Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất bánh cáy tại làng nghề Nguyên Xá Đông Hưng Thái Bình.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.52 KB, 86 trang )

1
I HC THI NGUYấN
TRNG I HC NễNG LM



NGUYN TRNG DUY


Tờn ti:
Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất bánh cáy
tại làng nghề Nguyên Xá Đông Hng Thái Bình


KhóA LUậN tốt nghiệp ĐạI HọC



H o to : Chớnh quy
Chuyờn ngnh : Kinh t Nụng nghip
Lp : K42A - KTNN
Khoa : KT - PTNT
Khoỏ hc : 2010-2014
Ging viờn hng dn : ThS. Lnh Ngc Tỳ




Thỏi Nguyờn, nm 2014
2
LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành khoá luận này lời đầu tiên tôi xin trân trọng cảm ơn Ban
giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm Khoa Kinh tế & PTNT, cảm ơn các
thầy cô giáo đã truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá
trình học tập và rèn luyện tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Tôi xin
trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của ThS. Lành Ngọc Tú đã giúp đỡ
tôi rất nhiều trong suốt thời gian để tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp một
cách đầy đủ. Xuất phát từ ý nguyện bản thân và được sự giúp đỡ của Ban
giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm Khoa Kinh tế & PTNT tôi đã tiến hành
thực hiện khóa luận tốt nghiệp: “Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất bánh
cáy tại làng nghề Nguyên Xá Đông Hưng Thái Bình” Tôi cũng xin chân
thành cảm ơn các cán bộ Ủy ban nhân dân xã Nguyên Xá cùng toàn thể các
hộ nông dân ở xã Nguyên Xá đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi hoàn
thành công việc trong thời gian thực tập tại địa phương. Cuối cùng tôi bày tỏ
sự biết ơn tới gia đình, bạn bè và người thân đã giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình thực tập. Đây là lần đầu tiên tôi thực hiện khóa luận nên trong quá trình
nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và các bạn sinh viên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 06 , năm 2014
Sinh viên



Nguyễn Trọng Duy




3
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp: “Đánh giá hiệu quả kinh tế
sản xuất bánh cáy tại làng nghề Nguyên Xá Đông Hưng Thái Bình” là
khóa luận do chính bản thân tôi thực hiện và dựa trên cơ sở nghiên cứu lý
thuyết, kiến thức chuyên ngành, nghiên cứu khảo sát tình hình thực tiễn và
dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS.Lành Ngọc Tú. Các số liệu bảng, biểu,
và những kết quả trong khóa luận là trung thực, các nhận xét, phương hướng
đưa ra xuất phát từ thực tiễn và kinh nghiệm hiện có. Một lần nữa em xin
khẳng định về sự trung thực của lời cam đoan trên.
Thái nguyên, ngày tháng 6 năm 2014
Sinh viên




Nguyễn Trọng Duy


4
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế xã Nguyên Xá- Đông Hưng- Thái Bình năm
2013 32

Bảng 3.2: Số hộ SX và kinh doanh bánh cáy qua 3 năm (2011-2013) 33

Bảng 3.3: Cơ cấu loại hình sản xuất bánh cáy trong vòng 2 năm 2012
2013. 34

Bảng 3.4: Cơ sở vật chất của hộ sản xuất bánh cáy trong làng nghề. 35


Bảng 3.5: Phân bổ khấu hao cơ sở vật chất của hộ 36

Bảng 3.6: Số lượng lao động làm bánh trong làng nghề năm 2013 37

Bảng 3.7:Thu nhập bình quân đầu người lao động của hộ sản xuất 38

và kinh doanh sản phẩm bánh cáy 38

Bảng 8: Trình độ học vấn, quản lý của chủ hộ sản xuất năm 20013 39

Bảng 9: Số lượng bánh được sản xuất ra trong 2 năm (2012-2013) 40

Bảng 10: Nguyên vật liệu để hoàn thành một mẻ bánh 2013 41

Bảng 11: Chi phi sản xuất ra 1 hộp bánh trước khi xuất bán. 42

Bảng 12: Tình hình cung cấp nguyên liệu để phục vụ sản xuất bánh cáy
tại xã 2013 43

Bảng 13: Cơ cấu sản phẩm tiêu thụ của các loại hình sản xuất bánh cáy
theo vùng miền qua 2 năm (2012-2013) 45

Bảng 14: Số lượng đại lý, siêu thị , của hàng bán bánh cáy 46

trong năm 2012 - 2013 46

Bảng 15: Giá bán sản phẩm trên thị trường qua 2 năm (2012- 2013) 47

Bảng 16: Hiệu quả sản xuất kinh doanh. 48



5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NTM Nông thôn mới
DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ
CNH , HĐH Công nghiệp hóa , Hiện đại hóa
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
HTX Hợp tác xã
BHYT Bảo hiểm y tế
THCS Trung học cơ sở
BCH Ban chấp hành
HĐND Hội đồng nhân dân
SX Sản xuất
SL Số lượng
ĐVT Đơn vị tính
TP Thành phố
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
.đ Đơn vị tiền tệ việt nam đồng.
Cc Cơ cấu
6
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1

1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.1. Mục tiêu chung 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài 2

1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 2
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất 3
1.3.3 Đóng góp mới của đề tài. 3
1.3.4 Bố cục đề tài 3
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4

1.1. Cơ sở lý luận 4
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 4
1.1.2 vai trò sản phẩm bánh cáy 6
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 9
1.2.1 Làng nghề ở một số nước trên thế giới 9
1.2.2. Kinh nghiệm về phát triển làng nghề ở một số nước châu á và một số địa
phương trong nước 11
1.2.3. Kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền thống ở một số địa phương trong
nước 17
1.2.3. Những bài học kinh nghiệm đối làng nghề bánh cáy Nguyên Xá – ĐôngHưng
- Thái Bình 23
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 25

2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 25
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 25
2.1.2. Nội dung nghiên cứu 25
2.1.3. Phạm vi nghiên cứu 25
2.2. Câu hỏi nghiên cứu 25
2.3 Phương pháp nghiên cứu 26
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu 26
2.3.2. Phương pháp phân tích thống kê kinh tế 26
2.3.3. Phương pháp phân tích SWOT 26
2.4. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu 27

2.4.1. Các chỉ tiêu phản ánh tình hình sản xuất của hộ 27
7
2.5.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của hộ. 28
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 29

3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 29
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 29
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 30
3.1.3. Đánh giá chung tình hình kinh tế 32
3.2. Tìm hiểu thực trạng quá trình sản xuất kinh doanh bánh cáy tại địa phương
nghiên cứu 33
3.2.1. Quy mô sản xuất kinh doanh sản phẩm bánh cáy 33
3.2.2. Cơ sở vật chất của làng nghề 35
3.2.3. Thực trạng lao động sản xuất sản phẩm bánh cáy 37
3.2.5. Trình độ của chủ hộ 39
3.2.6. Tình hình vay vốn sản xuất bánh cáy 40
3.2.7. Số lượng sản phẩm được sản xuất ra 40
3.2.8. Thị trường đầu vào 41
3.2.9. Tình hình sản xuất cung cấp chế biến cho làng nghề 42
3.2.10. Thị trường đầu ra 44
3.2.11. Tình hình tiêu thụ sản phẩm bánh cáy của cả nước 45
3.2.12. Giá bán của sản phẩm trên thị trường 47
3.2.13. Lợi nhuận thu được của các hộ sản xuất bánh cáy tại xã Nguyên Xá -Đông
Hưng
3.2.14. Kỹ thuật, công nghệ trong làng nghề 49
3.2.15. Tình hình tổ chức kinh doanh 50
3.2.16. Tình hình môi trường trong làng nghề 50
3.3. Những tiềm năng, hạn chết, khó khăn của làng nghề 51
3.3.1. Tiềm năng của làng nghề 51
3.3.2. Những hạn chế khó khăn của làng nghề 52

3.3.4. Sản phẩm cạnh tranh với bánh cáy tại làng nghề 55
Chương 4: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÀNG NGHỀ
SẢN XUẤT BÁNH CÁY 57

4.1. Quan điểm phát triển làng nghề 57
4.2. Phương hướng Bảo tồn và phát triển làng nghề 58
4.3. Các giải pháp nhằm và phát triển làng nghề bánh cáy 59
4.3.1. Giải pháp chung 59
4.4. Giải pháp riêng đối với làng nghề bánh cáy 68
4.5. Kiến nghị 68
KẾT LUẬN 70

1
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam, đất nước phương đông với rất nhiều nét văn hóa truyền thống
nổi tiếng được bạn bè trên thế giới biết đến và ngợi ca. Bên cạnh những nét văn
hóa trong giao tiếp ứng xử, nét văn hóa trong ẩm thực cũng tạo nên những nốt
nhạc góp chung vào bản nhạc về nét đẹp văn hóa Á Đông bay cao bay xa.
Xuất phát điểm là 1 nước nông nghiệp, đời sống còn gặp nhiều khó khăn,
với người dân, đặc biệt là người dân nông thôn với nghề chủ yếu là trồng trọt
chăn nuôi nhưng đã đem cho giới ẩm thực 1 món ăn đặc biệt. Bánh cáy là món
ăn của người nông dân là giản dị nhưng rất đặc biệt đối với ẩm thực việt nam.
Nó đã đi vào dân gian, truyền từ đời này sang đời khác của làng.
Bánh cáy đã xuất hiện rất lâu tuy chưa đăng ký thương hiệu nhưng
bánh cáy đã rất nổi tiếng trên nhiều thị trường trong và ngoài tỉnh. Nhắc đến
Thái Bình thì không ai không biết đến món ăn đặc sản nơi đây đó là bánh cáy.
Nhờ có các nguyên liệu có sẵn tại địa phương thêm vào đó là tiếng tăm của
bánh cáy từ đó nhiều hộ gia đình đã phát triển và vươn lên từ sản phẩm bánh
này.

Nguyên Xá là 1 xã thuộc huyện Đông Hưng hay còn gọi là Làng
Nguyễn. Cái tên làng Nguyễn là do cả làng này đều cùng 1 họ Nguyễn nên họ
gọi là làng Nguyễn. Bánh cáy có ý nghĩa - vài trò rất to lớn đối với việc phát
triển kinh tế ổn định đời sống của người dân trong xã. Bánh cáy được xác
định là mũi nhọn trong phát triển kinh tế tại xã. Tính đến 2013 có 350 hộ sản
xuất bánh cáy tại địa bàn xã. Bánh cáy có nhiều ưu thế nổi chội như, bánh cáy
tận dụng được nguyên liệu nông sản tại địa phương, giải quyết được đầu ra
cho nhiều loại nông sản khác.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân cả về sản xuất – chế biến và tiêu thụ
sản phẩm bánh cáy, chúng ta vẫn chưa khai thác hết vài trò, giá trị và thế mạnh
của sản phẩm bánh cáy. Mặc dù bánh cáy có thương hiệu và được rất nhiều
người tiêu dùng ưa chuộng nhưng bánh cáy chỉ đem lại một phần kinh tế nhỏ
cho các hộ sản xuất. Mặt khác, người sản xuất còn chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng
tập quán sản xuất truyền thống lạc hậu và chậm thích ứng với cơ chế kinh tế thị
2
trường, quá trình đầu tư còn chưa cân xứng, chưa khoa học. Do sản xuất thủ
công nên năng xuất sản xuất sản phẩm chưa cao, chi phí sản xuất giá thành lớn,
hiệu quả kinh tế chưa cao, khả năng cạnh tranh trên thị trường còn kém.
Xuất phát từ vai trò vị trí và ý nghĩa to lớn của phát triển bánh cáy,
cũng như những hạn chế còn mắc phải trong quá trình sản xuất - chế biến và
tiêu thụ sản phẩm bánh cáy thì việc nghiên cứu khảo sát đánh giá thực trạng
và tiềm năng phát triển bánh cáy. Từ đó xây dựng hướng hoàn thiện hơn cho
sản phẩm bánh cáy một cách khách quan khoa học và chính xác là một yêu
cầu bức thiết, vừa có ý nghĩa khoa học, lại vừa mang ý nghĩa thực tiễn. Vì
vậy, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: “ Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất
bánh cáy tại làng nghề Nguyên Xá - Đông Hưng - Thái Bình”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá được thực trạng quá trình sản xuất kinh doanh cũng như hiệu
quả kinh tế của xã Nguyên Xá – Đông Hưng – Thái Bình. Để từ đó đề xuất

được những giải pháp phát triển bền vững làng nghề bánh cáy tại xã Nguyên
Xá – Đông Hưng – Thái Bình.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu được điều kiện kinh tế - xã hội tại địa phương nghiên cứu.
- Tìm hiểu thực trạng quá trình sản xuất kinh doanh bánh cáy tại địa
phương nghiên cứu.
- Phân tích được tiềm năng, hạn chế, khó khăn của làng nghề
- Đề xuất một số giải pháp để phát triển bền vững cho làng nghề.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Giúp bản thân có thể vận dụng được những kiến thức đã học để phục
vụ cho học tập và nghiên cứu khoa học.
- Nâng cao được năng lực cũng như rèn luyện kỹ năng của bản thân,
vận dụng được những kiến thức đã học được ở nhà trường vào thực tiễn, đồng
thời bổ sung những kiến thức còn thiếu và những kỹ năng tiếp cận các
phương pháp nghiên cứu khoa học cho bản thân.
3
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu và học tập trong lĩnh
vực kinh tế. Các khuyến nghị và dự báo có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
các cơ quan lãnh đạo, quản lý và hoạch định chính sách tại địa phương.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các đề tài, đề án về xây dựng
phát triển kinh tế tại địa phương hoặc nơi khác.
- Công cuộc xây dựng NTM đang diễn ra đồng bộ trên phạm vi cả nước,
xã Nguyên Xá cũng đang bắt tay vào xây dựng NTM theo bộ tiêu chí quốc gia vì
vậy, đề tài cũng góp một phần giúp cho một số chỉ tiêu nhỏ trong xây dựng nông
thôn mới được nhanh chóng đạt đủ với tiêu chí của xây dựng nông thôn mới vd:
chỉ tiêu nhu nhập, chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu.
- Đề tài cung cấp thông tin về những khó khăn của người dân trong việc
sản xuất bánh cáy tại xã đang tiến hành, qua đó giúp cán bộ khi triển khai sẽ

có phương thức tác động phù hợp hơn.
1.3.3 Đóng góp mới của đề tài.
- Về đánh giá thực tiễn: trên cơ sở nguồn số liệu cập nhật và có chọn
lọc, khóa luận đã trình bày tổng quan thực trạng phát triển làng nghề sản xuất
bánh cáy tại xã Nguyên Xá – Đông Hưng Thái Bình thời kỳ 2011-2013 với
những đặc trưng cơ bản là đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất bánh cáy tại
làng nghề, tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ và thách thức đối với
phát triển làng nghề sản xuất bánh cáy trong những năm tới của vùng cũng
như chỉ rõ thuận lợi khó khăn của làng nghề sản xuất bánh cáy.
- Về đưa ra giải pháp: Dựa trên những kết quả mà đề tài nghiên cứu
được để đưa ra các giải pháp chung cho các làng nghề trong và ngoài tỉnh,
đồng thời đưa ra các giải pháp riêng cho làng nghề.
1.3.4 Bố cục đề tài
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 4: Giải pháp phát triển bên vững làng nghề sản xuất bánh cáy.
Kết Luận
4
Chương 1:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm về phát triển
Ngày nay có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển.
Raaman Weitz cho rằng: “ Phát triển là một quá trình thay đổi liên tục
làm tăng trưởng mức sống con người và phân phối công bằng những thành
quả tăng trưởng trong xã hội. [6]
Ngân hàng thế giới đưa ra khái niệm có ý nghĩa rộng hơn bao gồm

những thuộc tính quan trọng liên quan đến hệ thống giá trị của con người, đó
là : “Sự bình đẳng hơn về cơ hội, sự tự do về chính trị và các quyền tự do
công dân để củng cố niềm tin trong cuộc sống của con người trong các mối
quan hệ với nhà nước, với cộng đồng. [6]
Cho rằng: Phát triển là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố
cấu thành khác nhau như kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hóa,vv [6]
Có khái niệm: Phát triển (developement) hay nói một cách đầy đủ hơn
là phát triển kinh tế xã hội (socio-economic devenopement) của con người là
một quá trình nâng cao về đời sống vật chất và tinh thần bằng phát triển sản
xuất, tăng cường chất lượng các hoạt động văn hóa.
Tuy có nhiều quan niệm về sự phát triển, nhưng tập trung lại các ý kiến
đều cho rằng: Phạm trù của sự phát triển là phạm trù vật chất, phạm trù tinh
thần, phạm trù về hệ thống giá trị con người. Mục tiêu chung của phát triển là
nâng cao các quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và quyền tự do
công dân của mọi người dân. [6]
Khái niệm về phát triển bền vững đã được Ủy ban môi trường và phát
triển thế giới đưa ra năm 1987 như sau: “Những thế hệ hiện tại cần đáp ứng
nhu cầu của mình, sao cho không phương hại đến khả năng của các thế hệ
tương lai đáp ứng nhu cầu của họ”.[6]
5
Theo chúng tôi khái niệm về phát triển bền vững của Ủy ban Môi trường
Thế giới là đẩy đủ, Với bất cứ một quá trình phát triển nào cũng phải đặc biệt
chú ý đến tính bền vững, có như vậy thì phát triển mới lâu dài và ổn định.
1.1.1.2. Khái niệm phát triển làng nghề
* Khái niệm làng nghề.
Cho đến nay có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm làng nghề.
Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì: Làng nghề ( như làng gốm Bát
Tràng, Thổ Hà, Phù Lãng, Hương Canh làng giấy vùng Bưởi, Dương Ô
làng rèn sắt Canh Diễn, Phù Dực, Đa Hội ) là làng tuy vẫn còn trồng trọt
theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhỏ song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh

xảo với một tầng lớp thủ công chuyên nghiệp hay bán, có phường, có ông
trùm, ông phó cả cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm , có quy trình
công nghệ nhất định sống chủ yếu bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt
hàng thủ công, những mặt hàng đã có tính mỹ nghệ, trở thành sản phẩm hàng
hóa và có thể quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng xung quanh và tiến
tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra nước ngoài. Những làng nghề
ấy ít nhiều đã nổi danh từ lâu “dân biết mặt, nước biết tên, tên làng đã đi vào
lịch sử, và ca dao tục ngữ” trở thành văn hóa dân gian. [6]
Theo tác giả Bùi Văn Vượng thì “Làng nghề truyền thống là làng cổ
truyền thủ công, ở đây không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ
công. Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời là người làm nghề
nông nhưng yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên
sản xuất hàng truyền thống ngay tại làng quê của mình ” [6]
Làng nghề là những làng sống bằng hoặc chủ yếu bằng nghề thủ công ở
nông thôn Việt Nam.
Với khái niệm làng nghề có thể bao gồm những nội dung sau: “Làng
nghề là một thiết chế kinh tế – xã hội ở nông thôn được cấu thành bởi hai yếu
tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định, trong đó bao
gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối
liên kết kinh tế, xã hội văn hóa”. [6]
6
Theo quy định tạm thời của Cục chế biến nông lâm sản và ngành nghề
nông thôn (cơ quan trực thuộc Bộ nông nghiệp giao nhiệm vụ quản lý nhà
nước về lĩnh vực này) thì:
Làng nghề là làng (thôn ấp) ở nông thôn có ngành nghề phi nông
nghiệp phát triển tớ mức trở thành nguồn sống chính hoặc nguồn thu nhập
quan trong của người dân trong làng. Về mặt định lượng, làng nghề là làng có
từ 35 – 40% số hộ trở lên có tham gia hoạt động ngành nghề có thể sống bằng
chính nguồn thu nhập từ ngành nghề (nghĩa là thu nhập từ ngành nghề chiếm
trên 50% thu nhập của các hộ) và giá trị sản lượng của ngành nghề chiếm trên

50% tổng giá trị sản lượng của địa phương. Vì vậy, khái niệm làng nghề cần
được hiểu là những làng ở nông thôn có các ngành nghề phi nông nghiệp
chiếm ưu thế với số hộ, số lao động và số thu nhập so với nghề nông.
1.1.1.3. Khái niệm bánh cáy
- Bánh cáy không phải làm từ con cáy. Bánh cáy là 1 loại bánh được
làm chủ yếu từ các nguyên liệu nông nghiệp như: nếp cái hoa vàng, vừng, lạc,
mỡ, vv Bánh cáy có quy trình làm đặng biệt cách pha chế các nguyên liệu
với nhau để thành một món bánh.
- Bánh cáy là sản phẩm có giá trị kinh tế cao, cùng với bước tiến của
lịch sử nhân loại bước phát triển của khoa học kỹ thuật, vai trò và giá trị của
bánh cáy ngày càng được khẳng định và nâng cao.
1.1.2 vai trò sản phẩm bánh cáy
1.1.2.1. Tăng giá trị sản phẩm hàng hóa
Sự xuất hiện của sản phẩm bánh cáy có ý nghĩa rất quan trọng đối với
phát triển kinh tế địa phương. Với quy mô nhỏ bé, hàng năm làng nghề đã xuất
ra một khối lượng sản phẩm hàng hóa khác lớn, đóng góp đáng kể cho nên kinh
tế quốc dân nói chung và cho địa phương nói riêng. Sản phẩm của làng nghề là
nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa ở nông thôn.
Tỷ trọng hàng hóa ở làng nghề cao hơn rất nhiều so với các làng
thuần nông khác. Nếu đem so sánh những địa phương có nhiều làng nghề
thì kinh tế hàng hóa ở nông thôn phát triển hơn so với các địa phương ít
làng nghề.
7
1.1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa
hiện đại hóa
Sự phát triển làng nghề bánh cáy đã góp phần làm cho tỷ trọng của
ngành nông nghiệp ngày càng thu hẹp, tỷ trọng của ngành công nghiệp và
dịch vụ ngày càng tăng lên. Đồng thời, nó còn đóng vai trò tích cực trong việc
thay đổi tập quán từ sản xuất nhỏ. Độc canh mang tính tự túc tự cấp sang sản
xuất hàng hóa, hoặc tiếp nhận công nghệ mới có liên quan đến nghề sẽ không

mấy khó khăn so với nông dân các ngành thuần nông.
Sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN)
trong làng nghề cũng thuận lợi hơn và gia tăng nhanh chóng hơn. DNVVN
trong làng nghề dễ dàng tiếp cận với kinh doanh lớn, công nghiệp lớn- hiện
đại làng nghề sẽ là cầu nối giữa công nghiệp lớn hiện đại với nông nghiệp phi
tập trung, làm tiền đề xây dựng công nghiệp lớn hiện đại, là bước trung gian
chuyển tử nông thôn thuần nông, nhỏ lẻ, phân tán lên công nghiệp lớn – hiện
đại và độ thị hóa. Sự chuyển dịch của làng nghề là một trong những hướng rất
quan trọng để thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn mới theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ở những địa phương có nhiều làng nghề và ở các làng nghề phát
triển thường tỷ trọng GDP và lao động trong nông nghiệp, dịch vụ tăng lên
nhanh chóng trong tổng GDP và lao động ở nông thôn. Thu nhập từ các
hoạt động phi nông nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu
nhập từ các hoạt động kinh tế của nông dân. Bình quân giá trị sản lượng
công nghiệp nông thôn chiếm khoảng 60% - 80% tổng giá trị sản lượng
công nghiệp của tỉnh.
1.1.2.3. Thu hút vốn nhàn rỗi
Tận dụng thời gian và lực lượng lao động nâng cao thu nhập thu hẹp
khoảng cách đời sống nông thôn và thành thị, hạn chế di dân tự do.
Khác với sản xuất công nghiệp với một số ngành khác, làng nghề
truyền thống không đòi hỏi số vốn đầu tư quá lớn, bởi rất nhiều nghề chỉ cần
công cụ dụng cụ, thô sơ mà những người thợ trong làng nghề đều có thể tự
sản xuất hoặc chế tạo được. Hơn nữa, đặc điểm của sản xuất của làng nghề
8
truyền thông là quy mô nhỏ, cơ cấu vốn và cơ cấu lao động ít nên rất phù hợp
với khả năng huy động vốn và các nguồn lực vật chất của các hộ gia đình. Với
mức đầu tư không lớn, trong điều kiện hiện nay thì đó là một lời thế để các
làng nghề có thể huy động các loại vốn nhàn rỗi trong dân vào hoạt động sản
xuất kinh doanh.

Do đặc điểm sản xuất của làng nghề là sử dụng lao động thủ công là
chủ yếu, nơi sản xuất cũng là nơi ở của người là động nên bản thân nó có khả
năng tận dụng và thu hút nhiều loại lao động, từ lao động thời vụ nông nhàn
đến lao động đổ tuổi hay dưới độ tuổi. Trẻ em tham gia sản xuất dưới hình
thức học nghề hay giúp việc. Lực lượng này chiếm một tỷ lệ rất đáng kể trong
số lao động làng nghề.
Việc làm đầy đủ, thu nhập đảm bảo, đời sống vật chất và tinh thần ngày
càng nâng cao làm cho người lao động nói riêng, người dân nói chung ở làng
nghề sẽ yên tâm bám chặt lấy nghề, lấy quê hương. Họ sẽ tích cực, hăng hái
lao động, sản xuất, kinh doanh để làm giàu cho bản thân, gia đình mình và
xây dựng quê hương, làng xã họ ngày một khang trang, giàu đẹp, văn minh.
Họ sẽ không phải đi “tha hương cầu thực”, đi tìm việc làm ở những nơi thị
thành hoặc địa phương khác. Điều đó sẽ hạn chế và đi đến chấm dứt tình
trạng di dân tự do, một trong những vấn đề nan giải hiện nay ở nước ta. Đồng
thời nó cho phép thực hiện được phương châm “rời ruộng mà không rời làng”
và thực hiện được quá trình đô thị hóa phi tập trung.
1.1.2.4. Bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc
Nghiên cứu và phát triển làng nghề bánh cáy góp phần vào giữ gìn
các giá trị văn hóa dân tộc và nâng cao đời sống tinh thần cho cư dân ở
nông thôn. Đó là niềm tự hào của dân tộc ta qua các thế hệ nối tiếp đến
nay vẫn còn nguyên giá trị. Sản phẩm của làng nghề bánh cáy phản ánh
những nét chung của dân tộc có nét riêng của làng nghề. Người Việt Nam
sống ở nước ngoài khi nhớ về quê hương là nhớ đến dấu ấn đậm nét của
làng nghề với sản phẩm độc đáo của nông thôn Việt Nam mà các dân tộc
khác không có được.

9
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1 Làng nghề ở một số nước trên thế giới
Nhật Bản: Tiến hành công nghiệp hóa (CNH) từ nên nông nghiệp cổ

truyền. Trong quá trình CNH, Nhật Bản đã mở rộng mạng lưới công nghiệp
gia đình phân tấn ở nông thôn làm vệ tinh cho các xí nghiệp lớn ở đô thị. Vừa
duy trì và phát triển các ngành nghề cổ truyền, Nhật Bản vừa mở ra các ngành
nghề mới, trước hết là các hoạt động dịch vụ kinh tế – kỹ thuật ở nông thôn,
huy động thêm lao động nông thôn vào các hoạt động kinh tế ngoài nông
nghiệp để nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn, các làng nghề truyền
thống vẫn được duy trì và phát triển trong quá trình CNH. Đến cuối thế kỷ
XX, Nhật bản có 867 nghề TTCN ở nông thôn. Sản phẩm của nghề sơn mài
cổ truyền không chỉ phục vụ trong nước mà còn xuất khẩu ra nhiều nước
khác, kể cả Mỹ. Vào những năm 70, ở OITA đã có phong trào “mỗi thôn làng
một sản phẩm” nhằm phát triển ngành nghề cổ truyền ở nông thôn. Kết quả là
ngay từ đầu tiên, họ đã sản xuất được 143 loại sản phẩm, thu được 358 triệu
USD, đến năm 1992 tăng lên 1,2 tỷ USD. Phong trào này đã nhanh chóng lan
rộng khắp nước Nhật.[6]
Trung Quốc: Vào những năm 50 của thế kỷ XX có khoảng 10 triệu thợ
thủ công. Sau khi nước cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, các đơn vị sản
xuất TTCN được chuyển sang hoạt động dưới hình thức HTX và nhiều
nguyên nhân khác, ngành nghề nông thôn dần bị mai một. Sau khi có chủ
trương cải cách và mở cửa, nhiều hộ gia đình có nghề TTCN tự liên kết để
xây dựng các xí nghiệp cá thể mà điển hình là xí nghiệp Hương Trấn ở Tô
Nam đã thu hút nhiều lao động ở nông thôn và tạo ra giá trị sản lượng tương
đối lớn; ở đây xí nghiệp hương trấn hoạt động công nghiệp chiếm 95% giá trị
sản lượng (chủ yếu công nghiệp nhẹ), 95% lao động là nông dân.
Từ khi cải cách đến nay, công nghiệp nông thôn Trung Quốc có sự phát
triển đáng kể. Những năm 1978 -1996. Giá trị sản lượng của các doanh
nghiệp nông thôn (trong đó có đóng góp không nhỏ từ các nghề TTCN) trong
nên kinh tế tăng từ 9,1% lên hơn 50%, giá trị kim ngạch xuất khẩu trong tổng
xuất khẩu tăng từ 9,2% lên 45%. Lao động làm việc trong các doanh nghiệp
10
nông thôn tăng 5 lần, đạt 130 triệu lao động, thu hút 28,4% lao động nông

thôn . Thu nhập nông thôn trong thời kỳ này tăng 14 lần. Sự phát triển của
công nghiệp nông thôn ở Trung Quốc chịu tác động của các chính sách vĩ mô
như: Chính sách cải cách kinh tế vĩ mô và thể chế ở khu vực nông thôn; các
chương trình giáo dục và hỗ trợ kỹ thuật doanh nghiệp nông thôn xuất khẩu;
cải cách về mặt tài chính và luật phá sản. [6]
In-đô-nê-xi-a: Là một nước nông nghiệp, trong quá trình CNH, Chính
phủ Inđônêxia đã đề ra các chương trình phát triển ngành nghề TTCN ở nông
thông trong ba kế hoạch 5 năm. Để thu hút đầu tư vào TTCN, Chính phủ đã
đề ra nhiều chính sách, trong đó chú ý đến khuyến khích về thuế và ưu tiền
công nghiệp nhỏ chế biến nông sản xuất khẩu. Chính phủ Inđônê xia còn tổ
chức ra “hội đồng thủ công nghiệp quốc gia Inđônêxia” nhằm thúc đẩy các
ngành TTCN phát triển như tổ chức thi thiết kế mẫu mã, tổ chức triển lãm
hàng TTCN và lập “Trung tâm phát triển tiểu công nghiệp” để quản lý, hỗ trợ
TTCN. Kế hoạch phát triển các ngành TTCN được lồng vào các chương trình
tạo việc làm ở nông thôn. Năm 1994, Inđônêxia đã cung cấp tiền để một số
làng khôi phục nghề thủ công cổ truyền nhằm tạo việc làm và tăng thu nhập
cho nông dân.[6]
Thái Lan: Có nhiều biện pháp khuyến khích phát triển TTCN nông
thôn. Trong quá trình CNH nông thôn chính phủ Thái Lan đã tiến hành mở
mang các ngành nghề TTCN, phát triển mạnh mẽ nghề truyền thống thủ công
mỹ nghệ, sản xuất được nhiều sản phẩm hàng hóa xuất khẩu đứng thứ hai trên
thế giới nhờ có sự kết hợp tay nghề, của nghệ nhận với công nghệ, kỹ thuật
thiết bị hiện đại. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu mỹ nghệ vàng bạc của Thái
Lan đã đạt gần 2 tỷ USD. Sản phẩm của nghề gồm sứ cổ truyền trở thành mặt
hàng xuất khẩu thu ngoại tệ đứng thứ hai sau gạo. Chính phủ Thái Lan còn
chú ý phát triển ngành thủ công sản xuất các sản phẩm từ nguyên liệu, cây
quả ở địa phương, nhằm tạo việc làm và tăng thu nhập cho cư dân nông thôn
qua một số biện pháp như: cung cấp vốn tín dụng, bồi dưỡng tay nghề, tiếp
thị, tạo ra mối quan hệt gia công giữa công nghiệp nhỏ và công nghiệp lớn.
Vào đầu thế kỷ XXI, Chính phủ Thái Lan đã tài trợ cho những sáng kiến đẩy

11
mạnh các ngành thủ công địa phương, coi đây là chương trình lớn nhằm tạo
động lực xuất khẩu mới và giải quyết tình trạng dư thừa nhân công. Nhằm
xuất khẩu được nhiều mặt hàng thủ công. [6]
1.2.2. Kinh nghiệm về phát triển làng nghề ở một số nước châu á và một số
địa phương trong nước
1.2.2.1. Kinh nghiệm về phát triển làng nghề ở một số nước châu á và bài học
đối với Việt Nam
Không riêng gì Việt Nam mà nhiều nước châu Á, bên cạnh các trung
tâm công nghiệp lớn, sản xuất hiện đại vẫn chý ý duy trì và phát triển làng
nghề, làng nghề truyền thống.
* Kinh nghiệm của Nhật Bản
Là một nước châu Á có nền nông nghiệp phát triển và loại bậc nhất thế
giới, tuy vậy, ở nhiều vùng đất nước, thị trấn, thị tứ, làng xã của Nhật Bản vẫn
tồn tại nhiều làng nghề với nhiều thủ công đa dạng, phong phú, như đan lát,
dệt chiếu, dệt lụa, may áo kimônô, các nghề thủ công mỹ nghệ, gồm sứ, sơn
mài, chế biến lương thực, thực phẩm,
Kinh nghiệm có ý nghĩa nổi trội trong phát triển làng nghề của Nhật là
phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” được khởi xướng tại tỉnh Oita
Prefectare, vùng Hariamatra, năm 1979. Phong trào đã thành công trong việc
phát huy tính tự lực, sáng tạo của người dân trong khai thác sử dụng các
nguồn nhân lực ở địa phương để phát triển các làng nghề, đưa làng nghề thoát
khỏi cảnh nghèo đói. Từ thành công của phong trào này, có thể cho ta những
kinh nghiệm:
Một là, trên cơ sở thế mạnh của từ địa phương, lựa chọn sản xuất một
sản phẩm mang tính toàn cầu. Ở mỗi cộng đồng nông thôn, làng căn cứ vào
điều kiện kinh tế, tự nhiên của mình xây dựng dự án của quê hương. Sản
phẩm này không chỉ đơn giản là những vật lưu niệm cho khách du lịch hoăc
tiêu thụ ở thị trường địa phương mà phải đảm bảo có thương hiệu để tiêu thụ
trên thị trường thế giới.

Hai là, phát huy tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của người dân làng nghề
kết hợp với sự hỗ trợ có hiệu quả của Nhà nước. Việc lựa chọn sản xuất sản
12
phẩm gì, cách thức sản xuất như thế nào để thể hiện tinh hoa tốt đẹp của làng
quê là do người dân và cộng đồng dân cư quyết định. Nhà nước hỗ trợ làng
nghề thông qua hình thức gián tiếp để tránh tư tưởng bao cấp, trông chờ, ỷ lại
vào nhà nước, nhưng hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng, hước dẫn kỹ thuật, xúc
tiến thương mại, quảng bá sản phẩm trên thị trường.
Ba là, đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác , liên kết giữa các hộ, các cơ sở
sản xuất, các làng nghề trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm , đặc biệt là hợp
tác các trong thống nhất giá cả, phương thức bán hàng, chế biến sản phẩm, ,
nên tổ chức kênh tiêu thụ trực tiếp để có giá trị kinh tế cao.
Bốn là, đa dạng hóa các hình thức đào tạo, coi phát triển nguồn nhân
lực là động lực quan trọng nhất của phong trào “ mỗi làng một sản phẩm”.
Thành lập trường học với quy mô khác nhau, thời gian học tập khác nhau, mở
vào buổi tối để cho người học không có điều kiện học ban ngày. Đối tượng
học viên rất đa dạng, là nông dân, cán bộ hợp tác xã nông nghiệp, người làm
việc trong chính quyền địa phương. Trường không có sách giáo khoa hoặc
giáo viên chuyên nghiệp, thay vào đó là mời một số người dân thành đạt trong
phong trào đến giảng.
Cùng với phong trào “mỗi làng một sản phẩm”, chính phủ Nhật đã ban
hành một loạt những chính sách, giải pháp nhằm khôi phục và phát triển
ngành sản xuất thủ công mỹ nghệ truyền thống như:
- Thành lập hệ thống bảo lãnh và bảo hiểm tính dụng đề giúp đỡ làng
nghề vay vốn không cần thế chấp.
- Công nhận danh hiệu các nghệ nhân công nghệ truyền thống.
- Khuyến khích nâng cao kỹ thuật công nghệ truyền thống, như trao
tiền khuyến khích 300.000 yên một năm cho những người mới sản xuất hàng
công nghệ truyền thống.
- Chỉ đạo việc lập kế hoạch khôi phục và phát triển nghề truyền thống.

- Phát hành giấy chứng nhận hàng công nghệ truyền thống đạt tiêu
chuẩn để người tiêu dùng an tâm khi mua hàng công nghệ truyền thống.
- Tở chức các hội thi, triển lãm, giới thiệu hàng công nghệ truyền thống
qua việc quản cáo ở báo chí, sách vở, áp phích,
13
- Xây dựng trung tâm thủ công truyền thống quốc gia để thông tin về
công nghệ truyền thống, tạo điều kiện cho người san xuất và người tiêu dùng
giao lưu với nhau, người tiêu dùng tiếp cận với hàng công nghệ truyền thốn
còn người sản xuất nắm bắt được nhu cầu của người tiêu dùng.[5]
* Kinh nghiệm của Trung Quốc
Vốn là một nước có nhiều nghề thủ công lâu đời và nổi tiếng như đồ
gốm, đẹt tơ lụa, luyện kim, nghề làm giấy, , đầu thế kỷ XX, Trung Quốc có
khoảng 10 triệu thở thủ công làm việc trong các hộ gia đình, phường nghề và
làng nghề. Đến năm 1954, số người làm nghề tiểu thủ công nghiệp được tổ
chức hợp tác xã. Tới năm 1978, Trung Quốc bắt đầu thực hiện cải cách, mở
cửa, công cuộc công nghiệp hóa nông thôn có sự chuyển biến mới, các hợp
tác xã tiểu thủ công nghiệp phát triển thành các xí nghiệp hương trấn. Đây là
xí nghiệp do nông dân địa phương góp vốn xây dựng tại xác thôn, xã, dưới
hai hình thức sở hữu tư nhân và tập thể. Ngành sản xuất ở các xí nghiệp
hương trấn chủ yếu là công nghiệp, ngoài ra còn các nghề khác như nông
nghiệp, xây dựng, vận tải, thương mại, dịch vụ. Xét về mặt bản chất, các xí
nghiệp hương trấn không mang đặc điểm như các làng nghề, đặc biệt là làng
nghề truyền thống ở nước ta sản phẩm làm ra không mang tính truyền thống
hay đặc thù của địa phương mà rất đa dạng, hình thức tổ chức chủ yếu là
doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ, công nhân trong xí nghiệp đa phần xuất
thân từ nông dân, giá cả lao động rẻ nên chi phí lao động trên đơn vị sản
phẩm thấp, do đó có khả năng cạnh tranh quốc tế đối với sản phẩm có hàm
lượng lao động cao. Mặt khác, các xí nghiệp hương trấn phần nhiều là doanh
nghiệp vừa và nhỏ nên dễ thay đổi phương hướng sản xuất, đổi mới công
nghệ, để nhanh chóng tạo ra sản phẩm thích ứng với nhu cầu thị trường.

Chính vì vậy, xí nghiệp hương trấn được đánh giá là loại hình thức tổ chức
năng động và có sự đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội
ở nông thôn Trung Quốc.
Mô hình xí nghiệp hương trấn phát triển được nhờ vào các biện pháp và
chính sách hỗ trợ của Nhà nước sau đây:
14
Một là, thực hiện cải cách thể chế ở vùng nông thôn, tạo môi trường
thuận với cho xí nghiệp, nhất là xí nghiệp tư nhân phát triển.
Những cải cách về thể chế được chính phủ Trung Quốc liên tục thực
hiện từ năm 1978, bắt đầu chuyển đổi cơ chế quản lý trong hợp tác xã, từ chỗ
quản lý tập trung sang hệ thống khoán hoặc hệ thống trách nhiệm gia đình.
Tới năm 1988, Hội đồng nhà nước ban hành văn bản pháp luận, quy định ba
loại hình doanh nghiệp tư nhân: Sở hữu tư nhân, đối tác và các công ty trách
nhiệm hữu hạn, tồn tại bổ sung cho khu vực doanh nghiệp nhà nước và được
Nhà nước bảo vệ. Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thử 15 tháng 9 năm
1997 công nhận, doanh nghiệp tư nhân là một bộ phận cấu thành nên kinh tế.
Hình thức sở hữu tư nhân đã được phát luật điều chỉnh và đưa vào hiến pháp
Trung Quốc năm 1999. Chính những cải cách về thể chế đó đã mở đường cho
các xí nghiệp hương trấn phát triển.
Hai là, đẩy mạnh phân cấp quản lý cho chính quyền địa phương theo
hướng tăng quyền hạn, đặc biệt là quyền hạn trong quản lý chỉ tiêu ngân sách.
Chính quyền địa phương, trọng tâm là chi đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.
Đồng thời chính quyền địa phương và các ủy ban làng chuyển từ quản lý trực
tiếp các xí nghiệp hương trấn sang quản lý gián tiếp, thuận lợi cho các xí
nghiệp tiếp cận các nguồn vốn, các dịch vụ công và được đảm bảo cạnh tranh
bình đẳng với doanh nghiệp nhà nước.
Ba là, Nhà nước ban hành chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp và
phát triển nông thôn, như tăng đầu tư cho sản xuất hàng nghuyên liệu và sở
chế; trợ giá hàng nông sản và có chính sách chỉ phát triển các xí nghiệp chế
biến thực phẩm ở nông thôn. Chính sách này đã góp phần giải quyết việc làm

cho lao động dư thừa ở nông thôn, tạo thị trường cầu rộng lớn giúp các xí
nghiệp hương trấn phát triển.
Bốn là, tăng độ minh bạch, bình đẳng, thông thoáng của các chính
sách như cải cách thuế năm 1994 đã tạo lập một hệ thống thuế thống nhất
giữa các hình thức sở hữu khác nhau trong xí nghiệp hương trấn. Kiểm soát
chặt chễ việc đánh thuế tùy tiện của chính quyền địa phương và ủy ban làng
với mục đích đưa thuế cao để tăng ngân sách địa phương. Mặt khác, chính
15
phủ đã quy định chính sách thuế khác nhau cho các vùng và các nghành nghề
khác nhau. Chẳng hạn, xí nghiệp mới thành lập được giảm thuế từ một đến ba
năm, các xí nghiệp tạo ra sản phẩm mới mà mang tính chưa có được miễn
thuế hai năm. Sản phẩm có giá trị toàn quốc được miễn thuế ba năm. Nếu
xuất khẩu được 1USD được hưởng 1-2 nhân dân tệ.
Năm là, để khắc phục tình trạng công nghệ lạc hậu và năng lực quản lý
yếu kém của các chủ doanh nghiệp trong xí nghiệp hương trấn, Ủy ban khoa học
và công nghệ Nhà nước đã thực hiện kế hoạch xây dựng những trung tâm công
nghệ phục vụ các xí nghiệp hương trấn. Nội dung của kế hoạch này là đầu tư vào
con người, đào tạo họ có đủ trình độ để áp dụng vào đổi mới công nghệ, hướng
dẫn các chủ doanh nghiệp quản lý có hiệu quả. Mặt khác, Nhà nước đã có chính
sách khuyến khích các hình thức hợp tác nghiên cứu giữa doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân với các viện nghiên cứu của chính phủ, hoặc cho
phép xí nghiệp hương trấn thuê cán bộ khoa học của các viện nghiên cứu về giúp
xí nghiệp đưa tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất.
Sáu là, để mở rộng thị trường, các xí nghiệp hương trấn đã thực hiện
liên kết với nông dân để hình thành các kênh tiêu thụ sản phẩm, sử dụng
thương mại điện tử để tìm hiểu thị trường quốc tế, cử các đoàn đi tìm hiểu thị
trường nước ngoài,
Bên cạnh những kinh nghiệm thành công, xí nghiệp hương trấn còn
bộc lộ một số hạn chế:
- Phát triển còn mang tính tự phát, chưa theo quy hoạch, kế hoạch

thống nhất.
- Xí nghiệp hương trấn phát triển tác động tới sản xuất nông nghiệp và
do đó có nguy cơ ảnh hưởng tới an toàn lương thực quốc gia.
- Ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ở các xí nghiệp hương trấn làm
cho môi trường sinh thái ở nông thôn bị hủy hoại.[5]
* Bài học kinh nghiệm Thái Lan
Thái lan có nhiều ngành nghề tiêu thủ công nghiệp và làng nghề. Các
ngành nghề thử công mỹ nghệ truyền thống như chế tác vàng bạc, đá quý, đồ
trang sức được duy trì và phát triển tạo ra nhiều hoàng hóa xuất khẩu, đứng
16
vào hàng thứ hai trên thế giới. Khủng hoảng tài chính năm 1997 đã đẩy Thái
Lan vào tình trạng nở nước ngoài lớn, người bị tác động nhiều nhất là người
nghèo những cư dân sống ở nông thôn.
Để giải quyết khó khăn này và vực dậy nền kinh tế, Thái Lan đã thực
hiện dự án quốc gia “mỗi làng một sản phẩm” (mô hình tổ chức này bắt
nguồn từ phong trào mỗi làng một sản phẩm của Nhật Bản như đã trình bày ở
trên, và được Thái Lan vận dụng có kết quả)
Dự án này có sáu mục tiêu cụ thể: Thứ nhất, tạo ra những đặc điểm
riêng biệt cho sản phẩm của địa phương để tăng doanh số bán; thứ hai, phục
hồi những kiến thức của địa phương để nâng cao hiệu quả kinh doanh; thứ ba,
phát huy những tri thức truyền thống để tạo ra sản phẩm có tính đặc thù; thứ
tư, kết hợp giữa phát triển du lịch sinh thái với du lịch thăm quan các lang
nghề để tăng thu nhập; thứ năm, xây dựng lòng tự hào dân tộc của nhân dân
với các sản phẩm làng nghề; thứ sáu, hỗ trợ các doanh nghiệp địa phương
phát triển và cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả mục đích nêu trên, chính phủ Thái
Lan đã ban hành và thực thi những chính sách và giải pháp sau:
Một là, đã huy động hầu hết các bộ, ngành chủ chốt tham gia vào dự
án, trên cơ sở phân công cụ thể chức năng, nhiệm vụ cho từng bộ, từng địa
phương, từng cơ sở, chẳng hạn như cấp lập ngân sách là nội các chính phủ,

bao gồm ủy ban quốc gia phụ trách dự án cùng 8 tiểu ban khác có trách nhiệm
điều phối chính sách và tiếp nhận các nguồn thông tin từ các tỉnh quận. Các
tiểu ban cấp tỉnh phụ trách quản lý nguồn ngân sách cấp cho địa phương thực
hiện dự án. Tiểu ban cấp quận phụ trách phân loại sản phẩm hỗ trợ cộng đồng
dân cư, thiết kế và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Các hội đồng làng trực tiếp
lựa chọn và phát triển sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đặc thù cho từng làng.
Cơ chế hoạt động của hội đồng làng linh hoạt, dân chủ, tạo điều kiện cho tất
các tổ chức, các nhân trong cộng đồng tham gia. Giữa hội đồng làng, tiểu ban
cấp quận và ủy ban quốc gia có mối liên kết chặt chẽ trong việc phát triển sản
phẩm, đảm bảo phản ánh được ý kiến người dân lên cơ quan lập chính sách
của chính phủ.
17
Hai là, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở phân loại đối tượng sản
xuất theo tiềm năng thị trường, chia ra: Nhóm có khả năng xuất khẩu, nhóm
tiêu thụ trong nước, nhóm thị trường ngoài nước, đồng thời thực hiện việc bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ thông qua luật pháp và hiệp định quyền sở hữu trí tuệ
có liên quan tới thương mại.
Ba là, xây dựng và ban hành các chính sách ưu tiên cho dự án, như ân
hạn nợ 3 năm cho người nông dân, lập quỹ một triệu bath cho từng làng nghề,
trong đó tổng vốn ngân sách cho các làng nghề là 70 tỷ bath, xây dựng mạng
internet để giúp cộng đồng dân cư sử dụng thương mại điện tử.
Bốn là, xác định các bước trong thực hiện dự án: Thứ nhất là quá trình
hướng nghiệp, lập kế hoạch và thiết lập các quan hệ trong cộng đồng. Thứ hai
là xác định các sản phẩm nổi bật. Thứ ba là phát triển sản phẩm, gồm chất
lượng và thiết kế sản phẩm. Bước bốn là phân phối, makettinh sản phẩm.
Bước cuối cùng là đánh giá dự án và hoạt động sau dự án. Gắn với việc triển
khai thực hiện từ bước, Chính phủ giao trách nhiệm cụ thể cho các cơ quan
của chính phủ và các cấp chính quyền địa phương, Hội đồng làng nhận từng
khâu công việc.
Năm là, xây dựng các trung tâm chuyên mua bán các sản phẩm của dự

án ở từng địa phương, được gọi là trung tâm các sản phẩm tinh xảo. Những
trung tâm này nhằm khuyếch trương sản phẩm của địa phương, đồng thời làm
yên tâm người sản xuất về tiêu thụ sản phẩm. Cùng với giải pháp này, chính
phủ còn tài trợ các làng nghề tổ chức triển lãm, hội chợ thương mại trong
nước, tham hội chợ quốc tế ở nước ngoài. Mở chiến dịch khuyến khích mua
hàng nội, quảng bá sản phẩm đặc trưng của địa phương.[5]
1.2.3. Kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền thống ở một số địa phương
trong nước
Ở Việt Nam hiện nay, số làng nghề truyền thống đã lên đến trên 2.000,
tập trung nhiều nhất ở vùng đồng bằng sông Hồng, 855 làng nghề, trong đó có
những làng nghề đã xuất hiện cách đây đến 300, 400 năm. Sau giai đoạn
thăng trầm và thập niên những năm 90 của thế kỷ XX, hiện nay các làng nghề
18
ở một số địa phương như Hà Tây Cũ, Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng, đã
có khởi sắc nhất định.
* Kinh nghiệp của tỉnh Hà Tây Cũ
Hà Tây từ xưa vốn đã nổi tiếng là mảnh đất “ Làng nghề, làng văn”
hiện có 411 làng nghề, chiếm 1/5 số lượng làng nghề cả nước, với những sản
phẩm thủ công truyền thống nổi tiếng trên toàn quốc như lụa Vạn Phúc, khảm
trai Chuyên Mỹ, hàng mây trên Phú Vinh, tượng gỗ Sơn Đông, giò chả Tân
Ước, nem Phùng, sơn mài Hạ Thái, tranh thêu Quất Động, đồ tiện Nhị Khê
Giá trị sản xuất từ khu vực kinh tế này đem về cho Hà Tây khoảng 3.000 tỉ
đồng mỗi năm. Trong đó nhiều làng nghề đạt mức doanh thu mỗi năm 70 tỉ
đồng, giải quyết việc làm cho 140.000 hộ nông dân và nhiều lao động ở các
doanh nghiệp, hợp tác xã. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển
của số làng nghề mới, lao động làng nghề tăng hàng năm hơn 14%, giá trị sản
xuất tăng hằng năm gần 29,2%
Để có được những kết quả trên, chính quyền và nhân dân các làng nghề
tỉnh Hà Tây đã phối hợp cùng thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, kết hợp nhiều nguồn khác nhau để giải quyết vốn cho sản xuất.

Để có vốn đầu tư, bên cạnh nguồn vốn tự có (chiếm 70% -80% tổng số
vốn đầu tư của các làng nghề), các làng nghề Hà Tây đã huy động nguồn vốn
hỗ trợ từ các chương trình của Nhà Nước. Nguồn vốn này đến với các làng
nghề dưới nhiều hình thức gián tiếp như: Hàng năm tỉnh hỗ trợ kinh phí cho
đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là hệ thống cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường,
trạm ; ngoài ra, các làng nghề còn được tỉnh hỗ trợ vốn từ các chương trình
của Nhà nước như: chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình quốc gia
giải quyết việc làm, hỗ trợ khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn và
làng nghề (tổ chức các lớp truyền nghề, nhân cấy nghề, đào tạo nghề cho
người lao động) Tuy nhiên, nguồn vốn này thường nhỏ, khó tiếp cận và
không thường xuyên, đối tượng trực tiếp hưởng nguồn vốn này chủ yếu là các
làng nghề có hộ nghèo cần giải quyết việc làm, còn đối với những làng nghề
đã phát triển thì vốn này chẳng đáng là bao. Do đó, người dân đã tìm đến
nguồn vốn vay. Vốn vay tin dụng đang trở thành một nguồn vốn qua trọng đối

×