
khó có thể tái tạo bằng những thiết bị TN thực hoặc tái tạo được nhưng HS
không kịp quan sát hiện tượng xảy ra. Ví dụ như dao động điều hoà của con
lắc lò xo, sự biến dạng của vật rắn khi va chạm đàn hồi, sự tạo ảnh của vật

24
qua thấu kính Với khả năng “nén”,”giãn” thời gian các PMDH sẽ giúp HS
dễ dàng quan sát và làm quen với các hiện tượng trên.
Với khả năng đồ hoạ cao, phần mềm có thể mô phỏng cơ chế của quá trình
vi mô và vĩ mô mà không có một thiết bị TN thật nào có thể làm được.
Việc sử dụng PMDH còn tỏ ra rất có hiệu quả trong các điều kiện thiếu
trang thiết bị TN; các thiết bị đắt tiền dễ hỏng; các thiết bị nguy hiểm như
cháy nổ, điện thế cao; các TN rất khó thực hiện thành công ngay

1.2.4.1. Sử dụng phần mềm để trình bày kiến thức Vật lí.
Xây dựng giáo án điện tử bằng phần mềm Powerpoint, Fronpage, eXe.
Đồng thời phối hợp với các thiết bị hiện đại khác như máy chiếu đa năng,
camera, băng đĩa hình để trình bày các kiến thức trong môn học vật lí [22],
[9].
Giáo án điện tử là các bài giảng được soạn và giảng trên máy tính kết hợp
máy chiếu, nó có nhiều ưu điểm:
- Giờ giảng hiệu quả hơn: dễ hiểu, hấp dẫn, kiến thức toàn diện hơn. Phát
huy được các ưu điểm của phương pháp truyền thống.
- Có thể tự động hoá công việc dạy học hoặc một khâu nào đó trong quá
trình dạy học, làm cho GV có nhiều thời gian quan tâm đến HS.
- Bài giảng được lồng ghép với TN ảo, các đoạn phim minh hoạ các hiện
tượng vật lí xảy ra trong thực tế làm tăng thêm sự hấp dẫn của bài giảng. Liên
kết với các trang Web cùng trình bày vấn đề ở các trường, các nước khác
nhau.
- Cùng một thời gian khối lượng kiến thức được truyền đạt nhiều hơn.
1.2.4.2. Sử dụng phối hợp thí nghiệm mô phỏng và thí nghiệm thật trong
dạy học Vật lí.

25
Một số kiến thức vật lí, phần TN thật có thể tổ chức được ở trên lớp, tuy
nhiên để HS có thể quan sát rõ diễn biến quá trình GV có thể dùng kết hợp
với thí nghiệm mô phỏng.
Với việc sử dụng TN trong dạy học vật lí dùng làm phương tiện hỗ trợ trực
tiếp hoạt động dạy học dưới các hình thức khác nhau nên chúng tôi tiến hành
mô phỏng các TN trên máy tính sao cho chúng càng giống TN thật càng tốt.
Trước hết là về hình ảnh của các dụng cụ phải giống như TN thật cả về hình
dạng lẫn màu sắc để qua đó GV và HS có thể tìm hiểu được tính năng, tác
dụng của chúng [16].
Việc lắp ráp, bố trí TN và đặc biệt là các bước tiến hành TN phải được mô

phỏng hoàn toàn như TN thật để qua đó, GV và HS có thể nắm được cách lắp
ráp, bố trí và tiến hành TN với dụng cụ thật sau khi đã thao tác trên phần
mềm.
Như vậy, khi sử dụng PMDH, GV và HS đã tìm hiểu được dụng cụ TN,
biết cách lắp ráp và bố trí TN, sau đó có thể tự lắp ráp và tiến hành TN này
với bộ dụng cụ thật.
Để khắc phục các khó khăn, hạn chế của GV và HS trong việc sử dụng các
bộ TN thật đã nêu ở trên, chúng tôi đưa ra giải pháp sử dụng phần mềm mô
phỏng TN thật trong dạy học vật lí ở trường phổ thông như sau [16]:
- Trước hết, các phần mềm mô phỏng TN được sử dụng như là tài liệu
hướng dẫn chi tiết, sinh động cho GV tự tìm hiểu cách khai thác và sử dụng
các bộ TN thật tương ứng. Thao tác trên phần mềm, GV sẽ nắm được tính
năng tác dụng của các dụng cụ, cách bố trí TN và các bước tiến hành TN. Kết
quả TN được mô phỏng trong phần mềm là các số liệu được lấy từ TN thực
tế, có tác dụng định hướng và giúp cho GV kiểm tra được sự đúng đắn trong
quá trình thao tác với dụng cụ thật.

×