Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Nghiên cứu điều kiện chế tạo và bảo quản Kit chẩn đoán bệnh tiên mao trùng (Trypanosomiasis) ở trâu, bò.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.8 MB, 60 trang )


1
I HC THI NGUYấN
TRNG I HC NễNG LM



V TH CHIấN



Tờn ti:
Nghiên cứu điều kiện chế tạo và bảo quản Kit chẩn đoán bệnh
tiên mao trùng
(Trypanosomiasis)
ở trâu, bò



KhóA LUậN TốT NGHIệP ĐạI HọC



H o to : Chớnh quy
Chuyờn ngnh : Chn nuụi Thỳ y
Lp : K42 - CNTY
Khoa : Chn nuụi Thỳ y
Khoỏ hc : 2010-2014
Ging viờn hng dn: TS. Lờ Minh






Thỏi Nguyờn, nm 2014

2
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập tại trường và sau 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại
cơ sở đến nay em đã hoàn thành bản khóa luận tốt nghiệp này. Qua đây, em
xin cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, Ban chủ
nhiệm Khoa Chăn nuôi Thú y cùng các thầy, cô giáo trong khoa đã tận tình
dìu dắt, giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập tại trường.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS Nguyễn
Thị Kim Lan, TS. Lê Minh Khoa Chăn nuôi Thú y - Đại học Nông lâm Thái
Nguyên, TS. Phạm Thị Tâm Khoa Công nghệ sinh học - Viện Đại học Mở Hà
Nội đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Em
xin cảm ơn tới cô Ths. Phạm Thị Trang đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm Khoa Công nghệ
sinh học - Viện Đại học Mở Hà Nội và các thầy, cô giáo trong khoa đã giúp
đỡ, chỉ bảo và tạo điều kiện giúp đỡ em trong thời gian thực tập tại khoa.
Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn các thầy, cô cùng với gia đình,
bạn bè đã động viên, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để em hoàn thành tốt quá
trình thực tập tốt nghiệp.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 30 tháng 05 năm 2014
Sinh viên


Vũ Thị Chiên




3
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Các hóa chất chính 28
Bảng 3.2: Các máy móc và thiết bị chính 29
Bảng 3.3: Thành phần phản ứng PCR 32
Bảng 4.1. Kết quả xác định mật độ hạt latex và nồng độ kháng nguyên để
tạo phức hợp kháng nguyên - hạt latex 38
Bảng 4.2: Kết quả xác định nhiệt độ và thời gian để tạo phức hợp kháng
nguyên - hạt latex 39
Bảng 4.3: Kết quả phản ứng CATT để xác định độ nhạy và độ đặc hiệu 41
Bảng 4.4: Độ nhạy của Kit CATT theo thời gian và nhiệt độ bảo quản 42
Bảng 4.5: Độ đặc hiệu của Kit CATT theo thời gian và nhiệt độ bảo quản 43
Bảng 4.6. Kết quả xác định độ nhạy, độ đặc hiệu của Kit dạng CATT dựa vào
mẫu máu trâu thu thập trên thực địa 44

4
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1: Nguyên lý của phản ứng ngưng kết dạng CATT 33
Hình 4.1: Đánh giá kết quả sử dụng Kit CATT chẩn đoán bệnh tiên mao
trùng 37
Hình 4.2: Phản ứng so sánh mẫu huyết thanh âm tính (a) và mẫu huyết thanh
dương tính (b) với tiên mao trùng 37
Hình 4.3: Phản ứng ngưng kết kháng nguyên - hạt latex (tỷ lệ pha loãng
kháng nguyên là 1/32, tỷ lệ pha loãng kháng thể là 1/16) 40
Hình 4.4: Phương pháp tiêm truyền chuột bạch 44
Hình 4.5: Tiên mao trùng trong máu chuột sau 3 ngày gây nhiễm 44



5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU

ADN : Acid deoxyribonucleic
CATT : Card Agglutination Test for Trypanosomiasis
Cs : Cộng sự
EDTA : Ethylen Diamin Tetra Acetic
ELISA : Enzyme - Linked ImmunoSorbent Assay
GPBS : Glycine Phosphat Buffered Saline
IFAT : Indirect Fluorescent Antibody Test
IPTG : Isopropyl β - D - thiogalactoside
KHKT : Khoa học kỹ thuật
MSC : Màng sinh chất
NXB : Nhà xuất bản
PBS : Phosphat Buffered Saline
RNA : Ribonucleic acid
SDS : Sodium Dodecyl Sulfat
Se : Sensitivity
Sp : Specificity
TEA : Tris - axit acetic - EDTA
TMT : Tiên mao trùng
TT : Thể trọng
VAT : Variant Antigen Tupe

VSG : Variant Surface Glucoprotein


6

MỤC LỤC
Trang
Phần 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài 2
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 2
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 2
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Những hiểu biết về tiên mao trùng và bệnh tiên mao trùng ở gia súc 3
2.1.1. Đặc điểm hình thái, cấu trúc và phân loại tiên mao trùng 3
2.1.2. Đặc điểm dịch tễ học tiên mao trùng 5
2.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng 8
2.1.4. Phương pháp chẩn đoán bệnh 11
2.1.5. Phòng và trị bệnh tiên mao trùng trên gia súc 17
2.2. Những hiểu biết về Kit chẩn đoán bệnh tiên mao trùng 20
2.2.1. Kháng nguyên RoTAT 1.2 của Trypanosoma evansi 20
2.2.2. Tách dòng gen mã hóa kháng nguyên bề mặt của Trypanosoma evansi 21
2.2.3. Biểu hiện gen mã hóa kháng nguyên bề mặt của Trypanosoma evansi 22
2.3. Tình hình nghiên cứu về tiên mao trùng 23
2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 23
2.3.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 25
Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28
3.1. Đối tượng, hóa chất và thiết bị nghiên cứu 28
3.1.1.Đối tượng nghiên cứu 28
3.1.2. Hóa chất và thiết bị nghiên cứu 28
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 29
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 29
3.2.2. Thời gian nghiên cứu 29
3.3. Nội dung nghiên cứu 30

3.3.1. Xác định điều kiện chế tạo Kit theo nguyên lý CATT chẩn đoán bệnh
tiên mao trùng từ kháng nguyên tái tổ hợp RoTAT 1.2 30
3.3.2. Xác định điều kiện bảo quản Kit theo nguyên lý CATT chẩn đoán
bệnh tiên mao trùng từ kháng nguyên tái tổ hợp RoTAT 1.2 30

7
3.3.3. Thử nghiệm Kit chế tạo từ kháng nguyên tái tổ hợp RoTAT 1.2 để
chẩn đoán bệnh tiên mao trùng cho trâu, bò. 30
3.4. Phương pháp nghiên cứu 30
3.4.1. Phương pháp ELISA 30
3.4.2. Phương pháp PCR 31
3.4.3. Phương pháp gắn kháng nguyên lên hạt latex 32
3.4.4. Phản ứng ngưng kết CATT 33
3.4.5. Phương pháp tách huyết thanh 33
3.4.6. Phương pháp xác định điều kiện bảo quản Kit theo nguyên lý CATT
chẩn đoán bệnh tiên mao trùng từ kháng nguyên tái tổ hợp RoTAT 1.2 34
3.4.7. Phương pháp thử nghiệm Kit chế tạo theo nguyên lý CATT chẩn
đoán bệnh tiên mao trùng từ kháng nguyên tái tổ hợp RoTAT 1.2 34
3.4.8. Phương pháp xử lý số liệu 35
Phần 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 36
4.1. Kết quả xác định các điều kiện sản xuất Kit chẩn đoán huyết thanh
học từ kháng nguyên tái tổ hợp RoTAT 1.2 36
4.1.1. Xác định các điều kiện gắn kháng nguyên - hạt latex 36
4.1.2. Kết quả xác định nhiệt độ và thời gian để tạo phức hợp kháng
nguyên - hạt latex 39
4.1.3. Đánh giá hiệu quả chẩn đoán của phản ứng CATT 40
4.2. Nghiên cứu điều kiện bảo quản Kit 41
4.3. Kết quả thử nghiệm Kit chế tạo từ kháng nguyên tái tổ hợp RoTAT 1.2
theo nguyên lý CATT chẩn đoán bệnh tiên mao trùng 43
Phần 5: KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ 46

5.1. Kết luận 46
5.2. Tồn tại 47
5.3. Đề nghị 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO 48




1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Bệnh tiên mao trùng hay còn gọi là bệnh ngã nước ở trâu, bò do
Trypanosoma evansi (T. evansi) gây ra. Theo số liệu của Phạm Sỹ Lăng
(1982) [10], Phan Địch Lân (2004) [13], Phan Văn Chinh (2006) [2], bệnh
tiên mao trùng xuất hiện ở nhiều vùng trên cả nước, với tỷ lệ mắc khá cao:
trên trâu là 13 - 30%, trên bò là 7 - 14%, trong đó tỷ lệ gia súc chết/gia súc
mắc lên tới 6,3 - 20%. Bệnh gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi do ảnh
hưởng đến sản lượng thịt và sức kéo. Vì vậy, công tác chẩn đoán bệnh rất
quan trọng, nhằm xác định đúng nguyên nhân gây bệnh để từ đó có biện pháp
phòng và trị bệnh phù hợp, hiệu quả.
Trong hệ thống các phương pháp chẩn đoán bệnh tiên mao trùng hiện
nay ở nước ta có nhiều phương pháp đang được áp dụng như: phương pháp
chẩn đoán truyền thống, phương pháp chẩn đoán huyết thanh học, phương
pháp chẩn đoán sinh học phân tử thì phương pháp chẩn đoán huyết thanh học
được đánh giá là có độ nhạy và độ đặc hiệu cao, cho kết quả nhanh và có khả
năng chẩn đoán với số lượng mẫu lớn trong thời gian ngắn; độ đặc hiệu của
CATT/ T. evansi đạt 98%, ELISA/ T. evansi đạt 95% và LATEX/ T. evansi
đạt 82% (Verloo D. và cs, 2000 [42]). Ưu điểm của các phương pháp này là
cho kết quả chẩn đoán nhanh, số lượng mẫu lớn.

Theo nghiên cứu của Bajyana Songa và Hamers (1988) [28], kháng
nguyên RoTAT 1.2 là kháng nguyên bề mặt chính của T. evansi, nó xuất hiện
sớm ngay sau khi ký sinh trùng xuất hiện đồng thời không gây phản ứng chéo
với kháng thể đặc hiệu của các loài ký sinh trùng khác. Trên cơ sở sử dụng
kháng nguyên tái tổ hợp RoTAT 1.2 để xây dựng quy trình sản xuất Kit chẩn
đoán bệnh tiên mao trùng do Trypanosoma evansi gây ra. Ở Việt Nam, vấn đề
sản xuất Kit huyết thanh học chẩn đoán bệnh tiên mao trùng còn khá mới mẻ,
chúng ta vẫn phải sử dụng Kit nhập ngoại nên giá thành cao, chưa có khả
năng cho phép sử dụng rộng rãi để chẩn đoán bệnh. Vì vậy, để đáp ứng yêu
cầu chẩn đoán nhanh, với số lượng mẫu lớn trong thời gian ngắn, chúng tôi

2
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu điều kiện chế tạo và bảo quản Kit chẩn
đoán bệnh tiên mao trùng (Trypanosomiasis) ở trâu, bò”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định được điều kiện thiết lập Kit chẩn đoán bệnh tiên mao trùng
(Trypanosomiasis) ở trâu, bò.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về các điều kiện thích
hợp để chế tạo và bảo quản Kit chẩn đoán bệnh tiên mao trùng
(Trypanosomiasis) ở trâu, bò hiệu quả.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để hoàn thiện quy trình sản xuất
Kit chẩn đoán bệnh tiên mao trùng (Trypanosomiasis) ở trâu, bò từ kháng
nguyên tái tổ hợp.








3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Những hiểu biết về tiên mao trùng và bệnh tiên mao trùng ở gia súc
Bệnh tiên mao trùng được Blanchard (1888) phát hiện đầu tiên ở Việt
Nam. Sau đó, bệnh được xác định là phổ biến ở hầu hết các tỉnh, thành trong
cả nước. Bệnh do loài tiên mao trùng Trypanosoma evansi gây ra. Trâu, bò,
ngựa mắc bệnh dễ chết hoặc thiếu máu, suy nhược, giảm hoặc mất khả năng
sinh sản và sức sản xuất.
2.1.1. Đặc điểm hình thái, cấu trúc và phân loại tiên mao trùng
2.1.1.1. Vị trí của tiên mao trùng Trypanosoma evansi trong hệ thống phân
loại động vật học
Theo Levine và cs (1980) (dẫn theo Lương Văn Huấn và cs, 1997 [6]), vị
trí của tiên mao trùng trong hệ thống phân loại nguyên bào (Protozoa) như sau:
Ngành Sarcomastigophora
Phân ngành Mastigophora
Lớp Zoomastigophorasida
Bộ Kinetoplastorida
Họ Trypanosomatidae, Donein, 1901
Giống Trypanosoma Gruby, 1843
Giống phụ Megatrypanum Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (M) theileria
Giống phụ Herpetosoma Donein, 1901
Loài Trypanosoma (H) leisi
Giống phụ Schizotrypanum Chagas, 1909
Loài Trypanosoma (S) cruzi
Giống phụ Duttonella Chalmers, 1918

Loài Trypanosoma (D) vivax
Loài Trypanosoma (D) uniform
Giống phụ Nalmomonas Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (N) Congolense
Loài Trypanosoma (N) Siminae

4
Loài Trypanosoma (N) Vanhogi
Giống phụ Trypanozoon Liihe, 1906
Loài Trypanosoma (T) brucei
Loài Trypanosoma (T) gambience
Loài Trypanosoma (T) rhodesiense
Loài Trypanosoma (T) equiperdum
Giống phụ Pycnomonas Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (P) suis
Giống phụ Trypanosoma Gruby, 1843
Loài Trypanosoma evansi (Stell, 1885)
Trong các loài tiên mao trùng trên, có 7 loài được tổ chức quốc tế (OIE)
thông báo là có khả năng gây bệnh cho người và động vật có vú, đó là các loài:
T. brucei, T. congolense, T. cruzi, T. evansi, T. gambiense, T. siminae, T. vivax.
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của Trypanosoma evansi
Tiên mao trùng T. evansi được xếp vào loại đơn hình thái, cơ thể chỉ là
một tế bào, có kích thước nhỏ, chiều dài từ 18 - 34 µm (trung bình là 25 µm),
chiều rộng từ 1,5 - 2 µm. Cơ thể trong suốt, hình chỉ mảnh hoặc hình thoi,
cuối thân nhọn. Nhìn chung, cấu trúc cơ bản của T. evansi cũng giống như
cấu trúc của các loài tiên mao trùng khác thuộc họ Trypanosonatidae. Cấu
trúc từ bên ngoài vào bên trong được chia thành 3 phần chính
:
- Vỏ: ngoài cùng là lớp vỏ dày 10 - 15 nm, vỏ được chia làm 3 lớp (lớp
ngoài và lớp trong cùng tiếp giáp với nguyên sinh chất dầy hơn lớp giữa). Lớp

vỏ ngoài cùng được cấu tạo từ các phân tử glycoprotein luôn biến đổi (Vanant
Glycoprotein Surface - VGS). Tiếp giáp với lớp trong cùng là 9 cặp vi ống
xếp song song dọc theo chiều dài thân tiên mao trùng. Chính nhờ sự sắp xếp
của các cặp vi ống nên tiên mao trùng có dạng hình suốt chỉ mảnh (Hoare,
1972 [34]; Phạm Sỹ Lăng, 1982 [10]; Nguyễn Quốc Doanh, 1999 [5]).
- Nguyên sinh chất: gồm lớp trong và lớp ngoài. Trong nguyên sinh
chất có chứa các nội quan: ribosome có màu thẫm xen kẽ vùng không bào
màu sáng, kinetoplast (thể cơ động), mitochrondno, reticulum (lưới nội bào)
và mạng lưới golgi.

5
- Nhân: nhân tiên mao trùng có chứa ADN, hình bầu dục hoặc hình
trứng. Nhân thường nằm ở vị trí trung tâm hoặc gần vị trí trung tâm cơ thể.
Ngoài nhân, về phía cuối thân còn có thể kinetoplast chứa ADN. Từ kinetoplast
có một roi chạy vòng quanh thân lên đầu và ra phía ngoài cơ thể thành một roi
tự do. Roi của tiên mao trùng có lớp vỏ ngoài cùng giống lớp vỏ của thân.
Trong roi có 9 cặp vi ống ở xung quanh và một cặp ở trung tâm, xếp song song
dọc chiều dài roi (Hoare, 1972 [34]; Nguyễn Quốc Doanh, 1999 [5]).
2.1.2. Đặc điểm dịch tễ học tiên mao trùng
2.1.2.1. Phân bố của bệnh
Bệnh tiên mao trùng phân bố rất rộng, từ phía Tây sang phía Đông bán
cầu. Phía Tây bán cầu thuộc châu Mỹ, phía Đông bán cầu trải dài từ châu Phi
cho đến Philippine.
Ở Việt Nam, bệnh tiên mao trùng thấy ở hầu hết các vùng sinh thái
khác nhau: miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển. Theo Phạm Sỹ Lăng
(1982) [10], bệnh tiên mao trùng có ở tất cả các tỉnh miền Bắc (Bắc Kạn,
Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hà Tây). Trâu, bò nhiễm
bệnh với tỷ lệ cao và thay đổi giữa các vùng khác nhau (trâu, bò ở đồng bằng
nhiễm tiên mao trùng cao hơn vùng trung du và miền núi, đặc biệt ở trâu, bò
có nguồn gốc từ miền núi chuyển xuống vùng đồng bằng).

Lê Ngọc Mỹ (1994) [16] đã điều tra tình hình nhiễm tiên mao trùng ở
trâu, bò Việt Nam. Kết quả cho thấy, trâu, bò nhiễm tiên mao trùng với tỷ lệ
cao (21,27%), trong khi đó trâu, bò nuôi ở các tỉnh miền núi phía Bắc nhiễm
T. evansi cao hơn ở đồng bằng.
Theo Lê Đức Quyết và cs (1995) [21], Phạm Chiến và cs (1999) [1],
trâu ở một số tỉnh miền Nam và Tây Nguyên nhiễm tiên mao trùng là 22,12%;
bò là 6,6 - 10,3%.
Phan Lục và cs (1996) [14] cho biết, tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng của bò
ở một số địa phương miền Bắc là 5,9%.
Theo Hà Viết Lượng (1998) [15], tỷ lệ bò nhiễm tiên mao trùng ở các
tỉnh miền Trung là 8,99%.

6
2.1.2.2. Vật chủ và vật môi giới truyền bệnh tiên mao trùng
Trong tự nhiên, tiên mao trùng ký sinh ở hầu hết các loài thú nuôi và
thú hoang, thấy nhiều hơn ở trâu, bò, ngựa, trâu bò rừng, hươu, nai, hổ, báo,
sư tử, chó, mèo, lạc đà, voi, thỏ, chuột cống, chuột lang, chuột bạch , nhưng
không ký sinh ở người.
Chen Qijun (1992) [30] cho biết: T. evansi gây bệnh cho hầu hết các
loài động vật như trâu, bò, ngựa, la, chó… ở Trung Quốc.
Theo Sukanto I. P (1992) [44] cho biết: tỷ lệ lưu hành bệnh tiên mao trùng
ở trâu Indonesia cao hơn ở bò và tỷ lệ lưu hành bệnh ở bò lại cao hơn ở ngựa.
Sự lây truyền tiên mao trùng từ trâu, bò ốm sang trâu, bò khoẻ là nhờ
các loài ruồi hút máu (thuộc họ phụ Stomoxydinae) và các loài mòng hút máu
(thuộc họ Tabanidae). Ruồi và mòng hút máu của gia súc bị bệnh, hút luôn cả
tiên mao trùng vào vòi hút, sau đó lại hút máu gia súc khoẻ, trong khi hút máu
sẽ truyền tiên mao trùng từ vòi hút vào máu con vật khoẻ. Sự lây truyền này
mang tính chất cơ học. Như vậy, ruồi và mòng hút máu là những vật môi giới
truyền bệnh tiên mao trùng quan trọng.
Hình thái tiên mao trùng khi ở trong vòi ruồi, mòng biến đổi theo thời gian:

từ 1 -34 giờ có hình thái, kích thước bình thường; 35 - 45 giờ: tiên mao trùng có
hình dạng thay đổi, tăng kích thước chiều rộng và thô dần; 46 - 53 giờ: tiên mao
trùng trương to, duỗi thẳng, mất khả năng di động và ngừng hẳn hoạt động.
Thực nghiệm đã chứng minh khả năng gây bệnh của tiên mao trùng sau
khi xâm nhập vào mòng Tabanus rubidus như sau: Thời gian từ giờ thứ 1 đến
thứ 5, tiên mao trùng có khả năng gây bệnh và làm chết chuột bạch tương tự
như khi truyền thẳng máu có tiên mao trùng cho chuột; từ giờ thứ 6 đến thứ 7
chỉ còn 30% số chuột thí nghiệm phát bệnh, thời gian gây bệnh kéo dài và
thời gian chết của chuột cũng dài. Điều này có thể giải thích là do độc lực của
tiên mao trùng giảm dần và số lượng tiên mao trùng còn hoạt lực gây bệnh
cũng giảm dần sau khi chúng xâm nhập vào mòng Tabanus rubidus.
2.1.2.3. Tuổi vật chủ, mùa mắc bệnh
Trâu, bò và các loài gia súc khác ở mọi lứa tuổi đều nhiễm tiên mao
trùng và đều phát bệnh, có thể dẫn đến tử vong hoặc suy nhược, thiếu máu,

7
giảm sức đề kháng, giảm khả năng sinh đẻ và sức sản xuất.
Phan Địch Lân (2004) [13] đã tổng hợp kết quả điều tra 3172 trâu ở các
tỉnh đồng bằng: trâu dưới 3 năm tuổi nhiễm thấp nhất (3,2 - 6,1%), trâu 3 - 5
tuổi nhiễm cao hơn (10,6 - 12,7%), trâu 6 - 8 tuổi nhiễm cao nhất (12,9 -
14,8%), trâu trên 9 năm tuổi tỷ lệ nhiễm thấp hơn trâu 3 - 8 năm tuổi.
Theo Phan Văn Chinh (2006) [2], tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng cao nhất ở
4 - 8 năm tuổi (trâu: 12,71%; bò: 5,77%), thấp nhất là trâu, bò dưới 3 năm
tuổi (6,92% và 2,31%).
Mùa lây lan bệnh thường xảy ra nhiều nhất trong các tháng nóng ẩm,
mưa nhiều (từ tháng 4 - 9). Vì vào khoảng thời gian này, các điều kiện sinh
thái rất thuận lợi cho các loài ruồi, mòng phát triển.
Theo Luckins (1988) [37], sự xuất hiện lượng lớn ruồi, mòng trong
mùa mưa nóng ẩm luôn có liên quan đến tình hình dịch tễ bệnh tiên mao trùng
ở trâu, bò, dê, lạc đà. Từ cuối mùa thu, mùa đông và đầu mùa xuân, trâu bò

nhiễm tiên mao trùng phải sống trong trong điều kiện thời tiết lạnh, thiếu thức
ăn nên sức đề kháng giảm, bệnh thường phát ra vào thời gian này và trâu bò
bị đổ ngã hàng loạt.
2.1.2.4. Cơ chế sinh bệnh T. evansi
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [8], khi vào máu của vật chủ
thì tiên mao trùng sẽ sinh sản bằng cánh phân đôi theo chiều dọc nhiều lần, số
lượng tăng lớn, gây tắc mạch máu. Độc tố của tiên mao trùng vào, làm cho
con vật trúng độc (độc tố gồm chất độc tiết ra của tiên mao trùng, xác của
chúng bị tan ra, những sản phẩm của quá trình trao đổi chất). Độc tố làm rối
loạn chức năng điều hòa nhiệt gây sốt. Tiên mao trùng còn ngăn chức năng
tạo hồng huyết cầu của lách, tủy xương, làm lượng hồng cầu giảm sút nhiều,
máu nhạt, loãng chất đỏ trong máu (huyết sắc tố) biến thành chất vàng của
mật (đảm sắc tố) ngấm vào cơ thể làm niêm mạc vàng.
Tiên mao trùng sinh sản nhiều còn làm tắc các mạch máu nhỏ, do các
niêm mạc bị tụ máu, sinh chất màu dưới niêm mạc. Do tiên mao trùng làm tổn
thương vách mạch huyết, huyết dịch xuất ra ngoài nhiều sinh thủy thũng, dần
dần máu chảy xuống vùng thấp. Huyết dịch đông lại, một phần tổ chức biến

8
thành mỡ nên thủy thũng chứa chất đặc như keo. Do hệ thần kinh bị trúng
độc, con vật ốm, phát ra những triệu chứng thần kinh: run tẩy, bại liệt, cứng
chân, làm trâu bò điên cuồng trước khi chết. Chất độc của tiên mao trùng còn
ảnh hưởng đến gan của con vật, làm chức năng dự trữ đường của gan giảm,
trong khi cơ thể vẫn sử dụng đường, ký sinh trùng cũng tiêu hao đường nên
lượng đường trong máu giảm sút. Hồng cầu giảm sút, máu thiếu huyết sắc tố,
vì vậy axit tích lại trong máu gây nhiễm độc.
2.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng
2.1.3.1. Đặc điểm bệnh lý
Khi ruồi trâu, mòng đốt, hút máu và truyền tiên mao trùng vào trâu, bò,
ngựa, tiên mao trùng xâm nhập vào da, gây ra vết viêm trên mặt da. Theo đó

có thể quan sát được phản ứng viêm ở da của thỏ, cừu, dê và bò gây nhiễm
tiên mao trùng được tiêm truyền (ước chừng khoảng 10
8
tiên mao trùng có thể
gây viêm da - ở vị trí tiêm truyền), một số lượng lớn tiên mao trùng phát triển
ở chỗ viêm này.
Vào máu, tiên mao trùng nhân lên theo cấp số nhân ở trong máu, trong
bạch huyết và trong các mô khác của cơ thể vật chủ theo cách phân chia theo
chiều dọc. Số lượng tiên mao trùng trong máu không phải lúc nào cũng như
nhau. Mật độ tiên mao trùng thay đổi theo ngày. Biểu đồ sóng của tiên mao
trùng cho thấy, xen kẽ giữa những sóng tiên mao trùng mạnh là những đợt
sóng yếu. Mỗi đợt sóng tiên mao trùng bắt đầu bằng sự tăng số lượng tiên
mao trùng trong máu, sau đó giảm và khó phát hiện thấy tiên mao trùng. Mỗi
đợt tiên mao trùng tăng lên trong máu là biểu hiện sự xuất hiện một quần thể
tiên mao trùng có tính kháng nguyên bề mặt mới, quần thể này có thể tiếp tục
sinh sản và tồn tại một thời gian cho đến khi cơ thể xuất hiện kháng thể đặc
hiệu với chúng.
Tiên mao trùng phát triển nhanh trong máu, tiêu thụ Glucose và các
chất đạm, chất béo và khoáng chất trong máu ký chủ bằng phương thức thẩm
thấu qua bề mặt cơ thể để duy trì hoạt động và sinh sản. Ở súc vật bị bệnh,
trong 1ml máu có thể có 10000 - 30000 tiên mao trùng. Với số lượng nhiều
như vậy, tiên mao trùng chiếm đoạt rất nhiều chất dinh dưỡng, làm cho súc

9
vật bệnh gầy còm, thiếu máu và mất dần khả năng sản xuất sữa, thịt, khả năng
sinh sản và giảm sức đề kháng đối với các bệnh khác.
Sống trong máu vật chủ, tiên mao trùng còn tạo ra các độc tố
Trypanotoxin, độc tố này gồm: độc tố do tiên mao trùng tiết ra qua màng thân
trong quá trình sống và độc tố do xác chết của tiên mao trùng phân hủy trong
máu sau 15 - 30 ngày. Độc tố của tiên mao trùng tác động lên hệ thần kinh

trung ương làm rối loạn trung khu điều hoà thân nhiệt, gây sốt cao và gián đoạn
(lúc sốt, lúc hết sốt xen kẽ nhau). Khi sốt thường có rối loạn về thần kinh (kêu
rống, run rẩy, ngã vật xuống). Độc tố cũng phá huỷ hồng cầu, ức chế cơ quan
tạo máu làm cho vật chủ thiếu máu và suy nhược dần. Độc tố còn tác động tới
bộ máy tiêu hoá, gây rối loạn tiêu hoá, làm con vật ỉa chảy. Hội chứng tiêu
chảy thường xảy ra khi xuất hiện tiên mao trùng trong máu con vật bệnh.
Khi tăng lên với số lượng lớn trong máu, tiên mao trùng còn làm tắc
các mao mạch, làm tăng tính thấm thành mạch, dần dần tạo ra các ổ thuỷ
thũng chất keo vàng dưới da.
2.1.3.2. Triệu chứng lâm sàng của bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò, ngựa
* Ở trâu, bò:
Trâu, bò bị bệnh thể hiện các triệu chứng lâm sàng chủ yếu như sau:
- Sốt cao và gián đoạn: sau 14 - 30 ngày bị ruồi, mòng hút máu truyền
tiên mao trùng, trâu bò thường đột ngột lên cơn sốt (40ºC - 41,7ºC) kéo dài 2
- 4 ngày rồi giảm, thời gian sau nhiệt độ lại tăng lên. Thời gian gián đoạn giữa
hai cơn sốt dài hay ngắn tuỳ theo thể trọng con vật. Khi sốt, kiểm tra máu
thường thấy tiên mao trùng.
- Hội chứng thần kinh: ở một số trâu, bò khi lên cơn sốt còn thể hiện
hội chứng thần kinh như điên loạn, mắt đỏ ngầu, húc đầu vào tường, chạy
vòng quanh kêu rống lên. Trường hợp nhẹ thấy run rẩy từng cơn, mắt trợn
ngược rồi đổ ngã vật xuống, sùi bọt mép giống như trâu bị cảm nắng. Sau 20 -
30 phút con vật đứng dậy đi lại được. Những trâu bò mắc bệnh có triệu chứng
lâm sàng như trên thường là mắc bệnh ở thể cấp tính.
Trâu, bò bị bệnh mãn tính thường kéo dài, cơ thể suy yếu, liệt hai chân
sau, nằm tư thế quỳ và không đi lại được. Mặc dù nằm liệt nhưng vẫn ăn và

10
nhai lại cho đến khi sắp chết.
- Phù thũng dưới da: phù thũng thường thấy ở vùng thấp của cơ thể như
ở bốn chân (từ khớp khuỷu trở xuống), phần yếm, ngực, bộ phận sinh dục.

- Viêm giác mạc và kết mạc mắt: triệu chứng này thấy ở hầu hết trâu,
bò bệnh. Mắt có dử trắng hay vàng, chảy liên tục, nếu nặng thì mắt sưng đỏ
ngầu. Khi khỏi bệnh, mắt có màng trắng (củi nhãn) kéo che kín giác mạc.
- Hội chứng tiêu hoá: một số trâu, bò bệnh bị ỉa chảy nặng, phân lỏng,
màu vàng, sau chuyển màu xám, có lẫn bọt và chất nhầy. Các đợt ỉa chảy tiếp
theo những cơn sốt cách quãng. Ỉa chảy trong bệnh tiên mao trùng thường dai
dẳng và con vật vẫn ăn được.
- Gầy yếu, suy nhược: ở thể cấp tính trâu, bò gầy sút nhanh , chỉ sau 7 - 14
ngày từ khi phát bệnh con vật đã gầy rộc, mắt trũng sâu. Nếu bệnh kéo dài thì
con vật gầy xơ xác, lông dựng ngược, da khô nhăn nheo, niêm mạc mắt nhợt
nhạt, lông dễ rụng, dần dần suy nhược cơ thể nặng, mất khả năng cày kéo và
sinh sản. Nếu gặp điều kiện bất lợi như thiếu ăn, rét mướt thì trâu, bò dễ chết.
Trong thực tế, có khoảng 3% trâu bệnh ở thể ẩn vẫn béo khoẻ, làm việc bình
thường khi được chăm sóc nuôi dưỡng tốt.
Tình trạng thiếu máu thể hiện rõ trong bệnh do T. evansi gây ra. Số
lượng hồng cầu và hàm lượng huyết sắc tố giảm, số lượng bạch cầu tăng,
thành phần bạch cầu thay đổi: bạch cầu lympho, bạch cầu ái toan tăng nhưng
bạch cầu trung tính giảm, protein tổng số và Albumin giảm rõ rệt.
Phạm Sỹ Lăng và cs (1984) [11] cho biết, khi protein tổng số và Albumin
giảm thì các thành phần α, β và γ globulin đều tăng, chỉ số A/G < 0,5.
* Ở ngựa
Sau khi ruồi, mòng hút máu và truyền T. evansi, ngựa phát bệnh sau 1 -
2 tuần. Triệu chứng rõ nhất là ngựa sốt 40ºC - 41ºC, sốt gián đoạn, khi sốt có
tiên mao trùng ở máu ngoại vi. Khi bị bệnh nặng, ngựa thường sốt cao đột
ngột, các triệu chứng khác chưa kịp thể hiện thì con vật đã lăn lộn điên cuồng
rồi chết. Thể bệnh cấp tính diễn ra khoảng 1 - 3 tuần, thể mãn tính kéo dài 2 -
4 tháng (tuy nhiên, thể mãn tính thường ít gặp).
Hiện tượng thuỷ thũng xuất hiện ở vùng thấp của cơ thể (ngực, bụng,

11

âm hộ, vú) sau 1 - 2 tuần kể từ khi phát bệnh. Ngựa đi đứng xiêu vẹo, gầy sút
rất nhanh, ăn kém, da khô, lông dựng, bốn chân run rẩy, hay nằm, dần dần liệt
chân, nằm một chỗ rồi chết.
2.1.3.3. Bệnh tích của bệnh tiên mao trùng
Trâu, bò bị bệnh tiên mao trùng khi chết gầy xơ xác, mổ khám thấy có
những biến đổi bệnh tích đại thể rõ rệt ở hệ tuần hoàn và hô hấp: tim nhão,
xoang bao tim tích nước vàng; phổi xung huyết và tụ máu từng đám nhỏ; gan
sưng to, nhạt màu; lách sưng, mềm nhũn và nhạt màu; hạch lâm ba sưng và có
tụ máu trong hạch; cơ nhão, màu nhợt nhạt, nhát cắt rỉ nước; xoang ngực và
xoang bụng tích dịch màu vàng nhạt; có những đám keo nhầy vàng dưới vùng
da thuỷ thũng.
2.1.4. Phương pháp chẩn đoán bệnh
2.1.4.1. Chẩn đoán lâm sàng
Các biểu hiện lâm sàng đặc trưng của bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò,
ngựa không phải lúc nào cũng phát hiện được. Rất nhiều gia súc mang bệnh
nhưng khó phát hiện các triệu chứng đặc trưng, nhất là đối với những gia súc
mắc bệnh tiên mao trùng ở thể mãn tính. Đối với gia súc mắc bệnh ở thể cấp
tính, các biểu hiện bệnh đặc trưng là sốt cao, bỏ ăn, có triệu chứng thần kinh
(điên loạn) và chết nhanh. Trâu bị bệnh mãn tính có thể thấy triệu chứng: sốt
gián đoạn, gầy còm, thiếu máu kéo dài, viêm giác mạc, phù thũng ở bụng và
chân sau, chết do kiệt sức (Phạm Sỹ Lăng, 1982 [10]). Triệu chứng sảy thai
có thể thấy ở trâu, bò bị bệnh tiên mao trùng (Nguyễn Đăng Khải, 1995 [7]).
2.1.4.2. Chẩn đoán thí nghiệm
Có nhiều phương pháp chẩn đoán tiên mao trùng trong phòng thí
nghiệm, mục đích là phát hiện tiên mao trùng trong máu gia súc. Tùy từng
trường hợp bệnh, tuỳ điều kiện mà có thể làm cùng lúc một số phương pháp
hoặc lựa chọn một phương pháp phù hợp và có độ chính xác cao.
* Phương pháp phát hiện tiên mao trùng trực tiếp:
Muốn phát hiện tiên mao trùng trực tiếp, có thể áp dụng những phương
pháp sau:

- Soi tươi tiên mao trùng (Direct smear):

12
Khi bệnh súc sốt, T. evansi thường xuất hiện trong mao quản ngoại vi;
vì vậy, nên lấy máu vùng ngoại vi để soi tươi. Cho 1 giọt máu nhỏ lên phiến
kính đã có sẵn 1 giọt EDTA 1%; dùng góc của lamen khuấy đều, đậy tấm la
men lên để máu dàn theo la men thành một lớp mỏng. Soi dưới kính hiển vi
(độ phóng đại 10 x 10 và 10 x 20) để phát hiện tiên mao trùng sống.
- Nhuộm Giemsa tiêu bản máu khô (Romanovsky)
+ Phương pháp giọt dầy: Đặt 1 giọt máu to vào giữa phiến kính, dùng
một góc của đầu một phiến kính khác ria tròn giọt máu với đường kính
khoảng 1 - 1,25 cm. Để khô tự nhiên trong khoảng 1 giờ, rồi cố định bằng cồn
Methanol, nhuộm Giemsa [1 giọt Giemsa + 1 ml dung dịch PBS (Phosphat
Buffered Saline), pH = 7,2] trong 25 phút. Rửa tiêu bản dưới vòi nước chảy
mạnh, để khô rồi soi dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 100 hoặc 10 x 90).
Phương pháp này có nhược điểm là dễ làm tổn thương tiên mao trùng,
do đó khó phân biệt được các loài khác nhau trong trường hợp nhiễm nhiều
loài tiên mao trùng cùng một lúc.
+ Phương pháp giọt mỏng: Đặt 1 giọt máu cách 1 đầu phiến kính 2 cm,
dùng la men ria máu thành một lớp mỏng. Để khô, cố định bằng cồn
Methanol trong 2 phút. Nhuộm Giemsa trong 25 phút (l giọt Giemsa + 1 ml
dung dịch PBS pH = 7,2). Rửa tiêu bản dưới vòi nước chảy mạnh, để khô, soi
dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 100 hoặc 10 x 90).
Ưu điểm của phương pháp giọt mỏng là có thể phân biệt được hình thái
các loài tiên mao trùng khác nhau.
+ Phương pháp làm tan hồng cầu: dung dịch SDS (Sodium Dodecyl
Sulfat) là chất làm tan hồng cầu. Nhờ dung dịch SDS, tiên mao trùng dễ dàng
được phát hiện trong máu. Dung dịch SDS rất độc nên tránh tiếp xúc với da
và tránh hút bằng pipet. Dung dịch SDS dễ bảo quản ở nhiệt độ thường trong
nhiều tháng.

* Phương pháp tập trung tiên mao trùng:
Người ta đã sử dụng phương pháp ly tâm tập trung tiên mao trùng bằng
ống Haematocrit hoặc tách tiên mao trùng bằng gen DEAE - cellulose.
- Phương pháp ly tâm tập trung bằng ống Haematocrit (WOO, 1971):

13
cho máu động vật nghi mắc bệnh vào ống Haematocrit, một đầu ống được bịt
kín bằng chất dẻo matit, một đầu ống để hở. Ly âm với tốc độ 14000
vòng/phút trong 5 phút. Sau đó kiểm tra sự tập trung của tiên mao trùng tại vị
trí tiếp giáp giữa huyết tương và hồng cầu (độ phóng đại 10 x 10).
Phương pháp này đơn giản, phát hiện tiên mao trùng tốt hơn phương
pháp xem tươi và nhuộm Giemsa. Song, tỷ lệ phát hiện chưa cao.
Với ống Haematocrit trên, có thể thực hiện phương pháp Darkground:
dùng cưa y tế cắt ống ở vị trí tiên mao trùng tập trung (ranh giới giữa huyết
tương và hồng cầu), nhỏ 1 giọt huyết tương lên phiến kính, đậy la men và
kiểm tra dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 40).
* Phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm:
Đây là phương pháp phổ biến, hiệu quả, chính xác và thường được ứng
dụng nhiều để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở Việt Nam. Phương pháp này
có ưu điểm là chính xác, do trực tiếp phát hiện thấy tiên mao trùng sau khi
nhân chúng lên trong động vật thí nghiệm mẫn cảm. Song, nhược điểm của
phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm là khi cần chẩn đoán nhanh, với
số lượng nhiều và thời gian ngắn thì phương pháp này không thể đáp ứng
được (Lê Ngọc Mỹ, 1994 [16]; Đoàn Văn Phúc, 1994 [19]).
* Phương pháp chẩn đoán huyết thanh học:
Bằng phương pháp huyết thanh học, có thể phát hiện kháng thể hoặc kháng
nguyên tiên mao trùng. Đây là các phương pháp huyết thanh học đặc hiệu.
- Các phương pháp phát hiện kháng thể kháng tiên mao trùng
Khi tiên mao trùng ký sinh, cơ thể vật chủ sinh ra kháng thể đặc hiệu
chống lại tiên mao trùng. Những phương pháp sau cho phép phát hiện kháng

thể kháng tiên mao trùng trong máu vật chủ:
+ Ngưng kết trên phiến kính (SAT: Slice Agglutination Test): hoà tan 1
giọt huyết thanh gia súc nghi mắc bệnh vào 1 giọt nước muối sinh lý trên
phiến kính, sau đó cho 1 giọt máu chuột bạch có nhiều tiên mao trùng vào,
trộn đều, đậy la men và soi dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 20 hoặc 10 x
40). Nếu thấy ngưng kết hình hoa cúc là (+) và ngược lại là (-). Phương pháp
này đơn giản, dễ làm và có thể áp dụng trên diện rộng.

14
+ Ngưng kết hạt LATEX (Latex Agglutination Test)
Ngưng kết hạt LATEX là phương pháp được dùng để phát hiện kháng
thể lưu động có trong máu của gia súc mắc bệnh tiên mao trùng.
Nguyên lý: khi kháng nguyên bề mặt T. evansi gắn lên các hạt latex kết
hợp với kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng ở trên bản nhựa, thì sẽ xảy ra
phản ứng ngưng kết giữa kháng nguyên với kháng thể. Hiện tượng ngưng kết có
thể quan sát được bằng mắt thường, và được giải thích là do kháng nguyên bề
mặt tiên mao trùng được gắn lên các hạt latex là loại kháng nguyên hữu hình, có
nhiều điểm quyết định tính kháng nguyên bề mặt (epitop surface). Còn kháng thể
đặc hiệu kháng tiên mao trùng lại có nhiều điểm thụ thể (receptor) tương ứng,
đặc hiệu với các điểm quyết định của kháng nguyên. Do đó, khi kháng nguyên
tiên mao trùng gặp kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng, sẽ có hiện tượng
một phân tử kháng thể đặc hiệu liên kết với nhiều phân tử kháng nguyên và
ngược lại. Kết quả là các hạt latex cùng với kháng nguyên chụm lại, tạo thành
đám ngưng kết có thể quan sát bằng mắt thường. Kháng nguyên dùng cho
phản ứng là kháng nguyên bề mặt được tinh chế từ chủng T. evansi không
nhuộm màu.
Phương pháp này có thể ứng dụng trong kiểm tra dịch tễ và có thể ứng
dụng ở cơ sở. Tuy nhiên tỷ lệ phát hiện bệnh không cao do phương pháp này
cho kết quả dương tính cả khi con vật khỏi bệnh nhưng vẫn còn kháng thể tồn
tại trong huyết thanh; mặt khác, đối với những súc vật mới nhiễm bệnh tiên

mao trùng trong huyết thanh chưa có kháng thể nên khi kiểm tra bằng phương
pháp LATEX sẽ cho kết quả âm tính.
+ Phương pháp CATT (Card Agglutination Test for Trypanosomiasis)
Đây là phương pháp ngưng kết trực tiếp giữa kháng nguyên và kháng
thể trên bản nhựa, được dùng để phát hiện kháng thể lưu động trong máu
động vật nhiễm bệnh.
Nguyên lý: kháng nguyên tiên mao trùng đã được nhuộm màu kết hợp
với kháng thể tạo thành những đám kết tủa li ti màu xanh.
Cách tiến hành: dùng ống hút 2,5 ml dung dịch buffer cho vào lọ kháng
nguyên chuẩn đã được nhuộm màu (CATT reagent), lắc đều. Cho vào lọ

15
kháng nguyên đối chứng (đối chứng dương, đối chứng âm) mỗi lọ 0,5 ml
dung dịch buffer, lắc đều. Dùng micropipette pha loãng huyết thanh theo tỷ lệ
cần chẩn đoán (1/8). Cho các mẫu huyết thanh cần chẩn đoán đã được pha
loãng lần lượt vào các vòng tròn của bản CATT, cho kháng nguyên đối chứng
vào hai vòng tròn khác của bản, mỗi loại 1 giọt (tương đương 45 µl). Sau đó
cho vào tất cả các vòng tròn trên bản CATT 1 giọt kháng nguyên chuẩn. Dùng
que nhựa trộn đều. Cuối cùng cho lên máy lắc 5 phút (60 - 70 lần/ phút) và
đánh giá kết quả.
+ Phương pháp kháng thể huỳnh quang gián tiếp IFAT (Indirect
Fluorescent Antibody Test).
Phản ứng này là phản ứng huyết thanh học đặc hiệu có độ nhạy cao,
được ứng dụng rộng rãi trong phòng thí nghiệm và thực địa. Ngoài việc được
dùng làm phản ứng chuẩn để so sánh với các phương pháp huyết thanh khác,
phương pháp IFAT còn được dùng trong nghiên cứu các dòng kháng nguyên,
phát hiện kháng thể (Luckins, 1988 [37]; Davison, 1999 [31]).
Trong phương pháp IFAT, huyết thanh dương chuẩn được lấy từ trâu,
bò mắc bệnh tiên mao trùng, huyết thanh âm chuẩn được lấy từ trâu, bò khoẻ
mạnh, huyết thanh cần chẩn đoán là huyết thanh lấy từ gia súc nghi mắc bệnh.

Ứng dụng phương pháp này ở Việt Nam, Lương Tố Thu và cs (1994)
[24] đã chế tạo conjugate huỳnh quang trên thỏ kháng IgG của bò để chẩn
đoán bệnh tiên mao trùng. Độ pha loãng của conjugate tự chế sử dụng cho
phản ứng là 1/8 và huyết thanh chuẩn pha loãng ớ 1/40. Theo Lương Tố Thu
và Lê Ngọc Mỹ (1996) [25], độ nhạy của phương pháp IFAT là 71,25.
Để tinh chế kháng nguyên T. evansi dùng trong phản ứng miễn dịch
huỳnh quang gián tiếp để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở trâu bò. Vương
Thị Lan Phương (2004) [20] đã nghiên cứu kháng nguyên bề mặt T. evansi
phân lập từ trâu, bò ở 6 tỉnh phía Bắc Việt Nam và cho biết: đã thu được 6
mẫu tiên mao trùng từ 6 tỉnh, tiến hành phân dòng, phân VAT (Variable
Antigenic Type) và thu được 26 VAT thuộc 6 kho kháng nguyên khác nhau.
Bằng phản ứng dung giải miễn dịch và phương pháp thấm miễn dịch, tác giả
đã xác định được sự thay đổi kháng nguyên bề mặt của T. evansi: đa số các VAT

16
của các kho kháng nguyên khác nhau là khác nhau, chỉ có 8 VAT/26 VAT có
hiệu giá kháng thể đơn giá đặc hiệu, có phản ứng chéo với các VAT của các kho
kháng nguyên khác. Các VAT trội xuất hiện sớm trong 4 tuần lễ đầu nhiễm
bệnh, có tính kháng nguyên mạnh có thể nghiên cứu ứng dụng chế kháng
nguyên chẩn đoán. Từ đó, tác giả đã tinh chế kháng nguyên theo phương pháp
tách tiên mao trùng để dùng trong phản ứng miễn dịch huỳnh quang gián tiếp,
chẩn đoán bệnh tiên mao trùng cho độ nhạy và độ đặc hiệu cao.
+ Phản ứng ELISA (Enzym Linked Immunosorbent Assay)
ELISA là một trong những phương pháp hiện đại nhất được ứng dụng để
chẩn đoán bệnh tiên mao trùng.
Nguyên lý: dùng kháng thể hoặc kháng thể kháng Globulin (kháng kháng
thể) có mang một enzym (phosphatase hoặc Peroxydase) được gắn trên mảnh Fc,
cho kết hợp trực tiếp hoặc gián tiếp với kháng nguyên. Sau đó, cho cơ chất sinh
màu vào, cơ chất sẽ kết hợp với enzym và bị enzym phân huỷ tạo nên màu. So
sánh với màu của quang phổ kế sẽ định lượng được mức độ của phản ứng.

Phản ứng ELISA hiện đang được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế
giới. Ở Việt Nam, Lê Ngọc Mỹ (1994) [24] đã bước đầu chế kháng nguyên
tiên mao trùng và ứng dụng để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở nước ta.
* Các phương pháp phát hiện kháng nguyên tiên mao trùng
- Phát hiện kháng nguyên tiên mao trùng bằng ELISA kháng nguyên
(Ag - ELISA)
Đây là phương pháp sử dụng phản ứng ELISA kháng nguyên để phát
hiện kháng nguyên lưu động trong máu của gia súc nhiễm bệnh. Phản ứng
dựa trên kháng thể đơn dòng đặc hiệu với tiên mao trùng. Lê Ngọc Mỹ (1994)
[16] đã bước đầu ứng dụng phương pháp này để chẩn đoán bệnh tiên mao
trùng ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo cơ quan năng lượng nguyên tử thế giới
(IAEA) (1997), phương pháp ELISA kháng nguyên có độ nhạy kém hơn so
với các phương pháp phát hiện tiên mao trùng cổ điển. Vì vậy, phương pháp
này đã không được phổ biến trong thời gian hiện tại và tương lai (IAEA đã
không sản xuất đĩa Ag - ELISA cho nhiều nước trên thế giới).
- Phát hiện kháng nguyên tiên mao trùng bằng sinh học phân tử (PCR)

17
Phương pháp sinh học phân tử được coi là phương pháp hiện đại nhất
trong chẩn đoán bệnh tiên mao trùng. Vào năm 1987, Muliis và Falona đã
thiết lập các phản ứng trong chẩn đoán bệnh tiên mao trùng. Nguyên lý của
phản ứng này là dựa vào sự có mặt của primer đặc hiệu để xác định sự có mặt
của ADN của tiên mao trùng có trong máu động vật nhiễm bệnh. Phương
pháp này có đặc điểm là độ nhạy và độ chính xác cao. Tuy nhiên nó đòi hỏi
trình độ cao và trang thiết bị hiện đại, do đó nó vẫn chưa được áp dụng rộng
rãi trong chẩn đoán bệnh tiên mao trùng.
2.1.5. Phòng và trị bệnh tiên mao trùng trên gia súc
2.1.5.1. Phòng bệnh
Để phòng ngừa bệnh tiên mao trùng có hiệu quả cao, các nhà khoa học
đã đề nghị áp dụng 3 biện pháp sau:

* Diệt tiên mao trùng trên cơ thể ký chủ:
Diệt tiên mao trùng ký sinh ở vật chủ không những ngăn chặn được tác
hại gây bệnh của chúng mà còn làm cho bệnh mất khả năng lây lan. Các biện
pháp cụ thể là:
- Phát hiện gia súc nhiễm tiên mao trùng ở vùng có bệnh và những
vùng lân cận, nhốt riêng trong chuồng có lưới để ngăn côn trùng và điều trị
triệt để gia súc bệnh.
- Ở những vùng không có bệnh thì không nhập gia súc từ vùng có bệnh
về. Nếu thật cần thiết thì chỉ nhập những gia súc khoẻ (có kết quả kiểm tra âm
tính với tiên mao trùng), song vẫn cần nhốt riêng để theo dõi. Nếu không bị
bệnh mới cho nhập đàn. Phát hiện và diệt những loài thú hoang nghi là nguồn
tàng trữ mầm bệnh, hoặc không chăn thả gia súc trong những khu vực có
những loài đó sinh sống.
* Diệt côn trùng môi giới truyền bệnh:
Hội nghị lần thứ VI của Uỷ ban khoa học Quốc tế nghiên cứu về tiên
mao trùng đã đề ra những biện pháp tiêu diệt côn trùng như sau:
- Diệt côn trùng bằng thay đổi sinh thái:
Thay đổi sinh thái là thay đổi điều kiện sống, làm cho côn trùng không
sinh sản, không thực hiện được chu kỳ phát triển.

18
Phát quang cây cối ở từng khu vực, không để nước tù đọng, ủ phân để
diệt trứng và ấu trùng ruồi, mòng, làm chuồng gia súc có lưới ngăn côn
trùng, là các biện pháp hữu hiệu, tạo ra những điều kiện bất lợi cho đời
sống của côn trùng.
Tuy nhiên, do côn trùng có khả năng di chuyển khá mạnh nên các biện
pháp trên phải thực hiện đồng thời trên phạm vi rộng mới có hiệu quả.
Challier A. (1974) [29] cho biết, ở Nigeria, việc phát quang cây cối
xung quanh hồ và các con sông trong một khu vực rộng 400 - 800m, dài
10000m chỉ hạn chế được một phần hoạt động của những côn trùng môi giới

truyền bệnh tiên mao trùng ở đó.
- Diệt côn trùng bằng hoá dược:
Có thể dùng các hoá dược để tiêu diệt côn trùng môi giới của tiên mao
trùng. Các hoá dược đã được dùng là: Endosulfan, Brophos, Dieldrine,
Tetracloreinphos,…
- Diệt côn trùng bằng phương pháp sinh học:
Các nhà khoa học đã phát hiện được 25 loài ong và côn trùng ký sinh
gây hại cho các loài ruồi, mòng môi giới truyền bệnh tiên mao trùng.
Một số loài vi khuẩn có thể xâm nhập vào cơ thể ruồi hút máu làm
chúng mắc bệnh và chết.
Năm 1974, Laird đã phân lập được một số loài vi khuẩn như: Bacillus
thuringiensis, B.mathisis để tiêu diệt các loài ruồi hút máu. Đây là biện pháp
diệt côn trùng có nhiều ưu điểm: không ảnh hưởng đến môi trường. Tuy
nhiên, biện pháp này mới đang ở giai đoạn thử nghiệm.
Jordan A. N. và cs (1974) [36] đã gây đột biến ruồi hút máu bằng một
số hoá chất và tia sáng có bước sóng ngắn, bằng phương pháp di truyền quần
thể, đã tạo ra những ruồi đực vô tính rồi thả với ruồi cái trong tự nhiên. Kết
quả là làm cho ruồi không sinh sản được. Phương pháp này có nhiều khả năng
thành công nhưng rất tốn kém.
Nhìn chung, các biện pháp tiêu diệt côn trùng môi giới có hiệu quả nhất
định nhưng cũng còn nhiều hạn chế.

×