Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Nghiên cứu năng lực trí tuệ và một số chỉ số sinh lý thần kinh của học sinh hệ bổ túc Trường Cao đẳng nghề Việt - Đức Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.51 MB, 110 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cơ thể chúng ta, các tế bào sống được, hầu hết là nhờ năng lượng
được giải phóng trong q trình oxy hóa ở ty thể. Sản phẩm cuối cùng và chủ
yếu của các phản ứng là carbon dioxid cần được thải khỏi tế bào. Một cơ thể
đơn bào có thể được thỏa mãn điều đó rất đơn giản và dễ dàng, là trao đổi khí
oxy và CO2 trực tiếp với mơi trường xung quanh.
Nhưng đối với một cơ thể phức tạp như cơ thể người, thì phần lớn các
tế bào nằm sâu trong khối cơ thể, không tiếp xúc trực tiếp với môi trường
xung quanh. Do đó động vật có cơ thể to lớn muốn tồn tại phải phát triển
những hệ thống chuyên biệt có khả năng cung cấp oxy và đào thải CO2, đó là
bộ máy hơ hấp.
Trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế và q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong những năm gần đây, tình trạng ơ nhiễm
khơng khí đang gia tăng ở các đô thị ở Việt Nam. Đây là nguyên nhân gây ra
nhiều căn bệnh về đường hô hấp như: viêm phế quản mãn tính, viên phổi cấp
tính, bệnh lao, tràn dịch màng phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính….
Đo các thể tích, dung tích và lưu lượng thở là một loại xét nghiệm đánh
giá chức năng phổi. Trong điều tra sức khỏe cộng đồng đo thơng khí phổi có
thể góp phần phát hiện sớm một số bệnh phổi phế quản. Đo thơng khí phổi
cịn được dùng để tìm ảnh hưởng của các bệnh đến chức năng tim và phổi,
theo dõi ảnh hưởng của môi trường và nghề nghiệp, tác dụng của thuốc lên
chức năng phổi, đánh giá nguy cơ phẫu thuật và thể lực của con người.
Ở nước ta, các công trình nghiên cứu về thể tích phổi được đề cập tới từ
sau ngày hịa bình lập lại ở Đơng Dương (1954). Các tài liệu đã được tập hợp
lại trong Hội nghị hằng số sinh học người Việt Nam lần thứ nhất (1968). Ở


2



hội nghị này, các tài liệu tập trung về số dung tích sống. Sau hội nghị nhiều
nghiên cứu về thơng khí phổi được tiến hành đi sâu hơn và rộng hơn. Đến
năm 1972, các cơng trình nghiên cứu về thơng khí phổi đã được tập hợp lại
trong Hội nghị hằng số sinh học người Việt Nam lần thứ hai (1972). Hội nghị
đã thống nhất được giá trị bình thường của một số thơng số thơng khí phổi.
Đó là: thể tích lưu thơng, các thể tích dự trữ hít vào và thở ra, dung tích sống,
tần số thở, thơng khí phút, thơng khí tối đa. Các số liệu này đã được xuất bản
năm 1975. Sau đó, giá trị dung tích sống bình thường đã được xây dựng thành
cơng thức theo tuổi và chiều cao đứng cùng tốn đồ để tính số đối chiếu dùng
cho người Việt Nam [18].
Đo thơng khí phổi có liên quan đến các chỉ số sinh học hơ hấp như
dung tích sống, thể tích thở ra tối đa giây, chỉ số TIFFENEAU, các FEF,
FVC…
Việc nghiên cứu các chỉ số hơ háp có vai trị rất quan trọng. Thơng qua
các chỉ số đó, chúng ta có thể đánh giá đươc tình trạng sức khỏe, phát hiện
chuẩn đốn và điều trị nhiều căn bệnh về đường hơ hấp. Ngồi ra, việc nghiên
cứu các chỉ số hơ hấp cịn có vai trò quan trọng với ngành vệ sinh cộng đồng,
giúp phát hiện được hiện trạng ơ nhiễm mơi trường khơng khí thông qua các
chỉ số hô hấp.
Học sinh trung học cơ sở là đối tượng đang trong thời kỳ phát triển
vượt bậc về thể chất và trí tuệ, thời kỳ biến động mạnh về tâm lý.
Nghiên cứu các chỉ số hô hấp trên đối tượng học sinh trung học cơ sở là
đề tài rất mới mẻ. Qua đó, giúp chúng ta có thể hiểu rõ hơn về sự phát triển
của hệ hô hấp của học sinh.
Với những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Nghiên
cứu các chỉ số hô hấp của học sinh Trường trung học cơ sở Thị Trấn Chờ,
huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh” để nghiên cứu.



3

2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định các chỉ số hô hấp trên đối tượng học sinh Trường THCS Thị Trấn
Chờ, Yên Phong, Bắc Ninh
- Tìm hiểu về các chỉ số hình thái và tuổi dậy thì trong mối tương quan với
các chỉ số hô hấp
- Rút ra nhận xét về sự phát triển của hệ hô hấp thông qua các chỉ số hô hấp
của học sinh qua các lớp 6, 7, 8, 9.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Thu thập, tìm hiểu các tài liệu, cơng trình nghiên cứu liên quan các chỉ số hô
hấp của học sinh THCS.
- Thu thập tại thực địa một số chỉ số hơ hấp: dung tích sống (VC), dung
tích sống thở mạnh (FVC), thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu (FEV 1),
dung tích hít vào (IC), thể tích khí lưu thơng (TV), dấu hiệu mơ tả về dậy
thì chính thức.
- Thu thập một số dữ liệu để tìm hiểu các yếu tố liên quan tới các chỉ số hô
hấp cơ bản.
- Rút ra nhận xét về sự phát triển của hệ hô hấp, các chỉ số hô hấp cơ bản của
học sinh qua các lớp 6, 7, 8, 9.
4. Đối tuợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng là học sinh trường THCS Thị Trấn Chờ, huyện Yên Phong, tỉnh
Bắc Ninh.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Các chỉ số hô hấp cơ bản của học sinh Trường THCS Thị Trấn Chờ, huyện
Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
5. Phương pháp nghiên cứu



4

* Phương pháp thu thập thông tin (để tạo cơ sở dữ liệu):
- Thu thập các tài liệu có liên quan đến đề tài
* Phương pháp thực nghiệm trên đối tượng học sinh:
- Dùng kỹ thuật nhân trắc học (đo đạc) các chỉ số hình thái cơ bản
- Dung tích sống (VC), dung tích sống thở mạnh (FVC), thể tích khí thở ra tối
đa trong giây đầu (FEV1), dung tích hít vào (IC), thể tích khí lưu thơng (TV)
được đo bằng máy.
* Phương pháp xử lý số liệu:
- Kết quả nghiên cứu được phân tích và xử lý trên máy tính bằng chương trình
Microsoft Excel và chương trình SPSS.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Đánh giá sự thay đổi của của một số chỉ số hô hấp và mối quan hệ giữa
các chỉ số hô hấp với một số chỉ số hình thái và tuổi dậy thì của học sinh từ 12
– 15 tuổi.


5

NỘI DUNG
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.1. Các vấn đề về hoạt động hô hấp
Là hoạt động của phổi và lồng ngực làm cho khơng khí ra, vào phổi.
Mục đích làm cho khơng khí trong phế nang thường xuyên đổi mới để cho
quá trình trao đổi khí giữa phế nang và mao mạch phổi xảy ra liên tục.

Thơng khí phổi diễn ra bình thường được là nhờ vào sự toàn vẹn về cấu
trúc cũng như chức năng của: Lồng ngực, đường dẫn khí, nhu mơ phổi.
1.1.1.1. Cấu tạo bộ máy hô hấp
- Lồng ngực
Lồng ngực cấu tạo như một hộp cứng kín có khả năng thay đổi được
thể tích, nó gồm có khung xương (12 đốt sống ngực, 12 đốt xương sườn,
xương ức) và cơ bám vào khung xương (các cơ liên sườn, cơ hồnh). Trong
đó cơ hoành là cơ quan trọng nhất trong hoạt động hơ hấp bình thường, khi cơ
hồnh liệt hoạt động hơ hấp sẽ bị rối loạn.
- Đường dẫn khí
Khơng khí qua mũi hoặc miệng đến hầu (họng). Từ hầu xuống đường
dẫn khí là thanh quản, nơi có hai dây thanh âm. Hai dây này có vai trị quan
trọng trong việc phát âm. Tiếp theo thanh quản là khí quản, khí quản lại chia
thành hai phế quản gốc đi vào hai lá phổi. Trong lá phổi các phế quản chia
nhánh nhiều lần thành các nhánh nhỏ hơn, cuối cùng ống nhỏ nhất là ống phế
nang dẫn vào phế nang. Đường dẫn có những cấu trúc đặc biệt thực hiện được
chức năng quan trọng là dẫn khí và các chức năng khác [6].


6

Đường dẫn khí được cấu tạo bởi sụn và cơ, chính vì vậy mà đường
dẫn khí ln mở để cho khơng khí ra vào phổi một cách dễ dàng và có thể
thay đổi.
Khẩu kính đường dẫn khí, để điều hịa lượng khí ra vào phổi.
Niêm mạc của đường dẫn khí là biểu mơ trụ giả có lơng chuyển bao
gồm các tế bào trụ có lơng chuyển (mỗi tế bào có khoảng 2000 lơng) tế bào
tiết nhày, tế bào khơng có lơng chuyển (tế bào tiết nước), tế bào đảy. Vì vậy
nó bảo đảm cho khơng khí ra vào phổi được làm sạch, làm ẩm, làm ấm.
- Áp suất âm trong khoang màng phổi

Màng phổi là lớp thanh mạc lót mặt trong lồng ngực (lá thành), liên
tiếp lót mặt ngồi của phổi (lá tạng).
Khoang màng phổi là một khoang ảo nằm giữa lá thành và lá tạng,
trong đó có một ít dịch để cho lá thành và lá tạng có thể trượt lên nhau một
cách dễ dàng dịch đó được bài tiết từ lá thành và hấp thu ở lá tạng, mặt trên cơ
hoành chủ yếu hấp thu bằng đường bạch huyết (bơm bạch huyết).
Khoang màng phổi có áp suất nhỏ hơn áp suất khí quyển nên gọi là áp
suất âm. Áp suất âm trong khoang màng phổi cùng với hệ quả của nó là áp
suất trong lồng ngực, có ý nghĩa đặc biệt trong sinh lý hô hấp và tuần hoàn.
Áp suất âm màng phổi thay đổi theo chu kỳ thở. Cuối thì thở ra thơng thường.
Áp suất âm trong khoang màng phổi chừng - 4 mmHg, cuối thì hít vào bình
thường ngực nở thêm, phổi nở theo thêm, sợi đàn hồi mô phổi bị căng thêm
tạo sức co đàn hồi mạnh hơn nên áp suất âm trong khoang màng phổi càng
âm hơn tới chừng - 7mmHg. Khi hít vào hết sức, áp suất màng phổi có thể
xuống chừng - 30mmHg. Khi thở ra hết sức áp suất vẫn còn hơi âm chừng 1mmHg hoặc xấp xỉ 0 mmHg (xấp xỉ bằng áp suất khí quyển) [6].
1.1.1.2. Các động tác hơ hấp
- Động tác hít vào


7

Hít vào là động tác chủ động, tốn năng lượng do co các cơ hít vào,
làm tăng thể tích lồng ngực theo cả ba chiều trong đó cơ hồnh là cơ quan
trọng nhất.
Đúng lúc trước khi hít vào bắt đầu tức là vào lúc thì thở ra của chu kỳ
trước đã kết thúc, các cơ hô hấp ở trạng thái dãn và khơng có dịng khí lưu
chuyển. Lúc này áp suất ở phổi chừng - 4mmHg. Còn áp suất trong phế nang
thì bằng áp suất khí quyển (=0 mmHg), thì phế nang thơng với khí quyển qua
đường hơ hấp và khơng có dịng khi lưu chuyển [6].
Bắt đầu hít vào, cơ hồnh co làm hạ thấp vịm hồnh tăng đường kính

thẳng đứng của lồng ngực. Đồng thời các cơ liên sườn co làm xương sườn
nâng lên tăng đường kính ngang của lồng ngực. Xương ức cũng nâng lên và
nhô ra phía trước, làm tăng kích thước trước - sau của lồng ngực. Lồng ngực
tăng thể tích nhờ áp suất âm, phổi nở ra theo. Phổi nở ra, phế nang mở ra theo
làm áp suất phế nang giảm xuống thấp hơn áp suất khí quyển có tác dung hút
khơng khí ngồi trời vào đường hô hấp đến phế nang. Mỗi lần hít vào bình
thường, (rất nhiều khi là vơ ý thức) [6].
Đã huy động một lượng khí vào phổi chừng 0,5 lít đó gọi là thể tích
lưu thơng.
Hít vào tối đa là động tác chủ động, có thêm sự tham gia của cơ ức đòn
chũm nâng xương ức, cơ serrati trước nâng nhiều xương sườn, và cơ sealaen
lên trên hơn nữa. Động tác này huy động thêm vào phổi lượng khí chừng hơn
1 lít. Đó gọi là thể tích khí dự trữ hít vào [6].
- Động tác thở ra
Là động tác thụ động, không cần đến năng lượng, các cơ hô hấp không
co nữa mà giãn ra, lực co đàn hồi của phổi làm cho lồng ngực trở về vị trí ban
đầu. Các xương sườn hạ thấp và thu vào nhau, xương ức hạ thấp, cơ hoành lại


8

nhơ lên cao phía ngực. Lồng ngực thu nhỏ làm phổi thu nhỏ, phế nang thu
nhỏ, áp suất trong phế nang tăng lên đẩy khí ra ngồi [6].
Như vậy, cử động của lồng ngực ở thì thở ra là ngược chiều với thì hít
vào. Thở ra tối đa là hoạt động theo ý muốn, có thêm vai trị của các cơ liên
sườn trong cơ thành bụng có tác dụng hạ thấp các xương sườn xuống dưới
(ngược chiều động tác hít vào làm nâng xương sườn do các cơ liên sườn
ngoài), và cơ thẳng bụng đẩy tạng ở bụng nâng cao thêm vịm hồnh ở phía
lồng ngực. Động tác này đẩy thêm khối một lượng khí gọi là thể tích khí dự
trữ thở ra [6].

1.1.1.3. Các chỉ số thơng khí
Dụng cụ đầu tiên chế tạo năm 1846 dùng để đo thể tích khí thở gọi là
Spirometer. Đó chính là máy đo thơng khí hoặc gọi là “hơ hấp kế” tức “máy
đo hơ hấp” vì spiro do chữ la tinh spirare có nghĩa là hơ hấp. Hơ hấp bao hàm
các q trình cả ở phổi lẫn tế bào, nhưng spiro ở đây hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ
là thơng khí ở phổi. Máy spirometer từ thời Hutchinson đến nay, dù ngày nay
máy tinh xảo phức tạp hơn nhiều, đều dùng đo các thông số của thơng khí
phổi [6].
Các chỉ tiêu chức năng hơ hấp bao gồm các chỉ tiêu về thơng khí phổi,
khuếch tán khí, các chỉ tiêu về phân áp các chất khí trong máu...Các chỉ tiêu
chức năng thơng khí phổi thường được nghiên cứu và sử dụng trong thăm dò
chức năng phổi là dung tích sống, dung tích sống thở mạnh, thể tích khí lưu
thơng, thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu...[24], [38].
Thể tích khí lưu thơng ký hiệu là TV (Tidal Volume) là thể tích của
một lần hít vào hoặc thở ra bình thường. Ở người trưởng thành bình thường,
thể tích khí lưu thơng khoảng 0,5lít, bằng 12% dung tích sống [23].
- Dung tích sống


9

Dung tích sống là lượng khí mà phổi của một người sau khi đã hít vào
gắng sức rồi thở ra tận lực.
VC = IRV + TV + ERV (IRV là thể tích khí dự trữ hít vào, ERV là thể tích
khí dự trữ thở ra, TV là thể tích khí lưu thông) [6].
Nhiều tác giả đã nghiên cứu về dung tích sống và chức năng hơ hấp
[45]. Dung tích sống của học sinh phụ thuộc vào sự phát triển của hệ hơ hấp.
Số lượng và kích thước phế nang tăng dần theo tuổi. Số lượng phế nang và
dung tích của chúng cũng tăng dần theo tuổi làm cho dung tích sống học sinh
tăng dần theo tuổi và tăng mạnh vào thời kỳ dậy thì. Đến đầu thời kỳ dậy thì,

dung tích sống của học sinh tăng gấp 10 lần và đến cuối thời kỳ này dung tích
sống của học sinh tăng gấp 20 lần so với lúc sinh mới sinh. Tuy nhiên, tốc độ
gia tăng dung tích sống khơng đồng đều, thời kỳ đầu tăng chậm, thời kỳ dậy
thì tăng nhanh và nhanh nhất ở nam lúc 12 - 13 tuổi, còn ở nữ lúc 11 - 12 tuổi.
Ở thời kỳ dậy thì có sự khác biệt dung tích sống theo giới tính. Dung tích
sống của nữ thấp hơn của nam. Dung tích sống cịn phụ thuộc vào các đặc
điểm hình thái của con người như chiều cao đứng, cân nặng. Dung tích sống
là lượng khí mà phổi của một người sau khi đã hít vào gắng sức rồi lại thở ra
tận lực (theo [58]). Theo các số liệu được công bố trong cuốn ”Hằng số sinh
học người Việt Nam ” năm 1975 [82], dung tích sống của người Việt Nam có
xu hướng giảm theo tuổi, tăng theo chiều cao đứng và dung tích sống của nam
cao hơn so với nữ.
Các chỉ tiêu chức năng thơng khí phổi phụ thuộc vào tuổi, giới và chiều
cao đứng. Ở lứa tuổi ≤ 16 tuổi các chỉ số chức năng thơng khí phổi tăng lên
theo tuổi. Từ 17 - 25 tuổi, chúng thay đổi chậm và sự tăng lên không đáng kể,
nhưng từ 26 tuổi trở đi các chỉ tiêu chức năng thông khí phổi giảm theo tuổi.
Chức năng thơng khí phổi cịn phụ thuộc vào tư thế đo của đối tượng, tư thế
nằm thường thấp hơn tư thế đứng và tư thế ngồi (theo [85]).


10

Dung tích hít vào (IC) là số lít khí hít vào được tối đa kể từ vị trí nghỉ
thở thư giãn [6]
IC = TV + IRV (TV là thể tích khí lưu thơng, IRV là thể tích dự trữ hít vào)
Dung tích sống thở mạnh (FVC) cũng chính là dung tích sống (VC), chỉ
có khác là đo bằng phương pháp thở ra mạnh. Động tác thở ra mạnh và đồ thị
FVC có rất nhiều ứng dụng trong đánh giá chức năng thơng khí. Ở người bình
thường FVC bằng VC, cho nên trong điều tra, phân loại sức khỏe rộng rãi ở
cộng đồng đo FVC là rất nhanh gọn, tiện lợi [6].

Thể tích thở ra tối đa giây đầu (FEV1): ở nước ta trước đây kí hiệu là
VEMS, là số lít tối đa đã thở ra được trong một giây đầu. FEV 1 thường có giá
trị 80% dung tích sống, và giảm khi co hẹp đường dẫn khí, thí dụ hen phế
quản [6].
Thể tích lưu thơng (TV) là số lít khí của một lần thở ra hoặc hít vào
bình thường [6].
1.1.2. Các vấn đề về một số chỉ số hình thái
1.1.2.1. Chiều cao đứng
Chiều cao đứng (CCĐ) là một trong những kích thước được đề cập và
được đo đạc trong hầu hết các cơng trình điều tra cơ bản về hình thái, nhân
chủng học, sinh lý và bệnh lý, v.v. CCĐ nói lên tầm vóc của một người, do đó
các nhà y học dựa vào CCĐ để đánh giá sức lớn của trẻ em, so sánh CCĐ với
các kích thước khác trong cơ thể, phối hợp với các kích thước khác để xây
dựng các chỉ số thể lực, v.v. CCĐ cũng được các nhà phân loại học sử dụng
khi nghiên cứu chủng tộc. Nói chung, cũng như ở các nước khác trên thế giới,
ở Việt Nam nam giới cao hơn nữ giới khoảng 8 - 11 cm [12].
Có rất nhiều ý kiến giải thích sự gia tăng về CCĐ ở thế hệ sau tốt hơn thế
hệ trước. Tuy nhiên, về nguyên nhân ảnh hưởng tới CCĐ có 2 yếu tố chính:


11

+ Yếu tố di truyền và yếu tố lai giống đứng hàng đầu trong việc ảnh hưởng
tới chiều cao đứng. Nó tác động nhanh và tức thời ở ngay thế hệ con cháu.
+ Yếu tố ngoại cảnh nói chung, trong đó bao gồm cả điều kiện sinh
hoạt tinh thần và vật chất, khí hậu và ánh nắng, sự thích nghi với môi trường,
v.v. Ảnh hưởng ở mức độ lớn tới tốc độ phát triển cũng như CCĐ cuối cùng ở
người lớn, tuy nhiên yếu tố ngoại cảnh tác động từ từ, chậm chạp và cần phải
liên tục.
1.1.2.2. Cân nặng

Cũng như CCĐ, cân nặng là số đo thường được sử dụng trong tất cả
các nghiên cứu cơ bản về hình thái người. Mặc dù vậy, độ chính xác của chỉ
số này khơng cao lắm do nó dễ thay đổi tuỳ vào thời điểm nghiên cứu (buổi
sáng cân nhẹ hơn buổi chiều, sau khi lao động nặng hay tập thể thao thì cân
nặng giảm, v.v).
Tuy nhiên, cân nặng của một người nói lên mức độ và tỷ lệ giữa sự
hấp thụ các chất và tiêu hao năng lượng. Cân nặng của một người bao
gồm 2 phần:
+ Phần cố định, chiếm 1/3 tổng cân nặng gồm xương, da, tạng và
thần kinh.
+ Phần thay đổi, chiếm 2/3 tổng cân nặng, trong đó bao gồm 3/4 là khối
lượng của cơ và 1/4 là mỡ và nước. Điều này cho thấy tăng cân là tăng phần
cân thay đổi, trong đó khối lượng của cơ chiếm tới 3/4, vì vậy tăng cân nói lên
phần nào mức độ tăng thể lực cơ thể.
Nhìn chung, để đánh giá chính xác thể lực của một người bình thường,
người ta thường phối hợp cân nặng với một số kích thước khác của cơ thể.


12

1.1.2.3. Vịng ngực trung bình
VNTB là một trong những kích thước quan trọng do nó phối hợp với
CCĐ, cân nặng để đánh giá thể lực của con người. Tuy nhiên, đây cũng là
kích thước dễ thay đổi, người ta nhận thấy đo nhiều lần trên cùng một người,
các kết quả có thể chênh lệch nhau 2 - 3 cm. VNTB lớn thì thể lực tốt, do nó
liên quan đến khả năng hô hấp của con người [12].
1.1.3. Các vấn đề về tuổi dậy thì
1.1.2.1. Dậy thì nam
Dậy thì là một thời kỳ có những biến động lớn về thể chất, tâm lý và
đặc biệt là hoạt động chức năng của hệ thống sinh sản. Ở trẻ nam, mốc để

đánh dấu tuổi dậy thì bắt đầu đó là thể tích tinh hồn tăng trên 4 ml, cịn mốc
để đánh dấu thời điểm dậy thì chính thức là lần xuất tinh đầu tiên. Tuy nhiên,
rất khó xác định chính xác về thời điểm xuất tinh lần đầu tiên vì các em ít để ý
(do thường là mộng tinh). Tuổi dậy thì hồn toàn của nam khoảng 15 - 16 tuổi
(đối với trẻ em Việt Nam) [12].
- Những biến đổi trong thời kỳ dậy thì:
Vào thời kỳ này, dưới tác dụng của hc mơn sinh dục nam
(testosteron) phối hợp cùng các hc mơn tăng trưởng khác, cơ thể đứa trẻ
phát triển nhanh, đặc biệt khối lượng cơ tăng nhanh. Từ khi đứa trẻ sinh ra,
tuyến sinh dục nam (tinh hoàn) im lặng cho tới lúc này mới bắt đầu hoạt
động. Tinh hoàn bắt đầu sản sinh tinh trùng và bài tiết testosteron. Dưới tác
dụng của testosteron, cơ thể lớn nhanh và xuất hiện các đặc tính sinh dục nam
thứ phát như dương vật to lên, túi tinh và tuyến tiền liệt phát triển, cơ nở
nang, da thơ dày, giọng nói trầm. Đứa trẻ bắt đầu có khả năng hoạt động tình
dục và sinh sản [93].
- Cơ chế dậy thì:


13

Trước kia, người ta cho rằng dậy thì là thời điểm tinh hồn “chín”. Sau
này khi phát hiện ra các hc mơn hướng sinh dục của tuyến n người ta lại
cho rằng ngun nhân của dậy thì là “sự chín” của tuyến yên. Ngày nay, với
các thực nghiệm ghép tinh hoàn và tuyến yên của động vật non vào động vật
trưởng thành người ta thấy cả hai tuyến đó đều có khả năng hoạt động như
của động vật trưởng thành nếu có những kích thích phù hợp. Khơng những
thế, ngay cả vùng dưới đồi cũng có khả năng bài tiết đủ lượng GnRH. Tuy
nhiên, trong thực tế cả ba vùng này đều không hoạt động trong suốt thời kỳ từ
sau khi sinh đến trước tuổi dậy thì vì thiếu một tín hiệu kích thích đủ mạnh từ
các trung tâm phía trên vùng dưới đồi, mà ngày nay người ta thường cho rằng

trung tâm đó chính là vùng limbic [93].
Như vậy, dậy thì chính là q trình trưởng thành hay q trình “chín”
của vùng limbic. Khi vùng limbic trưởng thành, những tín hiệu xuất phát từ
vùng limbic sẽ đủ mạnh để kích thích vùng dưới đồi bài tiết đủ lượng
GnRH và phát động hoạt động chức năng của trục vùng dưới đồi - tuyến
yên - tuyến sinh dục.
1.1.2.2. Dậy thì nữ
Sau khi trẻ gái ra đời, buồng trứng không hoạt động cho tới khi nhận
được kích thích phù hợp từ tuyến yên. Hai buồng trứng bắt đầu hoạt động, thể
hiện bằng hoạt động sinh giao tử và bài tiết hc mơn sinh dục nữ dẫn đến
những thay đổi về thể chất, tâm lý, sự trưởng thành và hoàn thiện về chức
năng sinh dục. Thời kỳ phát triển và trưởng thành này được gọi là dậy thì.
- Những biến đổi về cơ thể:
Trong thời kỳ này cơ thể các em gái phát triển nhanh về chiều cao
cũng như khối lượng. Cơ thể trở nên cân đối, mềm mại, thân hình có đường
cong do lớp mỡ dưới da phát triển, đặc biệt ở một số vùng như ngực, mông,
khung chậu nở rộng hơn. Xuất hiện một số đặc tính sinh dục thứ cấp như hệ


14

thống lơng mu, lơng nách. Tâm lý cũng có những biểu hiện thay đổi so với
trước như xấu hổ khi đứng trước bạn khác giới, hay tư lự và ít nghịch ngợm
hơn, ý tứ hơn trong cách cư xử, v.v.
- Hoạt động của tuyến sinh dục:
Chức năng sinh giao tử của buồng trứng bắt đầu hoạt động. Hàng
tháng, dưới tác dụng của hc mơn tuyến n, các nang trứng ngun thuỷ
phát triển, có khả năng tiến tới chín và phóng noãn. Như vậy từ thời kỳ này,
các em gái bắt đầu có khả năng sinh con. Tuy nhiên, vì chức năng của các cơ
quan thuộc hệ thống sinh sản chưa phát triển thành thục nên chưa đủ khả năng

mang thai, ni con vì vậy cần tư vấn cho các em cách ứng xử trong quan hệ
với bạn khác giới, cách phòng tránh thai, phòng tránh các bệnh lây nhiễm qua
đường tình dục.
Chức năng nội tiết của buồng trứng thể hiện là buồng trứng bắt đầu tiết
hc mơn sinh dục estrogen và progesteron. Dưới tác dụng của 2 hc mơn
này, chuyển hóa của cơ thể tăng, cơ thể phát triển nhanh, các cơ quan sinh dục
như tử cung, vòi trứng, âm đạo, âm hộ, tuyến vú phát triển về kích thước và
chức năng [93].
Một dấu hiệu đặc biệt quan trọng đánh dấu em gái đã dậy thì chính thức
đó là xuất hiện kinh nguyệt hàng tháng. Tất cả những biến đổi về cơ thể, tâm
lý và hoạt động của hệ thống sinh sản đều do tác dụng của các hc mơn
hướng sinh dục của tuyến n và các hc mơn của buồng trứng. Các dấu
hiệu dậy thì ở nữ thường thể hiện rõ rệt hơn ở nam giới.
- Thời gian xuất hiện dậy thì:
Tuổi dậy thì khơng phải là một thời điểm mà là một khoảng thời gian
có thể thay đổi theo từng cá thể nhưng thường kéo dài 3 - 4 năm. Thời điểm
bắt đầu dậy thì ở nữ thường được đánh dấu bằng biểu hiện tuyến vú bắt đầu
phát triển. Ở Việt Nam, thời điểm này thường vào lúc 8 - 10 tuổi. Thời điểm


15

dậy thì chính thức được đánh dấu bằng lần có kinh đầu tiên, ở người Việt
Nam vào khoảng 13 - 14 tuổi.
- Cơ chế dậy thì:
Ở nữ, vùng dưới đồi - tuyến yên - buồng trứng đều có khả năng bài
tiết hc mơn, nhưng trong thực tế các tuyến này khơng hoạt động cho tới
tuổi dậy thì vì chúng thiếu những tín hiệu kích thích phù hợp từ vùng limbic.
Thời gian dậy thì chính là khoảng thời gian trưởng thành hay “chín” của
vùng limbic.

- Chu kỳ kinh nguyệt:
Chu kỳ kinh nguyệt là sự biến đổi về cấu trúc, chức năng dẫn tới sự
chảy máu có chu kỳ ở niêm mạc tử cung dưới tác dụng của các hc mơn
tuyến n và buồng trứng. Độ dài của chu kỳ kinh nguyệt là khoảng thời gian
tính từ ngày bắt đầu hành kinh kỳ này đến ngày bắt đầu hành kinh kỳ sau. Độ
dài của chu kỳ kinh nguyệt ở phụ nữ Việt Nam thường là 28 - 30 ngày.
Khoảng 2 ngày cuối cùng của chu kỳ, hồng thể đột nhiên bị thối hóa,
nồng độ estrogen và progesteron đột ngột giảm xuống mức rất thấp. Kinh
nguyệt được gây ra do sự giảm đột ngột nồng độ hai hc mơn sinh dục nữ,
đặc biệt là progesteron. Do nồng độ hc mơn giảm, niêm mạc tử cung bị
thối hóa tới 65% chiều dày. Các động mạch xoắn co thắt do tác dụng của các
sản phẩm được bài tiết từ niêm mạc bị thối hóa, trong đó có prostaglandin.
Một mặt do các động mạch ni dưỡng lớp niêm mạc chức năng bị co thắt
gây tình trạng thiếu máu, mặt khác do thiếu tác dụng kích thích của hc mơn
nên lớp niêm mạc này bắt đầu hoại tử đặc biệt là các mạch máu. Kết quả là
mạch máu bị tổn thương và máu chảy đọng lại dưới lớp niêm mạc chức năng.
Vùng chảy máu lan rộng nhanh trong 24 - 36 giờ và lớp niêm mạc bị hoại tử
sẽ tách khỏi tử cung. Sau khoảng 48 giờ kể từ lúc xảy ra hiện tượng chảy
máu, toàn bộ lớp niêm mạc chức năng bong ra.


16

1.2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
1.2.1. Lịch sử nghiên cứu về các chỉ số hơ hấp
1.2.1.1. Trên thế giới
Dung tích sống (kí hiệu VC) là thơng số đầu tiên được nghiên cứu dùng
trong thăm dị chức năng phổi có lẽ kể từ năm 1846. Hutchinson đã đưa ra
định nghĩa, phương pháp đo và đo được VC, tiếp theo đó nhiều tác giả của
nhiều nước đã nghiên cứu về thông số này ở người bình thường và người mắc

bệnh với mỗi tuổi có một giá trị của VC. Các nghiên cứu tiếp theo cho thấy
VC phụ thuộc vào giới, tuổi, chiều cao đứng [82]. Vào năm 1948 Balfwin và
cộng sự là người đầu tiên lập ra phương trình hồi quy để tính số VC bình
thường dựa trên thế giới, tuổi, và chiều cao đứng vào năm 1948. Ơng cũng
nhấn mạnh cơng thức đưa ra có sai chuẩn lớn có lẽ vì kích thước mẫu nhỏ
nhưng tác giả không nêu phương pháp, số đối tượng [82].
Sau đó nhiều tác giả nghiên cứu về VC như Bateman (1950),
Whitefied, Needham (1954), Goldman (1959). Kory (1946)… Hầu hết các
phương trình tính VC theo hai biến số là tuổi và chiều cao đứng. Cho đến
năm 1983 cộng đồng than thép Châu Âu và Tổ Chức Y Tế Thế giới đã tập
hợp những cơng trình cơng bố của các tác giả của nhiều nước Châu Âu khác,
đã lập ra phương trình tính VC cho người Châu Âu theo tuổi và chiều cao
đứng. Cũng từ những năm đầu của thế kỷ 20, dung tích sống được dùng để
đánh giá hạn chế hơ hấp và nó vẫn cịn được dùng tiếp tục ở nhiều Labo cho
đến ngày nay [82].
Vào những năm đầu của thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu đã đo thể tích
thở ra tối đa giây bằng cách thở ra tối đa (FEV1) đánh giá tắc nghẽn đường
thở. Tiffeneau đã dùng tỉ lệ FEV1/VC gọi là chỉ số để đánh giá tắc nghẽn
đường dẫn khí. Sau đó Geansler để đánh gía tắc nghẽn đường dẫn khí. Kể từ
đó FVC cũng được dùng để đánh giá hạn chế hô hấp. Một số tác giả đã dùng


17

FVC để đánh giá hạn chế hô hấp. Một số tác giả để nghiên cứu chức năng
phổi trong cộng đồng vì khơng phải đo VC. Đến những năm 50 của thế kỷ 20
nhiều tác giả đã đo FVC và trên đường ghi FVC người ta cịn tính được lưu
lượng tối đa trong một khoảng nhất định của FVC, lưu lượng tại những thể
tích phổi khác nhau trên đường ghi FVC. Trong điều tra sức khỏe cộng đồng
các tác giả dùng FVC thay cho VC [82].

Năm 1959 Miller đã xây dựng phương trình tính FVC ở 77 nam và 76
nữ có độ tuổi từ 20 đến 59. Chiều cao trung bình nam là 1,74m và nữ là
1,67m, đo bằng Spiometer ướt nhưng khơng nói rõ tư thế. Feris (1965) đã xây
dựng phương trình tính FVC trên 165 nam có tuổi từ 24 - 74 và 443 nữ có
tuổi từ 25 - 74 bằng Spirometer ướt ở tư thế đứng. Cotes (1966), Dickman
(1969), Ericson (1969) đã đo FVC ở tư thế ngồi và bằng Spiromater. Và rất
nhiều tác giả khác nghiên cứu về FVC như Moriss (1971), Knudson (1976),
Quanjer (1978)…[82].
1.2.1.2. Ở Việt Nam
Ngay từ sau ngày hịa bình lập lại ở Đơng Dương (1954) những máy
Spirometer đơn giản đã được sử dụng để đo một thơng số là dung tích sống và
có lúc các tác giả nước ta gọi là Spirometer đó là phế dung kế. Đến cuối
những năm 50 và đầu những năm 60 chúng ta được trang bị máy hô hấp kế do
Liên Xơ, Hungari, Cộng hịa dân chủ Đức và Pháp chế tạo để đo các thể tích,
dung tích và lưu lượng thở.
Ở Việt Nam các chỉ tiêu chức năng thơng khí phổi người bình thường
được nghiên cứu từ những năm 50. Sau hội nghị hằng số sinh học người Việt
Nam lần thứ II (1972), dưới sự giúp đỡ của Bộ Y tế, giáo sư Nguyễn Tấn Gi
Trọng đã chủ biên và xuất bản cuốn “HSSH” (1975). Các tác giả đã cơng bố
các số đo trung bình của dung tích sống theo tuổi, giới và chiều cao đứng.


18

Một số chỉ tiêu khác như thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu (FEV 1) được
đưa ra dưới dạng tỷ lệ % của dung tích sống (theo [85]).
Ngay từ những năm đầu của thập kỷ 70, một số tác giả đã xây dựng
phương trình tuyến tính tính dung tích sống của người bình thường. Từ sau
1975 đến nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các chỉ tiêu chức
năng thơng khí phổi ngày càng được nghiên cứu đầy đủ hơn. Hầu hết các tác

giả Việt Nam đều chỉ ra các số liệu người bình thường Việt Nam đa số thấp
hơn của người Âu, Mỹ (theo [85]). Nguyễn Đình Hường và cs [45] từ kết quả
nghiên cứu trên người Hà Nội, đã xây dựng được các phương trình tính giá trị
bình thường của một số chỉ số, đồng thời khẳng định các chức năng thông khí
phổi trên người Việt Nam thấp hơn so với người châu Âu.
Theo các cơng trình nghiên cứu của Trịnh Bỉnh Dy, Nguyễn Hường,
Nguyễn Văn Tường [24], [45] thì dung tích sống của trẻ em thay đổi mạnh
theo quá trình phát triển cá thể. Các chỉ số khác liên quan với q trình thơng
khí phổi của trẻ em Việt nam cũng tăng dần theo tuổi và tăng nhanh theo lớp
tuổi dậy thì. Các thơng số hơ hấp ở các em nam luôn lớn hơn của các em nữ
cùng lớp tuổi và đến cuối thời kỳ dậy thì, chức năng phổi của nhiều em đã gần
như người lớn.
Cơng trình của Đồn n và cs [95] nghiên cứu nhịp thở, dung tích
sống, thể tích khí lưu thơng của người Việt Nam từ 6 - 79 tuổi cho thấy, dung
tích sống tăng nhanh đến 19 tuổi sau đó ổn định, từ 30 tuổi trở đi bắt đầu
giảm. Dung tích sống của người Việt Nam nhỏ hơn so với người Âu, Mỹ.
Nghiên cứu của Trần Thị Loan [60] trên học sinh từ 6 - 17 tuổi cho
thấy, dung tích sống của học sinh tăng dần theo lớp tuổi và ở nam tăng nhanh
hơn ở nữ. Theo tác giả thời điểm tăng nhanh dung tích sống diễn ra cùng một
lúc với thời điểm tăng nhảy vọt về chiều cao đứng.


19

Theo Nghiêm Xn Thăng [81], khí hậu có ảnh hưởng lên chức năng
hô hấp của cư dân Nghệ Tĩnh, trong đó tần số hơ hấp và dung tích sống chịu
ảnh hưởng nhiều nhất của khí hậu.
Theo nghiên cứu của Đào Mai Luyến [64] trên người Êđê và người
Kinh định cư ở Đăk Lăk, các chỉ số hô hấp tương quan thuận với chiều cao
đứng và tương quan nghịch với tuổi.

Theo Trịnh Bỉnh Dy và cs [22] thì tốc độ gia tăng các thông số chức
năng phổi phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tuổi, giới tính, chiều cao đứng,
vịng ngực…, nhưng quan trọng nhất vẫn là các yếu tố tuổi, chiều cao đứng và
giới tính.
1.2.2. Lịch sử nghiên cứu về các chỉ số hình thái
1.2.2.1. Trên thế giới
Sinh học cơ thể là một môn khoa học cổ điển ra đời từ rất sớm trong
lịch sử hình thành xã hội lồi người và đang ngày càng phát triển [38]. Nghiên
cứu hình thái - thể lực của con người được xem như là một bộ phận của sinh
học cơ thể, nó cũng có lịch sử tồn tại và phát triển hết sức phong phú thể hiện
ở sự tăng trưởng, phát triển đặc trưng theo chủng tộc, giới tính, v.v.
Một trong số các vấn đề được quan tâm khi nghiên cứu con người là
hình thái. Từ thế kỷ XIII, Tenon đã coi cân nặng là một chỉ số quan trọng để
đánh giá thể lực [70]. Sau này các nhà giải phẫu học kiêm họa sỹ thời Phục
hưng như Leonard de Vinci, Mikenlangielo, Raphael, v.v. đã tìm hiểu rất kỹ
cấu trúc và mối tương quan giữa các bộ phận cơ thể người để đưa vào những
tác phẩm hội họa của mình. Mối quan hệ giữa hình thái với mơi trường sống
cũng được nghiên cứu tương đối sớm mà đại diện cho nó là nhà nhân trắc học
Ludman, Nold và Volanski.
Một hướng khắcc đi sâu nghiên cứu sự tăng trưởng về mặt hình thái, đó
là nghiên cứu sự tăng trưởng của cơ thể và có thể đo lường được bằng kỹ


20

thuật nhân trắc [56]. Cơng trình đầu tiên trên thế giới cho thấy sự tăng trưởng
một cách hoàn chỉnh ở các lứa tuổi từ 1 đến 25 là luận án tiến sĩ của Christian
Frdrich Jumpert người Đức vào năm 1754. Cơng trình này được nghiên cứu
theo phương pháp cắt ngang do có ưu điểm là rẻ tiền, nhanh và thực hiện
được trên nhiều đối tượng cùng một lúc. Cũng thời gian này Philibert

Guerneau de Montbeilard thực hiện nghiên cứu dọc trên con trai mình từ năm
1759 đến năm 1777. Đây là phương pháp rất tốt đã được áp dụng cho đến
nay. Sau đó cịn có nhiều cơng trình khác của Edwin Chadwick ở Anh,
Carlschule ở Đức, H.P. Bowditch ở Mỹ, v.v. Năm 1977, Hiệp hội các nhà
tăng trưởng học đã được thành lập [88] đánh dấu một bước phát triển mới của
việc nghiên cứu vấn đề này trên thế giới.
1.2.2.2. Ở Việt Nam
Việc nghiên cứu hình thái của học sinh lứa tuổi THCS nói riêng được bắt
đầu tiến hành từ những năm 60 của thế kỷ trước [1], [2].
Năm 1989, Thẩm Thị Hoàng Điệp và cộng sự [28] đã nghiên cứu về sự
phát triển chiều cao, vòng ngực của người Việt Nam từ 1 đến 55 tuổi ở 8 tỉnh
thuộc 3 miền của đất nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các chỉ số thu được
trong cơng trình này đều cao hơn hẳn so với các kết quả nghiên cứu trước đó.
Các tác giả cịn cho thấy chiều cao đứng ở trẻ nam ở lớp tuổi 15 đã vượt lên hẳn
so với ở trẻ nữ và cho rằng đây có lẽ đây là lứa tuổi mà trẻ nam bắt đầu bước vào
tuổi dậy thì. Trong khi đó kích thước vịng ngực của trẻ nữ luôn cao hơn của trẻ
nam ở tất cả các lứa tuổi THCS. Điều này cũng phù hợp với sự xuất hiện các đặc
điểm sinh dục thứ cấp của cơ thể nữ khác với cơ thể nam.
Trần Văn Dần và cộng sự [14], [16] đã tiến hành nghiên cứu trên học sinh
trường phổ thông cơ sở ở các địa phương Hà Nội, Vĩnh Phú, Thái Bình trong
khoảng thời gian từ 1990 - 1995. So với Hằng số sinh học người Việt Nam” [7],
thì sự phát triển chiều cao của trẻ em từ 6 đến 16 trong nghiên cứu này cao hơn


21

có ý nghĩa thống kê, đặc biệt là trẻ em ở thành phố hay thị xã. Sự tăng về
cân nặng chỉ thấy rõ ở trẻ em ở Hà Nội, còn ở nơng thơn chưa có sự thay
đổi đáng kể này.
Trần Đình Long và cộng sự [62] đã tiến hành nghiên cứu trên học sinh

nhóm tuổi 6 đến 16 ở thị xã Thái Bình. Các tác giả nhận thấy từ 11 đến 14 tuổi
thì trẻ nữ vượt trội hơn trẻ nam về các kích thước nghiên cứu. Điều này phù
phợp với phtát triển của trẻ nam và trẻ nữ do liên quan đến độ tuổi dậy thì.
Trong luận án tiến sĩ, Trần Thị Loan [60] đã tiến hành nghiên cứu một số chỉ số
thể lực của 3023 học sinh từ 6 đến 17 tuổi tại một số trường phổ thông thành phố
Hà Nội. Theo số liệu trong luận án này thì chiều cao và cân nặng tăng vọt ở lớp
tuổi 14 - 15, còn học sinh nữ tăng vọt ở lớp tuổi 12 - 13 và cân nặng ở lớp tuổi
13 - 14. Thời điểm tăng vọt về kích thước vịng ngực của học sinh nam (15 - 16
tuổi) đến muộn hơn so với ở học sinh nữ (13 - 14 tuổi).
Năm 2006, Trung tâm Tâm lý học và sinh lý lứa tuổi thuộc Viện Chiến
lược Chương trình giáo dục [83] đã tiến hành nghiên cứu các chỉ số cơ bản về
sinh lý tâm lý của 12.824 học sinh phổ thông từ 8 đến 20 tuổi. Kết quả nghiên
cứu về chiều cao đứng cho thấy học sinh nam lớp tuổi 11 - 15 và nữ ở mọi lớp
tuổi (trừ 16 và 18 tuổi) đã thốt khỏi tình trạng cịi cọc.
1.2.3. Lịch sử nghiên cứu về tuổi dậy thì
1.2.3.1. Trên thế giới
Trong hơn một nửa thế kỷ trước, việc nghiên cứu về sinh lý sinh dục và
sinh sản ngày càng được quan tâm nhiều hơn, mở rộng hơn, nhất là từ khi vấn
đề hạn chế sinh đẻ được đề ra một cách khẩn trương trên tồn thế giới. Ngồi
ra cịn có các cơng trình nghiên cứu về các hiện tượng sinh học xảy trong q
trình sinh sản như sinh nỗn, sinh tinh trùng, hiện tượng thụ tinh và làm tổ
của trứng đã được thụ tinh…Nhờ đó mà những hiểu biết về sinh lý học sinh
sản ngày càng rõ hơn [49], [50], [51], [52].


22

Từ năm 1927, nhóm nghiên cứu của Achleim & Zondek (Đức) và
nhóm nghiên cứu của Smith & Engel (Mỹ) đã được độc lập nghiên cứu và
đồng thời cũng tìm ra kết quả là trong nước tiể có hai chất tác dụng lên hoạt

động của tuyến sinh dục là Prolan A và Prolan B, mà sau này gọi là kích nang
tố (FSH) và kích hồng thể tố (LH).
Đến năm 1961, Baracluogh và Gorski đã kích thích điện vào vùng
Hypothalamus đã tìm thấy 2 trung khu điều hòa chức năng sinh dục, sinh sản:
Trung khu trước điều hịa sự bài tiết kích dục tố có tính chất chu kỳ. Ở con
đực trung khu này khơng hoạt động.
Trung khu sau điều hịa bài tiết kích dục tố khơng theo chu kỳ, đây là
các kích dục tố thường gặp ở động vật giống đực.
Như một đồng hồ sinh học, các xung thần kinh nhịp nhàng từ trung khu
trước đến trung khu sau để điều hịa sự bài tiết theo chu kỳ các hc mơn kích
dục tố.
Trước năm 1970, các nhà khoa học chỉ nói tới vai trò các chất nội tiết
trong điều hòa chức năng sinh sản, đến nay người ta nhận thấy tham gia vào
điều hịa chức năng sinh sản gồm có cơ chế thần kinh và nội tiết. Sự điều hóa
sinh sản theo cơ chế thần kinh và nội tiết được thực hiện theo nhiều bậc, có sự
tham gia của vỏ não [67].
Những nghiên cứu về các giai đoạn dậy thì của trẻ em cũng được đặc
biệt quan tâm. Hiện tượng này không chỉ thay đổi bởi các yếu tố bên trong cơ
thể mà còn chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác như giới tính, chủng tộc,
mơi trường sống có ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác như giới tính, chủng
tộc, mơi trường sống trong cả nước. Thể dục và lao động cũng làm xuất hiện
sớm dậy thì.


23

1.2.3.2. Ở Việt Nam
Trong những năm 60 và nửa đầu thập kỷ 70, nhiều tác giả Việt Nam đã
nghiên cứu về tuổi có kinh lần đầu cũng nhu chu kỳ kinh nguyệt của công
nhân, nông dân, học sinh nông thôn và thành thị. Những kết quả này đã thống

kê trong tập “Hằng số sinh học người Việt Nam”
Vào năm 1965, Nguyễn Huy Cận và cộng sự (theo [52]) tiến hành nghiên
cứu về tuổi thấy kinh nguyệt lần đầu từ người Việt Nam, đã nhận định được kết
quả là 16,5 tuổi. Năm 1970, Vũ Thục Nga (theo [52]) đã nghiên cứu kích dục
tố tuyến n tồn phần trong vịng kinh bình thường của phụ nữ Việt Nam.
Năm 1971, Ngô Thế Phương (theo[52]) đã nghiên cứu sự biệt hóa sinh
dục của vùng Hypothlamus, kết quả là đã xác định được những hoóc môn
sinh dục tại Hypothalamus. Ở nước ta, theo Hằng số sinh học người Việt Nam
[86] tuổi dậy thì hồn tồn ở các em gái trong khoảng 13 - 14 tuổi, ở các em
trai trong khoảng 14 - 16 tuổi.
Từ năm 1976 đến 1980, Đinh Kỷ, Lương Bích Hồng [51], Cao Quốc Việt
và cộng sự [93] đã nghiên cứu những biến đổi của cơ thể ở lứa tuổi dậy thì
trên 2780 em học sinh có độ tuổi từ 8 đến 18 thuộc địa bàn thành phố Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh và các vùng nơng thơn tỉnh Thái Bình. Việc nghiên
cứu gồm thời điểm mọc lông mu, lông nách ở cả 2 giới, riêng ở nữ còn phát
triển thêm tuyến vú và tuổi có kinh lần đầu (ở Hà Nội là 13,83 tuổi, ở thành
phố Hồ Chính Minh là 13,87 tuổi).
Từ năm 1982 đến 1988, Nguyễn Thu Nhạn, Cao Quốc Việt, Nguyễn
Nguyệt Nga và cộng sự [77] đã tiến hành nghiên cứu trên 72 trẻ trai và 84 trẻ
gái từ 6-12 tuổi ở hai trường THCS Trung Tự (Hà Nội) và Bắc Lý (Hà Nam
Ninh). Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp dọc, các đối tượng được
theo dõi trong suốt 7 năm bằng phỏng vấn và khám lâm sàng. Các nghiên cứu


24

gồm kích thước tinh hồn, tuổi bắt đầu phát triển tuyến vú, lơng mu, lơng
nách, xuất tinh và có kinh lần đầu.
Cũng theo nghiên cứu trên, năm 1989 nhóm các tác giả Đào Huy Khuê,
Nguyễn Thị Tân, Nguyễn Chế Nghĩa [47] đã tiến hành nghiên cứu trên 1478

học sinh lứa tuổi từ 6 đến 17 tuổi.
Cao Quốc Việt, Nguyễn Phú Đạt và cộng sự [97] đã tiến hành phỏng vấn
và kết hợp thăm khám lâm sàng, chụp điện quang trên đối tượng trẻ 6 đến 17
tuổi ở các vùng nội thành Hà Nội,..
Các tác giả Phạm Thị Minh Đức, Lê Thu Liên, Phùng Thị Liên và cộng sự
[31] đã tiến hành nghiên cứu trên nữ sinh các trường THCS, THPT và phụ nữ
từ 13 - 60 tuổi tại xã Liên Ninh (ngoại thành Hà Nội) gồm 573 nữ sinh từ 917 tuổi và 820 phụ nữ và tại phường Thượng Định (Nội thành hà Nội)
Gồm 1589 nữ và 9 - 17 tuổi và 805 phụ nữ. Các nghiên cứu này được
tiến hành và so sánh với các nghiên cứu trước đó cũng tại địa điểm này ở các
thập kỷ khác nhau.
Năm 1996, Phạm Thị Sang [79] đã tiến hành nghiên cứu một số chỉ số
sinh lý - sinh dục ở nữ và phụ nữ trên địa bàn thành phố Huế. Tác giả đã tiến
hành nghiên cứu mối liên quan giữa kích thước nhân trắc với việc có kinh
nguyệt ở nữ sinh cho rằng, ở lớp tuổi 11 - 15, chiều cao và cân nặng của
nhóm học sinh nữ đã có kinh nguyệt vượt trội hơn so với các em chưa có kinh
nguyệt cùng lứa tuổi. Một số kết quả nghiên cứu đáng lưu ý khác của tác giả,
đó là tuổi có kinh lần đầu sớm nhất là 10 tuổi và chậm nhất là 17 tuổi. Tác gi
cũng nhận định rằng tuổi có kinh lần đầu ngày càng sớm nếu so sánh giữa các
thập kỷ trước với thập kỷ 90.
Trong cuốn “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90
- thế kỷ XX” [5]. Các tác giả đã đưa ra một số kết quả nghiên cứu giá trị sinh
học về chức năng sinh dục sinh sản ở nữ. Các tác giả nhận định tuổi có kinh


25

nguyệt lần đầu tiên ở trẻ gái thay đổi theo vùng miền, ở nội thành Hà Nội là
13 năm 3 tháng, ở nông thôn là 14 năm, nội thành Huế là 13 năm 7 tháng, ở
thị xã Đông Hà là 14 năm 5 tháng.
Các nghiên cứu về tuổi dậy thì ở trẻ nam, ở trẻ nữ và tuổi mãn kinh đã và

đang được nhiều tác giả tiến hành trên nhiều đối tượng khác nhau nhằm rút ra
quy luật phát triển của con người Việt Nam trong những giai đoạn khác nhau
và sống ở những vùng miền khác nhau.


×