Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận triết học vận dung quan điểm toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể trong quá trình học tập của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.8 KB, 24 trang )


ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Lớp QL12
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN,
PHÁT TRIỂN, LỊCH SỬ CỤ THỂ
TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP CỦA
SINH VIÊN
Thành viên trong nhóm :
Lê Vĩnh Phúc Mssv:1254030059
Huỳnh Tấn Hiếu Mssv:1254030018
Nguyễn Đức Duy Mssv:1254030009
Nguyễn Ngọc Nghĩa Mssv:12540300
Phạm Minh Đăng Mssv:12540300
Kha Mssv:12540300
Tp Hồ Chí Minh – Tháng 11 năm 2012
ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Lớp QL12
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN,
PHÁT TRIỂN, LỊCH SỬ CỤ THỂ
TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP CỦA
SINH VIÊN
Thành viên trong nhóm :
Lê Vĩnh Phúc Mssv:1254030059


Huỳnh Tấn Hiếu Mssv:1254030018
Nguyễn Đức Duy Mssv:1254030009
Nguyễn Ngọc Nghĩa Mssv:12540300
Phạm Minh Đăng Mssv:12540300
Kha Mssv:12540300
Tp Hồ Chí Minh – Tháng 11 năm 2012
2
LỜI MỞ ĐẦU
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn
diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng,
chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực , cải tạo
chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được chúng , mỗi chúng ta cần
nắm chắc cơ sở lý luận của chúng – nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt
động của mình. Đối với sinh viên, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường,
vẫn có thể sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận đó vào việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị của mình góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn
vinh , xã hội ta ngày càng tươi đẹp.
Trong bài tiểu luận này, với sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn, nhóm
chúng tôi tập trung vào phân tích tìm hiểu nội dung củaba quan điểm – Toàn
diện, Phát triển, Lịch sử cụ thể từ đó có thể vận dụng một cách hợp lý vào
cuộc sống cũng như trong quá trình học tập của sinh viên nói chung và bản
thân nói riêng.
Tập thể tác giả.

3
1. QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
1.1. NỘI DUNG VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM TOÀN
DIỆN:
Phép biện chứng duy vật là phương pháp triết học duy vật biện chứng

và các khoa học nói chung. Theo Ph.Ănghen: "Phép biện chứng là phương
pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của
chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự
ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng". Là cơ sở của
nhận thức lý luận tự giác, phép biện chứng duy vật là phương pháp dùng để
nghiên cứu toàn diện và sâu sắc những mâu thuẫn trong sự phát triển của hiện
thực, đưa lại chìa khoáđể nghiên cứu tổng thể những quá trình phức tạp của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy, phép biện chứng duy vật được áp dụng phổ
biến trong lĩnh vực và có vai trò quyết định trong sự vật, hiện tượng. Phép
biện chứng duy vật không chỉđưa ra hướng nghiên cứu chung, đưa ra các
nguyên tắc tiếp cận sự vật, hiện tượng nghiên cứu màđồng thời còn làđiểm
xuất phát đểđánh giá những kết quảđạt được.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến - một trong hai nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng.Đây là một
phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự quy định, tác động qua
lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của
một sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
Triết học Mác khẳng định: Cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện
tượng là thuộc tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện tượng dù
đa dạng và khác nhau đến mấy thì chúng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau
của một thế giới duy nhất là vật chất mà thôi. Ngay bản thân ý thức vốn không
4
phải là vật chất nhưng cũng chỉ là sự phát triển đến đỉnh cao của một thuộc
tính, của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộóc con người, nội dung
của ý thức có mối liên hệ chặt chẽ với thế giới bên ngoài.
Theo triết học Mác, mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là khách
quan vốn có của bản thân chúng, đồng thời mối liên hệ còn mang tính phổ
biến và tính phổ biến ấy được thể hiện ở những vấn đề sau đây:
1.1.1. Xét về mặt không gian:
Mỗi sự vật hiện tượng là một chỉnh thể riêng biệt, song chúng tồn tại

không phải trong trạng biệt lập tách rời tuyệt đối với các sự vật hiện tượng
khác.Ngược lại, trong sự tồn tại của mình thì chúng tác động lẫn nhau và nhận
sự tác động của các sự vật hiện tượng khác.Chúng vừa phụ thuộc nhau,
chếước nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại và phát triển.Đó chính là hai mặt
của quá trình tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Ănghen đã khẳng
định: "Tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ thống,
một tập hợp gồm các vật thể liên hệ khăng khít với nhau và việc các vật thểấy
có mối liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động qua lại
lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động".
Trong đời sống xã hội ngày nay không có một quốc gia, dân tộc nào mà
không có mối quan hệ, liên hệ với quốc gia, dân tộc khác về mọi mặt của đời
sống xã hội.Đây chính là sự tồn tại, phát triển cho mỗi quốc gia, dân tộc.Trên
thế giới đã vàđang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của
đời sống xã hội.Các quốc gia dân tộc ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, tác động
lẫn nhau trên con đường phát triển của mình.
1.1.2. Xét về mặt cấu tạo:
5
Cấu trúc bên trong của sự vật hiện tượng thì mỗi sự vật hiện tượng đều
được tạo thành bởi nhiều nhân tố, nhiều bộ phận khác nhau và các nhân tố, bộ
phận đó không tồn tại riêng lẻ mà chúng được tổ chức sắp xếp theo một lôgíc
nhất định, trật tự nhất định để tạo thành chỉnh thể. Mỗi biện pháp, yếu tố trong
đó mà có vai trò vị trí riêng của mình, lại vừa tạo điều kiện cho các bộ phận,
yếu tố khác. Nghĩa là giữa chúng có sựảnh hưởng, ràng buộc tác động lẫn
nhau, sự biến đổi bộ phận nào đó trong cấu trúc của sự vật hiện tượng sẽảnh
hưởng đến bộ phận khác vàđối với cả chỉnh thể sự vật, hiện tượng.
1.1.3. Xét về mặt thời gian:
Mỗi một sự vật hiện tượng nói riêng và cả thế giới nói chung trong sự
tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua các giai đoạn, các thời kỳ khác
nhau và các giai đoạn đó không tách rời nhau, có liên hệ làm tiền đề cho nhau,
sự kết thúc của giai đoạn này làm mởđầu cho giai đoạn khác tiếp theo. Điều

này thể hiện rõ trong mối liên hệ giữa quá khứ - hiện tại - tương lai (hiện tại
chẳng qua là bước tiếp theo của quá khứ và là bàn đạp cho tương lai).
Qua điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan,
tính phổ biến vốn có của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình
mà nó còn nêu rõ tính phong phú, đa dạng và phức tạp của mối liên hệ qua lại
đó. Khi nghiên cứu hiện thực khách quan có thể phân chia mối liên hệ thành
từng loại khác nhau tuỳ tính chất phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay
hẹp, trình độ nông hay sâu, vai trò trực tiếp hay gián tiếp… khái quát lại có
những mối liên hệ sau đây: mối liên hệ bên trong - bên ngoài, chủ yếu - thứ
yếu, chung - riêng, trực tiếp - gián tiếp, bản chất - không bản chất, ngẫu nhiên-
6
tất nhiên. Trong đó có những mối liên hệ bên trong, trực tiếp, chủ yếu, bản
chất và tất nhiên bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng, quyết định cho sự tồn tại
và phát triển của sự vật, hiện tượng. Triết học Mác xít đồng thời cũng thừa
nhận rằng các mối liên hệ khác nhau có khả năng chuyển hoá cho nhau, thay
đổi vị trí của nhau vàđiều đó diễn ra có thể là sự thay đổi phạm vi bao quát sự
vật, hiện tượng hoặc có thể do kết quả vận động khách quan của sự vật hiện
tượng đó.
1.2. Ý NGHĨA CỦA VIỆC ỨNG DỤNG QUAN ĐIỂM:
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng
chúng ta rút ra quan điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét các sự vật
hiện tượng cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Về mặt nhận thức, khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong
mối liên hệ tác động qua lại với những sự vật, hiện tượng khác và cần phải
phát hiện ra những mối liên hệ giữa các bộ phận, yếu tố, các thuộc tính, các
giai đoạn khác nhau của bản thân sự vật. Lênin đã khẳng định: "Muốn thực sự
hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt của mối
liên hệ và quan hệ của sự vật đó". Để nhận thức đúng được sự vật, hiện tượng
cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn, ứng với mỗi thời
kỳ, giai đoạn, thế hệ thì con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được số lượng

hữu hạn các mối liên hệ. Vì vậy tri thức về các sự vật, hiện tượng chỉ là tương
đối, không đầy đủ và cần phải được hỏi chúng ta phải phát hiện ra không chỉ
là mối liên hệ của nó mà còn phải biết xác định phân loại tính chất, vai trò, vị
trí của mỗi loại liên hệđối với sự phát triển của sự vật. Cần chống cả lại
7
khuynh hướng sai lầm phiến diện một chiều, cũng nhưđánh giá ngang bằng vị
trí của các loại quan hệ.
Về mặt thực tiễn, quan điểm toàn diện đòi hỏi để cải tạo sự vật, hiện
tượng cần làm thay đổi mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng cũng như
mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Muốn vậy,
cần phải xác định, sử dụng đồng bộ các phương pháp, các biện pháp, phương
tiện để giải quyết sự vật.Mặt khác, quan điểm toàn diện đòi hỏi trong hoạt
động thực tiễn cần phải kết hợp chính sách dàn đều và chính sách có trọng
tâm, trọng điểm.Vừa chúý giải quyết về mặt tổng thể vừa biết lựa chọn những
vấn đề trọng tâm để tập trung giải quyết dứt điểm tạo đà cho việc giải quyết
những vấn đề khác.
Trong thời kỳđẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới của cách mạng
Việt Nam hiện nay, nếu không phân tích toàn diện những mối liên hệ, tác
động sẽ không đánh giáđúng tình hình nhiệm vụ cụ thể của đất nước trong
từng giai đoạn cụ thể và do vậy không đánh giá hết những khó khăn, những
thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước theo mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2.1. Vận dụng bản thân
Là một sinh viên thì việc vận dụng quan điểm toàn diện có ý nghĩa rất
quan trọng đối với quá trình học tập và phát triển của mỗi chúng ta.Nó góp
phần định hướng,chỉ đạo các hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn và cải
tạo bản thân chúng ta.Nhưng ta phải biết cách vận dụng nó như thế nào là tốt
nhất đối với chúng ta trong từng không gian thời gian cụ thể.
8
1.1.2. Áp dụng trong học tập:

Học là việc vô cùng quan trọng đối với sinh viên để có thể phát triển và
hoàn thiện bản thân.Nhưng học như thế nào để có thể đạt được kết quả như
mong đợi thì không phải là chuyện dễ.Việc áp dụng quan điểm toàn diện trong
học tập là việc rất cần thiết để ta có thể nắm bắt toàn diện những điều cần học
rồi góp phần đưa ra phương pháp học thích hợp cho bản thân. Cụ thể là khi áp
dụng quan điểm toàn diện thì ta sẽ đặt việc học tập vào các mối liên hệ khác
nhau: cần học cái gì, khi nào thì học, học như thế nào, áp dụng ở đâu, áp dụng
như thế nào… , từ đó ta có thể rút ramối quan hệ giữa những điều ta học được
để tạo nên một hệ thống kiên thức cần thiết cho quá trình học tập. Ví dụ như
khi học môn lý thì có những kiến thức của môn lý không làm rõ mà chỉ khái
quát vấn đề, trong khi có những bộ môn khác lại tập trung làm rõ vấn đề đó thì
ta phải tìm hiểu để có thể hiểu sâu sắc hơn vấn đề và phải tiếp thu những ý
kiến khác nhau để so sánh. Nhưng người ta vẫn thường nói “học đi đôi với
hành”, và chỉ khi nào áp dụng những thứ học được vào thực tế thì mới có thể
đối chiếu để so sánh xem những điều mình học đã đúng hay chưa, có phát sinh
ra những vấn đề khác hay không.Qua quan điểm toàn diện ta có thể thấy mối
quan hệ của việc học, và việc vận dụng quan điểm toàn diện không chỉ có áp
dụng trong học tập mà còn áp dụng trong quá trình học, tu dưỡng các phẩm
chất đạo đức để hoàn thiện bản thân.Một con người “có tài mà không có đức
là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” đây là hai
mặt khác nhau về nội dung nhưng thống nhất với nhau để góp phần hoàn thiện
bản thân.Khi đã có tài qua việc học tập thì đức sẽ làm cho cái tài của ta được
bộc lộ một cách toàn diện. Đức không chỉ là do một phẩm chất tạo thành mà
cần rất nhiều phẩm chất góp lại để tạo nên. Nó được bộc lộ trong mọi thời
9
gian không gian khác nhau, nó phản ánh đúng bản chất con người trong việc
đối nhân xử thế.
1.1.3. Áp dụng trong cuộc sống hằng ngày:
Trong cuộc sống hằng ngày có vô số các sự vật hiện tượng xảy ra trước
chúng ta mà ta không nhìn nhận một cách đúng đắn sẽ làm cho ta hiểu sai bản

chất vấn đề, không đúng với sự thật.Ví dụ như cách chọn cho mình những
người bạn phù hợp với bản thân.Không phải chỉ vì cái là nhìn đầu tiên là ta có
thể đánh giá đó là một người bạn tốt hay xấu được cho dù đó là một người có
ngoại hình đẹp,dễ nhìn hay chỉ là người có ngoại hình xấu, khi nhìn đã có ấn
tượng không tốt về họ.Người ta thường nói “cha sinh con trời sinh tính”,tính
cách và ngoại hình là hai mặt khác nhau của một con người vì vậy khi đánh giá
một con người qua vẻ bề ngoài là hoàn toàn phiến diện.Cho dù trong một hoàn
cảnh cụ thể nào đó người đó có những cử chỉ tốt hay nhìn có vẻ rất thân thiện,
dễ gần gũi thì cũng chỉ gây ấn tượng tốt ban đầu đối với chúng ta chứ không
thể khẳng định đó là một người bạn tốt.Đôi khi đó chỉ là cách gây ấn tượng với
người khác của họ chứ không phải là bản chất thật sự của họ.Mà quá trình đánh
giá một con người là một quá trình lâu dài và toàn diện về nhiều mặt khác nhau
của họ.Cách thức họ ứng xử, giao tiếp với mọi người xung quanh, cách họ làm
việc với bản thân và tập thể.Bác Hồ đã nói “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì
lợi ích trăm năm trồng người”,công việc xây dựng một con người tốt không
phải trong một thời gian ngắn mà là cả một đời người.Cho thấy công việc đánh
giá con người cũng phải là một công việc lâu dài,một ngày có thể ta không thấy
nhưng nhiều ngày ta sẽ thấy họ như thế nào:ích kỉ, nhỏ nhen,vụ lợi hay là một
người rộng lượng,tốt bụng để ta có thể chọn lựa đúng đắn hơn.Qua đó ta cũng
thấy rằng cho dù có những người không tốt ở hiện tại nhưng chưa chắc họ sẽ
10
không tốt ở tương lai,vì vậy ta hãy đánh giá lại khi họ đã thay đổi để có cái
nhìn toàn diện hơn.Ngoài ra,ta còn áp dụng quan điểm toàn diện trong giao tiếp
hằng ngày với mọi người xung quanh.Tùy trường hợp cụ thể mà ta có những
cách cư xử khác nhau cho phù hợp,ta phải biết mình đứng ở đâu,vị trí nào
trong hoàn cảnh đó để có cách ứng xử và lời nói,suy nghĩ cho phù hợp.Ví dụ
như khi giao tiếp với người lớn thì ta cần có thái độ tôn trọng,lễ phép.Còn khi
nhìn nhận một vấn đề thì ta cần đặt nó vào những mối liên hệ,xem xét tất cả
các mặt để đưa ra những kết luận đúng đắn.
Áp dụng quan điểm toàn diện không những giúp ta có những đánh giá

đúng hiện bản chất của sự vật hiện tượng mà còn giúp ta có những mối quan hệ
tốt đẹp hơn với mọi người xung quanh.
2. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN
2.1. NỘI DUNG QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN
2.1.1. Khái niệm :
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong trong đó khi
xem xét sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn
luôn vận động và phát triển.
Phát triển là hình thức vận động từ thấp đến cao , từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện về mặt nội dung, hình thức của sự vật - hiện tượng. Quá trình
đó diễn ra vừa dần dần vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái
cũ. Dù trong hiện thực kháchquan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra
không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm
chí có thể có những bước lùi tạm thời.
11
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay
đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo
đường xoáy ốc. Điều đó có nghĩa là quá trình phát triển dường như sự vật ấy
quay trở về điểm khởi đầu song trên cơ sở mới cao hơn .
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn
giáo về nguồn gốc của sự phát triển, khẳng định nguồn gốc của sự phát triển
nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định.
Nói cách khác, đó là quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự
vật, do đó cũng là quá trình tự thân của mọi sự vật. Trái lại, những ngườitheo
quan điểm duy tâm hay quan điểm tôn giáo lại thường tìm nguồn gốc của sự
phát triển ở thần linh, Thượng đế, các lực lượng siêu nhiên hay ở ý thức của
con người .
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại
trong hiện thực, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định sự phát triển là một
phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ

đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Theo quan điểm này, sự phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động
nói chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận động, xu hướng vận
động đi lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển
chỉ là trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật
sẽ hình thành những quy định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối liên
hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động của mình.
Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực tuỳ theo hình thức
tồn tại cụ thể của từng dạng vật chất. Sự phát triển của giới vô cơ thể hiện ở
12
dạng biến đổi các yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác động qua lại giữa chúng
và trong các điều kiện nhất định sẽ làm nảy sinh các hợp chất phức tạp. Từ đó
cũng làm xuất hiện các hợp chất hữu cơ ban đầu - tiền đề của sự sống. Trong
giới hữu cơ, sự phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi của sinh vật với sự
biến đổi phức tạp của môi trường, ở sự hoàn thiện thường xuyên quá trình trao
đổi chất giữa cơ thể và môi trường ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với
trình độ ngày càng cao hơn và từ đó làm xuất hiện ngày càng nhiều các giống
loài mới phù hợp với môi trường sống. Sự phát triển của xã hội biểu hiện ở
năng lực chinh phục tự nhiên và cải biến xã hội cũng như bản thân con người.
Sự phát triển của mỗi con người biểu hiện ở khả năng tự hoàn thiện mình cả
về thể chất và tinh thần, phù hợp với sự vận động và phát triển của môi trường
trong đó có con người sinh sống .
Như vậy, sự phát triển trong đó sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ là
hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội, trong bản thân
con người, trong tư duy. Nếu xem xét từng trường hợp cá biệt thì có những
vận động đi lên, vận động tuần hoàn, thậm chí có vận động đi xuống. Song
nếu xét cả quá trình vận động với không gian rộng và thời gian dài thì quá
trình vận động đi lên là khuynh hướng chung của mọi sự vật.
2.1.2. Tính chất của sự phát triển:
Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Theo quan điểm duy

vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật.
Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại
và vận động của sự vật, nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế, sự phát
triển là tiến trình kháchquan, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý
13
chí, ý thức con người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự vật vẫn
phát triển theo khuynh hướng chung nhất của thế giới vật chất.
Sự phát triển mang tính phổ biến vì nó diễn ra ở mọi lĩnh vực của tự
nhiên, xã hội và tư duy, ở bất cứ sự vật hiện tượng nào của thế giới khách
quan. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm
trong quá trình vận động và phát triển, hoặc đúng hơn, mọi hình thức của tư
duy cũng luôn phát triển. Chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của
tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù mới có thể phản ánh đúng hiện
thực luôn vận động và phát triển.
Ngoài tính khách quan và tính phổ biến, sự phát triển còn có tính đa
dạng phong phú. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự
vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật hiện tượng lại có quá trình phát triển
không giống nhau, tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau.
Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của
các hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố khác. Sự tác động đó có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều
hướng của phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi. Chẳng hạn,
ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em ở
thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả, những điều kiện
thuận lợi mà xã hộimang lại. Hay trong thời đại hiện nay, thời gian công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của các quốc gia chậm phát triển và kém
phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các quốc gia đã thực hiện chúng do được
thừa hưởng kinh nghiệm và sự hỗ trợ của các quốc gia đi trước. Song vấn đề
còn ở chỗ, sự vận dụng kinh nghiệm và tận dụng sự hỗ trợ đó như thế nào lại
14

phụ thuộc rất nhiều vào các nhà lãnh đạo và nhân đân của các nước chậm phát
triển và kém phát triển.
2.1.3. Ý nghĩa phương pháp luận :
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc
nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Nguyên lý này giúp chúng ta nhận thức
được rằng, muốn nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng, nắm được khuynh
hướng phát triển của chúng thì phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự
vận động, trong sự biến đổi của nó.
Mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát triển,
nên trong nhận thức và hoạt động của bản thân chúng ta phải có quan điểm
phát triển. Điều đó có nghĩa là khi xem xét bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng
phải đặt chúng trong sự vận động, sự phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi,
chuyển hoá của chúng.
Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang
tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai
của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có
tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch
ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
Nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai
đoạn phát triển có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm
ra những hình thức, phương pháp tác động phù hợp để hoặc, thúc đẩy, hoặc
kìm hãm sự phát triển đó. Sinh viên là những người đang trong quá trình phát
triển về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách cho nên
15
thời kì này phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện bản thân, làm nền tảng cho
sự phát triển tiếp tục trong tương lai.
Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta. Nếu
chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức, nhất là nhận thức khoa học về sự vật hay

hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn sẽ
không thể phát triển và thực tiễn sẽ dậm chân tại chỗ. Chính vì thế, chúng ta
cần phải tăng cường phát huy nỗ lực của bản thân trong việc hiện thực hoá
quan điểm phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu,
lợi ích của chúng ta và của toàn xã hội. .
2.2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN
2.2.1. Vận dụng vào cuộc sống
Khi xem xét một vấn đề nào đó của cuộc sống, ta phải chú ý đến mối
liên hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác, đồng thời sử dụng nhiều biện pháp
khác nhau nhằm phát huy được hiệu quả của công việc, đạt hiệu suất cao nhất.
Phân chia công việc ra thành từng giai đoạn để có thể tìm ra được
phương pháp tối ưu nhằm thúc đẩy công việc nhan hơn.
Khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, luôn áp dụng những thành tựu khoa
học công nghệ vào trong đời sống, loại bỏ những tư tưởng, định kiến lạc hậu
đi.
Ví dụ:
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử
sao cho phù hợp với từng con người. Ngay cả quan hệ với một con người nhất
16
định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng
phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối
nhân xử thế”.
2.2.2. Đối với việc học tập của sinh viên
Sinh viên phải nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, từ đó
vận dụng một cách hợp lý, sáng tạo.
Biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên
trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên để
hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân. Đương nhiên, trong nhận
thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các

mối liên hệ ở những điều kiện xác định.
Không chỉ nắm rõ chương trình học mà cỏn phải thấy rõ khuynh hướng
phát triển của chuyên ngành trong thời gian tới, yêu cầu của xã hội đối với
chuyên ngành đang theo học là gì? Xã hội đòi hỏi những gì, qua đó hoàn thiện
bản thân, nâng cao tri thức cho phù hợp với nhu cầu của xã hội.
3. QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ THỂ :
3.1. CƠ SỞ KHÁCH QUAN CỦA QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ
THỂ:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ
sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều
tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian
cụ thể xác định. Điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới
17
tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những
điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của
nó sẽ khác nhau, thậm trí có thể làm thay đổi hòan toàn bản chất của sự vật.
3.2. YÊU CẦU CỦA QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ THỂ :
Quan điểm lịch sử có 3 yêu cầu:
Thứ nhất: Khi phân tích xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong
điều kiện không gian và thời gian cụ thể của nó, phải phân tích xem những
điều kiện không gian ấy có ảnh hưởng như thế nào đến tính chất, đặc điểm của
sự vật, hiện tượng. Phải phân tích cụ thể mọi tình hình cụ thể ảnh hưởng đến
sự vật, hiện tượng.
Thứ hai: Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học nào đó
cần phải phân tích nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy sinh lý luận đó. Có
như vậy mới đánh giá đúng giá trị và hạn chế của lý luận đó. Việc tìm ra điểm
mạnh và điểm yếu có tác dụng trực tiếp đến quá trình vận dụng sau này.
Thứ ba: Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến
điều kiện cụ thể của nơi được vận dụng. Điều kiện này sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến kết quả của sự vận dụng đó.

3.3. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ VÀO QUÁ TRÌNH HỌC
TẬP CỦA SINH VIÊN :
Học tập là một quá trình hoạt động căng thẳng của tư duy.
Muốn đạt tới mục đích học tập, cho dù là rất nhỏ (giải một bài tập, học
thuộc một công thức v.v ). người học tập phải tập dượt cách suy nghĩ thông
18
qua các thao tác trí tuệ. từ nhận biết, so sánh, phân tích, tổng hợp đến cụ thể
hóa đến khả năng dự đoán, bảo vệ chân lý do mình đề xuất v.v Tất thảy
những gì có được về phương pháp nhận thức, về tư duy là kết quả tất yếu của
một quá trình học tập lâu dài, bền bỉ.
Qúa trình học tập của sinh viên: Một khi người học đã tích lũy được
một khối lượng tri thức cần thiết có được một trình độ nhận thức xác định, họ
có thể nhận thức thế giới khách quan một cách sâu sắc hơn. Tính quy luật của
những gì đang tồn tại và vận động quanh họ được dần sáng tỏ vì chúng luôn
có các mối quan hệ và liên hệ lẫn nhau, sự thích ứng của họ với tự nhiên, với
xã hội vừa được định hướng theo những quan điểm chính thống của thời đại,
vừa mang màu sắc cá nhân.
Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình học tập của sinh viên:
Vận dụng các quan điểm lịch sử cụ thể, có thể vận dụng vào trong quá
trình học đại học của sinh viên Đại học giao thông vận tải Hồ Chí Minh sau
đây:
Là sinh viên học ở trường đại học giao thông vận tải hồ chí minh, bước
vào một môi trường mới có sự thay đổi về các yêu tố không gian và thời gian.
Một môi trường học tập mới khác nhiều với cách dạy truyền thống ở phổ
thông, chính vì thế không thể áp dụng các quá trình học tập cũ như: thầy đọc
trò chép, vì vậy, sinh viên cần tìm tòi áp dụng các phương pháp học tập mới
khi bước vào giảng đường đại học. Cụ thể có thể áp dụng một số phương pháp
học tập sau:
Tự học: là quá trình lao động trí óc để chiếm lĩnh kiến thức, quá trình tự
học giúp sinh viên tìm kiếm và giải quyết một vấn đề được đặt ra. Sau khi giải

19
quyết được vấn đề đó sẽ giúp cho quá trình nhận thức của sinh viên ngày càng
phát triển.
Trong quá trình học tập trên giảng đường: sinh viên cần tập trung nghe
giảng. Vì mỗi sự vật hiện tượng luôn có sự liên hệ nên tập trung nghe giảng sẽ
giúp sinh viên nắm được quy luật vận động và phát triển của một sự vật, hiện
tương vấn đề để có cái nhìn sâu sắc và toàn diện.
Luôn tìm tòi những kiến thức mới vì sự vật hiện tương luôn phong phú,
phổ biến
Khi vận dụng vào quá trình học tập, cần xem xét các yếu tố như: khả
năng, mục đích, từ đó mỗi cá nhân sẽ sử dụng những điểm mạnh và khắc
phục những điểm yếu.
Phân chia quá trình học tập thành các giai đoạn nhỏ khác nhau, từ đó
nhận thức và tìm ra được phương pháp học hiệu quả nhất, hiệu suất cao nhất,
từ đó nhắm thúc đẩy quá trình tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả.
Quan điểm phát triển góp phần khắcp hục tư tưởng bảo thủ, trì trê,định
kiến torng hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của sinh viên. Nếu
chúng ta tuyệt đối hóa nhận thức, nhất là nhận thức khoa học về sự vật hay
hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn sẽ
không thể phát huy nỗ lực của bảnthân trong việc thực hiện hóa quan điểm
phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của
chúng ta và toàn xã hội.
Ví dụ:
Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của khoa học triết
20
học, chúng ta còn phải tìm ra mối liên hệ của tri thức triết học với tri thức
khoa học khác, với tri thức cuộc sống và ngược lại, vì tri thức triết học được
khái quát từ tri thức của các khoa học khác và hoạt động của con người, nhất
là tri thức chuyên môn được chúng ta lĩnh hội.
Sinh viên, những người đang trong quá trình phát triển mọi mặt về thể

chất lẫn trí lực.tri thức và trí tuệ nhân cách, cho nên thời kỳ này phải tranh thủ
hoàn thiện bản thân, làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục trong tương lai.
21
Kết Luận :
22
Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình: Những nguyên lý cơ bạn của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia – năm 2012
-
23
Mục lục:
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 3
1 . QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
1.1. Nội dung và cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện 4
1.2. ý nghĩa của việc ứng dụng quan điểm toàn diện 7
2. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN
2.1. Nội dung quan điểm phát triển 11
2.2. Vận dụng quan điểm phát triển 16
3. QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ THỂ :
3.1. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể 17
3.2. Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể 18
3.3. Vận dụng quan điểm vào quá trình học tập của
sinh viên 18
KẾT LUẬN 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
MỤC LỤC 24
24

×