Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

CHUYÊN ĐỀ TRÌNH BÀY THÔNG TIN Đề tài: CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.92 KB, 25 trang )

TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
………*****……
CHUYÊN Đ
CHUYÊN ĐỀ
TRÌNH BÀY THÔNG TIN
TRÌNH BÀY THÔNG TIN
Đề tài: CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH
(THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG)

Lớp: K3-CNTT
Giáo viên hướng dẫn: HOÀNG THỊ MAI
Sinh viên thực hiện: Nhóm 3 Gồm:
Lê Thị Oanh (Nhóm trưởng)
Nguyễn Tú Quỳnh
Cấn Anh Dũng
Phạm Thị Thuỷ
Nguyễn Thị Phương Nga.

- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
Hà Nội, tháng 08 năm 2008

2
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
LỜI NÓI ĐẦU
Với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay. Mạng máy tính phát
triển rất nhanh chóng, được ứng dụng trên toàn thế giới. Mạng máy tính giúp
thu hẹp không gian lưu trữ, tránh được thất lạc dữ liệu, tự động hệ thống hoá và
cụ thể hoá các thông tin theo nhu cầu của con người. Nhận thấy tầm quan trọng
trong việc quản lý và khai thác mạng máy tính trong mọi lĩnh vực nên để hiểu
biết và sử dụng hệ thống mạng là rất cần thiết.


Hiện nay tài liệu viết về mạng máy tính nói chung là rất nhiều. Nhóm 3
chúng tôi đã mạnh dạn trình bày đề tài “Các loại mạng máy tính theo diện hoạt
động” một cách cụ thể thành hai loại mạng “Mạng cục bộ và mạng diện rộng”.
Trong quá trình thực hiện chuyên đề chúng tôi đã cố gắng cô đọng các kiến
thức và sắp xếp một cách khoa học, rõ ràng để bạn đọc dễ dàng tiếp thu kiến
thức hiệu quả, thống nhất.
Trong quá trình thực hiện mặc dù chúng tôi đã hết sức cố gắng nhưng chắc
chắn sẽ còn những sai sót. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý
báu của bạn đọc để nhóm chúng tôi hoàn thiện chuyên đề này.
Chúng tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Giảng viên bộ môn “Chuyên
đề” và các bạn học sinh trong lớp đã hướng dẫn, góp ý tạo điều kiện thuận lợi
cho nhóm chúng tôi hoàn thành chuyên đề này.
Nhóm thực hiện chuyên đề

3
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
M ỤC L ỤC
Phần I. GIỚI THIỆU CHUNG 4
I. Giới thiệu về mạng máy tính 4
II. Lịch sử phát triển mạng máy tính 4
III. Ứng dụng của mạng máy tính 6
Phần II. PHÂN LOẠI MẠNG MÁY TÍNH THEO QUY MÔ VÀ K/C ĐỊA LÝ 7
I. Mạng LAN (Mạng cục bộ) 7
1. Giới thiệu mạng LAN 7
2. Các hình trạng LAN đơn giản 7
2.1. Hình trạng BUS 7
2.2. Hình trạng STAR 8
2.3. Hình trạng RING 9
2.4. Mạng kết hợp 10
II. Mạng WAN (Mạng diện rộng) 11

1. Giới thiệu mạng WAN 11
2. Protocol và công nghệ khác nhau được sử dụng trong mạng WAN 12
2.1. Kết nối Điểm- Điểm 12
2.2. Chuyển mạch (Circuit switching) 12
2.2.1. Chuyển mạch gói 13
2.2.2. Chuyển mạch thông báo 14
2.2.3. Chuyển mạch kênh 14
III. Mạng GAN 15
IV. Mạng MAN 15
Phần IV .PHÂN BIỆT GIỮA MẠNG CỤC BỘ VÀ MẠNG DIỆN RỘNG 16
Phần III. MỘT SỐ VÍ DỤ VỀ MẠNG PHÂN LOẠI THEO PHẠM VI
HOẠT ĐỘNG (MẠNG LAN, WAN) 17
I. Mạng NOVELL NETWERE 17
II. Mạng WINDOWS NT 18
III. Mạng APPLE TALK 19
IV.Mạng ARPANET 20
V. Mạng NFSNET 21
VI. Mạng INTERNET 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 24

4
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
PHẦN I
GIỚI THIỆU CHUNG
I. GIỚI THIỆU VỀ MẠNG MÁY TÍNH
Mạng máy tính hay hệ thống mạng (tiếng Anh: computer network hay network
system), là một tập hợp hai hay nhiều máy tính được kết nối nhau thông qua các
phương tiện truyền dẫn để nhằm cho phép chia sẻ tài nguyên: máy in, máy fax, tệp tin,
dữ liệu
Một máy tính được gọi là tự hoạt (autonomous) nếu nó có thể khởi động, vận

hành các phần mềm đã cài đặt và tắt máy mà không cần phải có sự điều khiển hay chi
phối bởi một máy tính khác.
Các thành phần của mạng có thể bao gồm:
• Các hệ thống đầu cuối (end system) kết nối với nhau tạo thành mạng, có thể là các
máy tính hoặc các thiết bị khác. Nói chung hiện nay ngày càng nhiều các loại thiết bị
có khả năng kết nối vào mạng máy tính như điện thoại di động, PDA, tivi,
• Môi trường truyền (media) mà các thao tác truyền thông được thực hiện qua đó.
Môi trường truyền có thể là các loại dây dẫn (dây cáp), sóng điện từ (đối với các mạng
không dây).
• Giao thức truyền thông (protocol) là các quy tắc quy định cách trao đổi dữ liệu
giữa các thực thể.
II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MẠNG MÁY TÍNH
Vào giữa thập niên 1980, người sử dụng dùng các máy tính độc lập bắt đầu chia
sẻ các tập tin bằng cách dùng modem kết nối với các máy tính khác. Cách thức này
được gọi là điểm nối điểm, hay truyền theo kiểu quay số. Khái niệm này được mở rộng
bằng cách dùng các máy tính là trung tâm truyền tin trong một kết nối quay số. Các
máy tính này được gọi là sàn thông báo (bulletin board). Các người dùng kết nối đến
sàn thông báo này, để lại đó hay lấy đi các thông điệp, cũng như gửi lên hay tải về các
tập tin. Hạn chế của hệ thống là có rất ít hướng truyền tin, và chỉ với những ai biết về
sàn thông báo đó. Ngoài ra, các máy tính tại sàn thông báo cần một modem cho mỗi
kết nối, khi số lượng kết nối tăng lên, hệ thống không thề đáp ứng được nhu cầu.
Qua các thập niên 1950, 1970, 1980 và 1990, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã phát
triển các mạng diện rộng WAN có độ tin cậy cao, nhằm phục vụ các mục đích quân sự
và khoa học. Công nghệ này khác truyền tin điểm nối điểm. Nó cho phép nhiều máy
tính kết nối lại với nhau bằng các đường dẫn khác nhau. Bản thân mạng sẽ xách định
dữ liệu di chuyển từ máy tính này đến máy tính khác như thế nào. Thay vì chỉ có thể
thông tin với một máy tính tại một thời điểm, nó có thể thông tin với nhiều máy tính
cùng lúc bằng cùng một kết nối. Sau này, WAN của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã trở
thành Internet


5
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
III. ỨNG DỤNG CỦA MẠNG MÁY TÍNH
Trong các tổ chức: Trước khi có mạng, trong các tổ chức, mỗi nơi đều phải có chỗ
lưu trữ dữ liệu riêng, các thông tin trong nội bộ sẽ khó được cập nhật kịp thời; một ứng
dụng ở nơi này không thể chia sẻ cho nơi khác. Với một hệ thống mạng người ta có
thể:
Chia sẻ các tài nguyên: Các ứng dụng, kho dữ liệu và các tài nguyên khác như sức
mạnh của các CPU được dùng chung và chia sẻ thì cả hệ thống máy tính sẽ làm việc
hữu hiệu hơn.
Độ tin cậy và sự an toàn của thông tin cao hơn. Thông tin được cập nhật theo thời
gian thực, do đó chính xác hơn. Một khi có một hay vài máy tính bị hỏng thì các máy
còn lại vẫn có khả năng hoạt động và cung cấp dịch vụ không gây ách tắc.
Tiết kiệm: qua kỹ thuật mạng người ta có thể tận dụng khả năng của hệ thống,
chuyên môn hoá các máy tính, và do đó phục vụ đa dạng hoá hơn.
Thí dụ: Hệ thống mạng có thể cung cấp dịch vụ suốt ngày và nhiều nơi có thể
dùng cùng một chương trình ứng dụng, chia nhau cùng một cơ sở dữ liệu và các máy
in, do dó tiết kiệm được rất nhiều.
Ngoài ra, khi tạo mạng, người chủ chỉ cần đầu tư một hoặc vài máy tính có khả
năng hoạt động cao để làm máy chủ cung cấp các dịch vụ chính yếu và đa số còn lại
là các máy khách dùng để chạy các ứng dụng thông thường và khai thác hay yêu cầu
các dịch vụ mà máy chủ cung cấp.
Một hệ thống như vậy gọi là mạng có kiểu chủ-khách (client-server model).
Người ta còn gọi các máy dùng để nối vào máy chủ là máy trạm (work-station). Tuy
nhiên, các máy trạm vẫn có thể hoạt động độc lập mà không cần đến các dịch vụ
cung cấp từ máy chủ.
Mạng máy tính còn là một phương tiện thông tin mạnh và hữu hiệu giữa các cộng
sự trong tổ chức.
Cho nhiều người: Hệ thống mạng cung cấp nhiều tiện lợi cho sự truyền thông tin
trong các mối quan hệ người với người như là:

Cung cấp thông tin từ xa giữa các cá nhân
Liên lạc trực tiếp và riêng tư giữa các cá nhân với nhau
Làm phương tiện giải trí chung: như các trò chơi, các thú tiêu khiển, chia sẻ phim
ảnh, vv qua mạng.
Các ứng dụng quan trọng hiện tại qua mạng là: thư điện tử, hội nghị truyền hình
(video conference), điện thoại Internet, giao dịch và lớp học ảo (e-learning hay virtual
class), dịch vụ tìm kiếm thông tin qua các máy truy tìm, vv.

6
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
Các vấn đề xã hội: Quan hệ giữa người với người trở nên nhanh chóng, dễ dàng
và gần gũi hơn cũng mang lại nhiều vấn đề xã hội cần giải quyết như:
Lạm dụng hệ thống mạng để làm điều phi pháp hay thiếu đạo đức: Các tổ chức
buôn người, khiêu dâm, lường gạt, hay tội phạm qua mạng, tổ chức tin tặc để ăn cắp
tài sản của công dân và các cơ quan, tổ chức khủng bố,
Mạng càng lớn thì nguy cơ lan truyền các phần mềm ác tính càng dễ xảy ra.
Hệ thống buôn bán trở nên khó kiểm soát hơn nhưng cũng tạo điều kiện cho cạnh
tranh gay gắt hơn.
Một vấn đề nảy sinh là xác định biên giới giữa việc kiểm soát nhân viên làm công
và quyền tư hữu của họ. (Chủ thì muốn toàn quyền kiểm soát các điện thư hay các
cuộc trò chuyện trực tuyến nhưng điều này có thể vi phạm nghiêm trọng quyền cá
nhân).
Vấn đề giáo dục thanh thiếu niên cũng trở nên khó khăn hơn vì các em có thể tham
gia vào các việc trên mạng mà cha mẹ khó kiểm soát nổi.
Hơn bao giờ hết với phương tiện thông tin nhanh chóng thì sự tự do ngôn luận hay
lạm dụng quyền ngôn luận cũng có thể ảnh hưởng sâu rộng hơn trước đây như là các
trường hợp của các phần mềm quảng cáo (adware) và các thư rác (spam mail).

7
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3

PH ẦN II
PHÂN LOẠI MẠNG MÁY TÍNH
THEO QUY MÔ VÀ KHOẢNG CÁCH ĐỊA LÍ
Mạng máy tính có thể được phân bố trong các phạm vi khác nhau, người ta có
thể phân ra các loại mạng như sau:
I. M ạng LAN (local Area Network)
1. Giới thiệu
Mạng LAN: Là mạng cục bộ, kết nối các máy tính trong một khu vực bán kính
hẹp, thường thì khoảng vài trăm mét. Môi trường truyền thông có tốc độ kết nối cao,
như cáp xoắn, cáp đồng trục, cáp quang. Mạng LAN thường được sử dụng trong nội
bộ của một cơ quan, một tổ chức. Các LAN kết nối lại với nhau thành mạng WAN
2. Các hình trạng LAN đơn giản
Mạng cục bộ có ba hình trạng đơn giản là bus (đường trục), star (hình sao), và
ring (vòng). Sau đây ta sẽ lần lượt tìm hiểu các hình trạng này.
2.1 Hình trạng BUS
Một hình trạng bus vật lý (còn gọi là hình trạng bus tuyến tính) căn bản sử dụng
một đường cáp chung dài gọi là đường xương sống (backborne hay bus). Đường cáp
này còn được gọi là đường truyền chính (trunk line) hoặc phân đoạn mạng (network
segment).
Có những đoạn cáp ngắn được gắn với đường xương sống bằng các đầu nối (tap)
để kết nối với các thiết bị mạng (Các tap là những thiết bị cơ khí dùng để phân tách tín
hiệu điện hoặc điện từ). Tuy nhiên các hình trạng bus hiện nay chủ yếu gắn các máy
tính trực tiếp với đường truyền chính bằng đầu nối chữ T (T-connector). Đường truyền
chính được kết thúc (terminate) ở hai đầu bằng các terminator để loại bỏ các tín hiệu
trên dây sau khi nó truyền qua mọi thiết bị gắn với bus. Tất cả các nút (bao gồm máy
chủ file, các máy trạm, và các thiết bị ngoại vi) được kết nối tới đường truyền chính đó
(Hình 1.1).
Đa số các hình trạng bus cho phép các tín hiệu điện hoặc điện từ lan truyền
theo cả hai hướng


8
T-connector
Terminato
r
Hình 1.1 Hình trạng BUS vật lý
Terminato
r
Bus
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
 Ưu điểm của hình trạng BUS:
• Sử dụng các chuẩn đã được thiết lập, cài đặt tương đối dễ dàng.
• Đòi hỏi đường truyền cáp ít hơn các hình trạng khác.
• Cách bố trí dây rất đơn giản, dễ mở rộng và tin cậy.
 Nhược điểm của hình trạng BUS:
• Khó khăn trong việc cấu hình lại, đặc biệt khi khoảng cách và số các đầu nối
vượt quá mức tối đa cho phép.
• Việc chẩn đoán và cô lập các lỗi khó khăn.
• Mạng sẽ không hoạ t động (down) khi có lỗi hoặc đứt cáp.
2.2 Hình trạng STAR
Mạng ở dạng hình sao có một bộ xử lý trung tâm (HUB) – còn gọi là bộ chuyển
tiếp nhiều cổng (multiport repeater) hay bộ tập trung (concentrator) mà tất cả các nút
(máy chủ file, các máy trạm, và các thiết bị ngoại vi) gắn với nó qua đường cáp (Hình
1.2). Các mạng hình sao có thể được lồng trong các mạng hình sao khác để tạo thành
mạng hình cây hoặc mạng phân cấp
Dữ liệu trên mạng STAR truyền qua HUB trước khi tiếp tục tới đích.HUB quản
lý và điều khiển tất cả các chức năng của mạng. HUB cũng hoạt động như một bộ
chuyển tiếp luồng dữ liệu. Nó được sử dụng trong các mạng ARCnet, Token Ring,
FDDI (Fiber Distributed Data Interface) và các mạng cục bộ 10BaseT với cáp xoắn đôi,
cáp đồng trục hoặc cáp sợi quang. Những ví dụ điển hình của hình trạng STAR là các
kiến trúc mainframe và minicomputer, trong đó máy chủ (host) là một bộ chuyển mạch

(switch) tập trung.Trong mạng hình sao, nếu một cáp bị đứt, nó chỉ ảnh hưởng tới nút
(máy trạm) nối tới HUB bằng cáp đó. Tuy nhiên nếu HUB bị hư thì toàn bộ phân đoạn
mạng kết nối tới HUB đó sẽ ngừng hoạt động.
Đa số các mạng cục bộ Ethernet hiện nay đều sử dụng hình trạng STAR vì khả
năng mở rộng và dễ dàng kết nối với các mạng khác. Chúng cũng dễ dàng cô lập các
lỗi xảy ra với cáp mạng. Nhiều mạng bus và ring cũ cũng được nâng cấp để chuyển
sang mạng hình sao.

9
Hình 1.2 Hình trạng STAR với HUB ở trung tâm
HUB
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
 Ưu điểm của hình trạng STAR:
• Dễ cài đặt và cấu hình lại.
• Dễ giải quyết các sự cố.
• Lỗi đường truyền tự động cô lập phân đoạn mạng bị lỗi.
• Không cần phải ngắt mạng khi cần kết nối thêm hoặc tháo bỏ bớt các thiết bị
mạng.
 Nhược điểm của hình trạng STAR:
• Đòi hỏi nhiều cáp hơn các hình trạng khác.
• Việc tồn tại một HUB tập trung (hoặc concentrator) đồng nghĩa với việc
tồn tại khả năng ngừng hoạt động của toàn phân đoạn mạng khi HUB đó có sự
cố.
2.3 Hình trạng RING
Một hình trạng RING vật lý là một hình trạng vòng (vòng kín liên kết điểm-
điểm). Mỗi thiết bị kết nối trực tiếp tới vòng hoặc gián tiếp qua một thiết bị giao tiếp
và cáp. Mỗi thiết bị hoạt động như một bộ chuyển tiếp (repeater), khuếch đại tín hiệu
giữa các máy trạm.
Các tín hiệu điện hoặc điện từ được truyền từ thiết bị này tới thiết bị khác chỉ
theo một hướng. Mỗi thiết bị kết hợp một thiết bị nhận ở cáp đến (receiver) và một thiết

bị phát (transmitter) ở cáp đi. Các tín hiệu được lặp lại và tái sinh ở mỗi thiết bị sao cho
sự suy hao là nhỏ nhất. Một ví dụ sử dụng hình trạng vòng là mạng cục bộ Token Ring.
Loại mạng vòng này sử dụng việc truyền thẻ bài (token passing) để cho phép từng máy
tính gửi dữ liệu trên mạng.
Một thẻ bài (token) là một gói dữ liệu nhỏ (3 byte) cho phép các nút truy xuất
mạng. Nút (máy tính) gửi phải lấy thẻ bài và bổ sung thông tin địa chỉ, thông tin điều
khiển riêng cùng với dữ liệu để hình thành một frame dữ liệu. Sau đó frame này được
truyền trên mạng tới nút kế tiếp trong vòng. Nếu frame dữ liệu không phải dành cho

10
Hình 1.3 Hình trạng RING
repeater
data
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
nút kế tiếp thì nút này tái sinh lại tín hiệu và truyền tiếp nó trên mạng. Quá trình này
tiếp tục cho đến khi nút nhận lấy được frame dữ liệu. Sau khi nhận được frame dữ liệu,
nút nhận đáp lại nút gửi ban đầu bằng cách phát ra một đáp ứng truyền trên mạng cũng
ở dạng một frame dữ liệu. Frame này di chuyển quanh mạng theo cùng hướng trước
đây cho đến khi nó chạm tới nút gửi ban đầu. Khi đó frame này sẽ bị loại bỏ khỏi
mạng, và một thẻ bài mới lại được sinh ra và truyền trên dây để cho một nút khác
nhận nó, tạo frame dữ liệu và truyền tiếp v.v…. Quá trình này đảm bảo là ở bất kỳ thời
điểm nào chỉ có thể có một nút truyền dữ liệu trên mạng .
 Ưu điểm của hình trạng RING:
• Các lỗi về cáp xác định dễ dàng
• Vòng đôi (Dual loop ring) có thể chống lỗi tốt.
 Nhược điểm của hình trạng RING:
• Việc cài đặt, thay đổi và cấu hình lại khó khăn hơn hình trạng bus.
• Lỗi về đường truyền trên các vòng đơn làm ngừng hoàn toàn hoạt động của mạng.
• Các đầu nối khá đắt, đặc biệt là các đầu nối IBM (IBM connectors).
2.4 Mạng dạng kết hợp

• Kết hợp hình sao và tuyến (star/Bus Topology)
Cấu hình mạng dạng này có bộ phận tách tín hiệu (spitter) giữ vai trò thiết bị trung
tâm, hệ thống dây cáp mạng có thể chọn hoặc Ring Topology hoặc Linear Bus
Topology.
Lợi điểm của cấu hình này là mạng có thể gồm nhiều nhóm làm việc ở cách xa nhau,
ARCNET là mạng dạng kết hợp Star/Bus Topology. Cấu hình dạng này đưa lại sự
uyển chuyển trong việc bố trí đường dây tương thích dễ dàng đối với bất cứ toà nhà
nào.
Hình .(star/Bus Topology)

11
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
• Kết hợp hình sao và vòng (Star/Ring Topology)
Cấu hình dạng kết hợp Star/Ring Topology, có một "thẻ bài" liên lạc (Token) được
chuyển vòng quanh một cái HUB trung tâm. Mỗi trạm làm việc (workstation)
được nối với HUB - là cầu nối giữa các trạm làm việc và để tǎng khoảng cách cần
thiết.
II. M ạng WAN (Wide Area Network)
1. Giới thiệu WAN
WAN còn gọi là "Mạng diện rộng", dùng trong vùng địa lý lớn thường cho
quốc gia hay cả lục địa, phạm vi vài trăm cho đến vài ngàn km. Chúng bao gồm tập
hợp các máy nhằm chạy các chương trình cho người dùng. Các máy này thường gọi là
máy lưu trữ(host) hay còn có tên là máy chủ, máy đầu cuối (end system). Các máy
chính được nối nhau bởi các mạng truyền thông con (communication subnet) hay gọn
hơn là mạng con (subnet). Nhiệm vụ của mạng con là chuyển tải các thông điệp
(message) từ máy chủ này sang máy chủ khác.
Mạng con thường có hai thành phần chính:
Các đường dây vận chuyển còn gọi là mạch
(circuit), kênh (channel), hay đường trung
chuyển (trunk).

Các thiết bị nối chuyển. Đây là loại máy tính chuyện biệt hoá dùng để nối hai hay
nhiều đường trung chuyển nhằm di chuyển các dữ liệu giữa các máy. Khi dữ liệu đến
trong các đường vô, thiết bị nối chuyển này phải chọn (theo thuật toán đã định) một
đường dây ra để gửi dữ liệu đó đi. Tên gọi của thiết bị này là nút chuyển gói (packet
switching node) hay hệ thống trung chuyển (intermediate system). Máy tính dùng cho
việc nối chuyển gọi là "bộ chọn đường" hay "bộ định tuyến" (router).
Hầu hết các WAN bao gồm nhiều đường cáp hay là đường dây điện thoại, mỗi
đường dây như vậy nối với một cặp bộ định tuyến. Nếu hai bộ định tuyến không nối
chung đường dây thì chúng sẽ liên lạc nhau bằng cách gián tiếp qua nhiều bộ định
truyến trung gian khác. Khi bộ định tuyến nhận được một gói dữ liệu thì nó sẽ chứa
gói này cho đến khi đường dây ra cần cho gói đó được trống thì nó sẽ chuyển gói đó
đi. Trường hợp này ta gọi là nguyên lý mạng con điểm nối điểm, hay nguyên lý mạng
con lưu trữ và chuyển tiếp (store-and-forward), hay nguyên lý mạng con nối chuyển
gói.
Các kiểu nối trong WAN. Có nhiều kiểu cấu hình cho WAN dùng nguyên lý điểm
tới điểm như là dạng sao, dạng vòng, dạng cây, dạng hoàn chỉnh, dạng giao vòng, hay
bất định.

12
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
2. Protocol và công nghệ khác nhau được sử dụng trong mạng WAN.
Các chủ đề bao gồm kết nối điểm - điểm, chuyển mạch - circuit switching (chuyển
mạch gói - packet switching, chuyển mạch thông báo, chuyển mạch kênh) và các thiết
bị được sử dụng trong mạng WAN.
WAN là một mạng truyền dữ liệu trải dài trên một khu vựa địa lý rộng lớn và
thường sử dụng các phương tiện và dịch vụ của các nhà cung cấp như các công ty điện
thọai.
Công nghệ WAN thường nằm ở 3 lớp dưới của mô hình OSI : lớp vật lý, lớp liên kết
dữ liệu và lớp mạng.(Hình trên minh họa mối liên hệ giữa WAN và mô hình OSI. )
2.1. Kết nối điểm - điểm

Kết nối điểm - điểm cung cấp cho khách hàng một đường kết nối WAN tới một
mạng ở xa thông qua mạng của nhà cung cấp dịch vụ .
Kết nối điểm - điểm: Còn được gọi là kênh thuê riêng ( leased line ) bởi vì nó
thiết lập một đường kết nối cố định cho khách hàng tới các mạng ở xa thông qua các
phương tiện của nhà cung cấp dịch vụ. Các công ty cung cấp dịch vụ dự trữ sẵn các
đường kết nối sử dụng cho mục đích riêng của khách hàng. Những đường kết nối này
phù hợp với hai phương thức truyền dữ liệu :
- Truyền bó dữ liệu - Datagram transmissions :Truyền dữ liệu mà các frame dữ liệu
được đánh địa chỉ riêng biệt.
- Truyền dòng dữ liệu - Data-stream transmissions: Truyền một dòng dữ liệu mà địa
chỉ chỉ được kiểm tra một lần.

13
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
2.2. Chuyển mạch - Circuit switching
Chuyển mạch là một phương pháp sử dụng các chuyển mạch vật lý để thiết lập, bảo trì
và kết thúc một phiên làm việc thông qua mạng của nhà cung cấp dịch vụ của một kết
nối WAN.
Chuyển mạch phù hợp với hai phương thức truyền dữ liệu : Truyền bó dữ liệu -
Datagram transmissions và Truyền dòng dữ liệu - Data-stream transmission.
2.2.1. Chuyển mạch gói - Packet Switching
Chuyển mạch gói là một phương pháp chuyển mạch WAN, trong đó các thiết bị
mạng chia sẻ một kết nối điểm - điểm để truyền một gói dữ liệu từ nơi gửi đến nơi
nhận thông qua mạng của nhà cung cấp dịch vụ. Các kỹ thuật ghép kênh được sử dụng
để cho phép các hiết bị chia sẻ kết nối .
ATM ( Asynchronous Transfer Mode : Truyền không đồng bộ.), Frame relay, SMDS-
Switched Multimegabit Data Service, X.25 là các ví dụ của công nghệ chuyển mạch gói .
2.2.2. Chuyển mạch thông báo (Message – Switch Network):
Thông báo là một đơn vị thông tin của người sử dụng có khuôn dạng được quy
định trước. Mỗi thông báo đều có chứa vùng thông tin điều khiển trong đó chỉ định rõ

đích của thông báo. Căn cứ vào thông tin này mà mỗi nút trung gian có thể chuyển
thông báo tới nút kết tiếp theo đường dẫn tới đích của nó. Như vậy mỗi nút cần phải
lưu trữ tạm thời để đọc thông tin điều khiển trên thông báo để rồi sau đó chuyển tiếp
thông báo đi. Tùy vào điều kiện của mạng, các thông báo khác nhau có thể được gửi đi
trên các con đường khác nhau.
Phương pháp chuyển mạch thông báo có nhiều ưu điểm so với phương pháp
chuyển mạch kênh, cụ thể là:
- Hiệu suất sử dụng đường truyền cao vì không bị chiếm dụng độc quyền mà
được phân chia giữa nhiều thực thể.
- Mỗi nút mạng có thể lưu trữ thông báo cho tới khi kênh truyền rỗi mới gửi
thông báo đi, do đó giảm được tình trạng tắc nghẽn trên mạng.
- Có thể điều khiển việc truyền tin bằng cách sắp xếp độ ưu tiên cho các thông
báo.

14
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
- Có thể tăng hiệu suất sử dụng giải thông của mạng bằng cách gán địa chỉ quảng
bá để gửi thông báo đồng thời tới nhiều đích.
Nhược điểm chủ yếu của mạng chuyển mạch thông báo là không hạn chế kích
thước của các thông báo, có thể dẫn đến phí tổn lưu trữ tạm thời cao, ảnh hưởng đến
thời gian hồi đáp và chất lượng truyền tin. Ví dụ về mạng chuyển mạch thông báo là
các dịch vụ về Email.
Chuyển mạch thông báo
2.2.3. Chuyển mạch kênh (Circuit – Switch Network):
Khi có hai máy cần trao đổi thông tin với nhau thì giữa chúng sẽ được thiết lập
một kênh cố định và được duy trì cho đến khi một trong hai bên ngắt liên lạc. Các dữ
liệu chỉ được truyền theo đường cố định đó.
Phương pháp chuyển mạch kênh có hai nhược điểm chính:
- Một là phải tiêu tốn thời gian để thiết lập một kênh cố định giữa 2 thực thể,
- Hai là hiệu suất sử dụng đường truyền không cao vì có lúc kênh bị bỏ không do

cả hai bên đều hết thông tin cần truyền trong khi các thực thể khác không được phép
sử dụng kênh truyền này: Ví dụ mạng điện thoại là một mạng chuyển mạch kênh.
Chuyển mạch kênh

15
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
III. GAN (Global Area Network)
Mạng toàn cầu
Mạng GAN có thể được kết hợp từ các mạng WAN, với quy mô rộng khắp toàn
cầu, đường truyền cũng là các loại đường truyền tốc độ thấp và thường lấy cơ sở hạ
tầng của viễn thông và vệ tinh.
IV. MAN (Metropolitan Area Network)
MAN hay còn gọi là "mạng đô thị", là mạng có cỡ lớn hơn LAN, phạm vi vài km. Nó
có thể bao gồm nhóm các văn phòng gần nhau trong thành phố, nó có thể là công cộng
hay tư nhân và có đặc điểm:
Chỉ có tối đa hai dây cáp nối.
Không dùng các kỹ thuật nối chuyển.
Có thể hỗ trợ chung vận chuyển dữ liệu
và đàm thoại, hay ngay cả truyền hình.
Ngày nay người ta có thể dùng kỹ thuật
cáp quang (fiber optical) để truyền tín hiệu. Vận tốc có hiện nay thể đạt đến 10
Gbps.
Ví dụ của kỹ thuật này là mạng DQDB (Distributed Queue Dual Bus) hay còn gọi
là bus kép theo hàng phân phối (tiêu chuẩn IEEE 802.6).
Ngoài ra người ta còn có một số cách phân loại mạng sau:
• HAN: Home Are Network,
• PAN: Personal Are Network,
• WLAN: Wireless LAN,
• WPAN: Wireless PAN,
• SAN: Storage Are Network,

• DAN: Departmental Are Network,
• VAN: Value-added Network,
• NAN: Neighborhood Are Network,
• VPN: Virtual Private Network,
• VLAN: Virtual LAN,
• SOSH: Small Office, Small Home.

16
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
PHẦN III
PHÂN BIỆT GIỮA MẠNG CỤC BỘ
VÀ MẠNG DIỆN RỘNG
MẠNG CỤC BỘ
MẠNG DIỆN RỘNG
LAN WAN, MAN, GAN…
Quy mô
Phạm vi nhỏ hẹp, cỡ vài
trăm mét
Phạm vi rộng khắp (có thể
được mở rộng thêm rất lớn)
Tốc độ
Đường truyền tốc độ cao
4Mb trở lên 16mb,
100mb…
Đường truyền tốc độ thấp
1,544; 2,048Mb/s
Tỷ suất lỗi mạng
Thấp (10
-7
-:- 10

-8
) Cao (10
-6
-:- 10
-7
)
Đơn vị chủ quản
Một đơn vị độc lập quản lý Nhiều đơn vị cùng quản lý
Đường đi của thông
tin trên mạng Đơn giản, thường chỉ là một
loại dữ liệu
Dữ liệu đa dạng, phức tạp cả về
âm thanh, hình ảnh, dữ liệu
khác…

17
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
PH ẦN IV
MỘT SỐ VÍ DỤ VỀ MẠNG
PHÂN LOẠI THEO PHẠM VI HOẠT Đ ỘNG
Ví dụ một số mạng LAN và WAN
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều mạng máy tính, chúng được sử dụng để phục
vụ cho nhiều lĩnh vực khác nhau như nghiên cứu khoa học, truyền dữ liệu, kinh doanh.
Vì vậy nên các mạng này cũng rất đa dạng về chủng loại. Trong phần này ta xem xét
một số mạng LAN và WAN thông dụng.
I. Mạng Novell NetWare
Được đưa ra bởi hãng Novell từ những năm 80 và đã được sử dụng nhiều trong
các mạng cục bộ với số lượng ước tính hiện nay vào khoảng 50 -60%. Hệ điều hành
mạng Novell NetWare là một hệ điều hành có độ an toàn cao đặc biệt là với các mạng
có nhiều người sử dụng. Hệ điều hành mạng Netware khá phức tạp để lắp đặt và quản

lý nhưng nó là một hệ điều hành mạng đang được dùng phổ biến nhất hiện nay. Hệ
điều hành mạng Novell NetWare được thiết kế như một hệ thống mạng client-server
trong đó các máy tính được chia thành hai loại:
Những máy tính cung cấp tài nguyên cho mạng gọi là server hay còn gọi là máy
chủ mạng.
Máy sử dụng tài nguyên mạng gọi là clients hay còn gọi là trạm làm việc.
Các server (File server) của Netware không chạy DOS mà bản thân Netware là
một hệ điều hành cho server điều đó đã giải phóng Netware ra khỏi những hạn chế của
DOS. Server của Netware dùng một cấu trúc hiệu quả hơn DOS để tổ chức các tập tin
và thư mục, với Netware, chúng ta có thể chia mỗi ổ đĩa thành một hoặc nhiều tập đĩa
(volumes), tương tự như các ổ đĩa logic của DOS. Các tập đĩa của Novell có tên chứ
không phải là chữ cái. Tuy nhiên, để truy cập một tập đĩa của Netware từ một trạm làm
việc chạy DOS, một chữ cái được gán cho tập đĩa.
Với các hệ điều hành Netware 3.x và 4.x các server phải được dành riêng, trong
đó chúng ta không thể dùng một file server làm thêm việc cùa Workstation, tuy điều
đó tốn kém hơn vì phải mua một máy tính để làm server nhưng nó có hiệu quả hơn vì
máy tính server có thể tập trung để phục vụ mạng. Còn với Netware 2.x thì có thể lưa
chọn trong đó một file server có thể làm việc như một Workstation như hai tiến trình
Server và Workstation tách tời nhau hoàn toàn.
Các trạm làm việc trên một mạng Netware có thể là các máy tính DOS, chạy
OS/2 hoặc các máy Macintosh. Nếu mạng vừa có máy PC và Macintosh thì Netware
có thể là sự lựa chọn tốt.
Tất cả các phiên bản của Netware đều có đặc trưng được gọi là tính chịu đựng sai
hỏng của hệ (System Fault Tolerance SFT) được thiết kế để giữ cho mạng vẫn chạy
ngay cả khi phần cứng có sai hỏng.
NetWare là một hệ điều hành nhưng không phải là một hệ điều hành đa năng mà
tập trung chủ yếu cho các ứng dụng truy xuất tài nguyên trên mạng, nó có một tập hợp

18
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3

xác định saün các dịch vụ dành cho người sử dụng. Tại đây Novell NetWare có một hệ
thống các yêu cầu và trả lời mà Client và Server đều hiểu, nó bao gồm:
Nhóm chương trình trên máy người dùng: Hệ điều hành trạm, các giao diện cho
phép nhười sử dụng chi xuất các tài nguyên của mạng như là các tài nguyên của máy
cục bộ, chương trình truyền số liệu qua mạng.
Hệ điều hành trên máy máy chủ: Chương trình thực hiên từ DOS, Lưu các thông
số của DOS, chuyển CPU của server qua chế độ protectied mode, quản lý việc sử dụng
tài nguyên của mạng cho người sử dụng.
Các tiện ích trên mạng: dành cho người sử dụng và người quản trị mạng.
Novell NetWare hỗ trợ các giao thức cơ bản sau:
Giao thức truy xuất (Access Protocol) (Ethernet, Token Ring, ARCnet, ProNET-
10, FDDI)
Giao thức trao đổi gói tin trên mạng (Internet Packet Exchange -IPX)
Giao thức thông tin tìm đường (Routing Information Protocol - RIP)
Giao thức thông báo dịch vụ (Sevice Advertising Protocol - SAP)
Giao thức nhân NetWare (NetWare Core Protocol - NCP) cho phép người dùng
truy xuất vào file server
Do nhu cầu cần thích nghi với nhiều kiểu mạng và để dễ dàng nâng cấp và quản
lý, Novell NetWare cũng được chia thành nhiều tầng giao thức tương tự cấu trúc 7
tầng cuả hệ thống mở OSI.
Hình 1: Cấu trúc của Hệ điều hành Novell NetWare
II. Mạng Windows NT
Mạng dùng hệ điều hành Windows NT được đưa ra bởi hãng Microsoft với
phiên bản mới nhất hiện nay là Windows NT 5.0, cụm từ windows NT được hiểu là
công nghệ mạng trong môi trường Windows (Windows Network Technology). Hiện
mạng Windows NT đang được đánh giá cao và được đua vào sử dụng ngày một nhiều.
Windows NT là một hệ điều hành đa nhiệm, đa xử lý với địa chỉ 32 bit bộ nhớ. Ngoài
việc yểm trơ các ứng dụng DOS, Windows 3.x, Win32 GUI và các ứng dụng dựa trên
ký tự, Windows NT còn bao gồm các thành phần mạng, cơ chế an toàn, các công cụ


19
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
quản trị có khả năng mạng diện rộng, các phần mềm truy cập từ xa. Windows NT cho
phép kết nối với máy tính lớn, mini và máy Mac.
Hệ điều hành mạng Windows NT có thể chay trên máy có một CPU cũng như
nhiều CPU. Hệ điều hành mạng còn có đưa vào kỹ thuật gương đĩa qua đó sử dụng tốt
hệ thống nhiều đĩa nâng cao năng lực hoạt động. Hệ điều hành mạng Windows NT
đảm bảo tránh được những người không được phép vào trong hệ thống hoặc thâm
nhập vào các file và chương trình trên đĩa cứng. Hệ điều hành mạng Windows NT
cung cấp các công cụ để thiết lập các lớp quyền dành cho nhiều nhiệm vụ khác nhau
làm cho phép xây dựng hệ thống an toàn một cách mềm dẻo. Windows NT được thiết
kế dành cho giải pháp nhóm (Workgroup) khi bạn muốn có kiểm soát nhiều hơn đối
với mạng ngang hàng (như Windows For Workgroup, LANtastic hay Novell lite).
Ngoài ra chức năng mới của Windows NT server là mô hình vùng (Domain) được
thiết lập cho các mạng lớn với khả năng kết nối các mạng toàn xí nghiệp hay liên kết
các kết nối mạng với các mạng khác và những công cụ cần thiết để điều hành.
Hình 2: Cấu trúc của Hệ điều hành Windows NT
III. Mạng Apple talk
Đây là mạng được thiết lập tại Mỹ vào giữa những năm 60 khi bộ quốc phòng
Mỹ muốn có một mạng dùng để ra lệnh và kiểm soát mà có khả năng sống còn cao
trong trường hợp có chiến tranh hạt nhân. Những mạng sử dụng đường điện thoại
thông thường vào lúc đó tỏ ra không đủ an toàn khi mà một đường dây hay một tổng
đài bị phá hủy cũng có thể dẫn đến mọi cuộc nói chuyện hay liên lạc thông qua nó bị
gián đoạn, việc đó còn đôi khi dẫn đến cắt rời liên lạc.
Để làm được điều này khi bộ quốc phòng Mỹ đưa ra chương trình ARPA
(Advanced Research Projects Agency) với sự tham gia của nhiều trường đại học và
công ty dưới sự quản lý của khi bộ quốc phòng Mỹ.
Vào đầu những năm 1960 những ý tuởng chủ yếu của chuyển mạch gói đã được
Paul Baran công bố và sau khi tham khảo nhiều chuyên gia thì chương trình ARPA
quyết định mạng tương lai của khi bộ quốc phòng Mỹ sẽ là mạng chuyển mạch gói và

nó bao gồm một mạng liên kết và các trạm (host). Mạng liên kết bao gồm các máy tính
dùng để liên kết các đường truyền dữ liệu được gọi là các điểm trung chuyển thông tin
(IMP - Interface Message Processor).

20
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
Một IMP sẽ được liên kết với ít nhất là hai IMP khác với độ an toàn cao, các
thông tin được chuyển trên mạng liên kết dưới dạng các gói dữ liệu tách rời, có nghĩa
là khi có một số đường và nút bị phá hủy thì các gói tin tự động được chuyển theo
những đường khác. Mỗi nút một máy tính của hệ thống bao gồm một trạm có được kết
nối với một IMP trên mạng, nó gửi thông tin của mình đến IMP để rồi sau đó IMP sẽ
phân gói, rồi lần lượt gửi các gói tin theo những đường mà nó lựa chọn để đến đích.
Tháng 10 năm 1968 ARPA quyết định lựa chọn hãng BBN một hãng tư vấn tại
Cambridge, Massachsetts làm tổng thầu. Lúc đó BBN đã lựa chon máy DDP-316 làm
IMP, các IMP được nối với đường thuê bao 56 Kbps từ các công ty điện thoại. Phần
mềm được chia làm hai phần: phần liên kết mạng và phần cho nút, với phần mềm cho
liên kết mạng bao gồm phần mềm tại các IMP đầu cuối và các IMP trung gian, các
giao thức liên kết IMP với khả năng đảm bảo an toàn cao.
Phần mềm tại nút bao gồm phần mềm danh cho việc liên kết giữa nút với IMP,
các giao thức giữa các nút với nhau trong quá trình truyền dữ liệu.
Hình 4: Cấu trúc ban đầu của mạng ARPANET
Vào tháng 10 năm 1969 mạng ARPANET bắt đầu được đưa vào hoạt động thử
nghiệm với 4 nút là những trường đại học và trung tâm nghiên cứu tham gia chính vào
dự án, mạng phát triển rất nhanh đến tháng 3 năm 1971 đã có 15 nút và tháng 9 năm
1972 đã có tới 35 nút. Các cải tiến tiếp theo cho phép nhiều trạm có thể liên kết với
một IMP do vậy sẽ tiết kiệm tài nguyên và một trạm có thể liên kết với nhiều IMP
nhằm tránh việc IMP hư hỏng làm gián đoạn liên lạc.
Cùng với việc phát triển các nút ARPA cũng dành ngân khoản cho phát triển các
mạng truyền dữ liệu dùng kỹ thuật vệ tinh và dùng kỹ thuật radio. Điều đó cho phép
thiết lập các nút tại những điễm các khoảng cách rất xa. Về các giao thức truyền thông

thì sau khi thấy rằng các giao thức của mình không chạy được trên nhiều liên kết mạng
vào năm 1974 ARPA đã đầu tư nghiên cứu hệ giao thức TCP/IP và dựa trên hợp đồng
giữa BBN và Trường đại học tổng hợp Berkeley - California các nhà nghiên cứu của
trường đại học đã viết rất nhiều phần mềm, chương trình quản trị trên cơ ở hệ điều
hành UNIX. Dựa trên các phần mềm mới về truyền thông trên cơ sở TCP/IP đã cho
phép dễ dành liên kết các mạng LAN vào mạng ARPANET. Vào năm 1983 khi mạng
đã hoạt động ổn địng thì phần quốc phòng của mạng (gồm khoảng 160 IMP với 110
IMP tại nước Mỹ và 50 IMP ở nước ngoài, hàng trăm nút) được tách ra thành mạng
MILNETvà phần còn lại vẫn tiếp tục hoạt động như là một mạng nghiên cứu.

21
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
Trong những năm 1980 khi có nhiều mạng LAN được nối vào ARPANET để
giảm việc tìm kiếm địa chỉ trên mạng người ta chia vùng các máy tính đưa tên các máy
vào địa chỉ IP và xây dựng hệ quản trị cơ sở phân tán các tên các trạm của mạng Hệ cơ
sở dữ liệu đó gọi là DNS (Domain Naming System) trong đó có chức mọi thông tin
liên quan đến tên các trạm.
Vào năm 1990 với sự phát triển của nhiều mạng khác mà ARPANET là khởi
xướng thì ARPANET đã kết thúc hoạt động của mình, tuy nhiên MILNET vẫn hoạt
động cho đến ngày nay.
IV. Mạng NFSNET
Vào cuối những năm 1970 khi Quỹ khoa học quốc gia Hoa kỳ (NFS - The U.S.
National Science Foundation) thấy được sự thu hút của ARPANET trong nghiên cứu
khoa học mà qua đó các nhà khoa học có thể chia sẻ thông tin hay cùng nhau nghiên
cứu các đề án. Tuy nhiên việc sử dụng ARPANET cần thông qua bộ quốc phòng Mỹ
với nhiều hạn chế và nhiều cơ sở nghiên cứu khoa học không có khả năng đó. Điều đó
khiến NFS thiết lập một mạng ảo có tên là CSNET trong đó sử dụng các máy tính tại
công ty BBN cho phép các nhà nghiên cứu có thể kết nối vào để tiếp tục nối với mạng
ARPANET hay gửi thư điện tử cho nhau. Vào năm 1984 NFS bắt đầu nghiên cứu tới
việc thiết lập một mạng tốc độ cao dành cho các nhóm nghiên cứu khoa học nhằm thay

thế mạng ARPANET, bước đầu NFS quyết định xây dựng được đường trục truyền số
liệu nối 6 máy tính lớn (Supercomputer) tại 6 trung tâm máy tính. Tại mỗi trung tâm
máy tính lớn tại đây được nối với một máy mini loại LSI-11 và các máy mini được nối
với nhau bằng đường thuê bao 56 Kbps tương tự như kỹ thuật đã sử dụng ở mạng
ARPANET. Đồng thời NFS cũng cung cấp ngân khoản cho khoảng 20 mạng vùng để
liên kết với các máy tính lớn trên và qua đó tới các máy tính lớn khác. Toàn bộ mạng
bao gồm mạng trục và các mạng vùng được gọi là NFSNET, mạng NFS có được kết
nối với mạng ARPANET.
Mạng NFS được phát triển rất nhanh, sau một thời gian hoạt động đường trục
chính được thay thế bằng đường cáp quang 448 Kbps và các máy IBM RS6000 được
sử dụng làm công việc kết nối. Đến năm 1990 đường trục đã được nâng lên đến 1.5
Mbps.
Với việc phát triển rất nhanh và NFS thấy rằng chính quyền không có khả năng
tiếp tục tài trợ nhưng do các công ty kinh doanh không thể sử dụng mạng NFSNET
(do bin cấm theo luật) nên NFS yểm trợ các công ty MERIT, MCI, IBM thành lập một
công ty không sinh lợi (nonprofit corporation) có tên là ANS (Advanced Networks and
Services) nhằm phát triển việc kinh doanh hóa mạng. ASN tiếp nhận mạng NFSNET
và bắt đầu nậng cấp đường trục lên từ 1.5 Mbps lên 45 Mbps để thành lập mạng
ANSNET.
Vào năm 1995 khi các công ty cung cấp dịch vụ liên kết phát triển khắp nơi thì
mạng trục ANSNET không còn cần thiết nữa và ANSNET được bán cho công ty
America Online. Hiện nay các mạng vùng của NFS mua các dịch vụ truyền dữ liệu để
liên kết với nhau, mạng NFS đang sử dụng dịch vụ của 4 mạng truyền dữ liệu là
PacBell, Ameritech, MFS, Sprint mà qua đó các mạng vùng NFS có thể lựa chọn để
kết nối với nhau.

22
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
V. Mạng Internet
Cùng với sự phát triển của NFSNET và ARPANET nhất là khi giao thức TCP/IP

đã trở thành giao thức chính thước duy nhất trên các mạng trên thì số lượng các mạng,
nút muốn tham gia kết nối vào hai mạng trên đã tăng lên rất nhanh. Rất nhiều các
mạng vùng được kết nối với nhau và còn liên kết với các mạng ở Canada, châu Aâu.
Vào khoảng giữa những năm 1980 người ta bắt đầu thấy được sự hình thành của
một hệ thống liên mạng lớn mà sau này được gọi là Internet. Sự phát triển của Internet
được tính theo cấp số nhân, nếu như năm 1990 có khoảng 200.000 máy tính với 3.000
mạng con thì năm 1992 đã có khoảng 1.000.000 máy tính được kết nối, đến năm 1995
đã có hàng trăm mạng cấp vùng, chục ngàn mạng con và nhiều triệu máy tính. Rất
nhiều mạng lớn đang hoạt động cũng đã được kết nối vào Internet như các mạng
SPAN, NASA network, HEPNET, BITNET, IBM network, EARN. Việc liên kết các
mạng được thực hiện thông qua rất nhiều đường nối có tốc độ rất cao.
Hiện nay một máy tính được gọi là thành viên của Internet nếu máy tính đó có
giao thức truyền dữ liệu TCP/IP, có một địa chỉ IP trên mạng và nó có thể gửi các gói
tin IP đến tất cả các máy tính khác trên mạng Internet.
Tuy nhiên trong nhiều trường hợp thông qua một nhà cung cấp dịch vụ Internet
người sử dụng kết nối máy của mình với máy chủ của nhà phục vụ và được cung cấp
một địa chỉ tạm thời trước khi khai thác các tài nguyên của Internet. Máy tính của
người đó có thể gửi các gói tin cho các máy khác bằng địa chỉ tạm thời đó và địa chỉ
đó sẽ trả lại cho nhà cung cấp khi kết thúc liên lạc. Vì máy tính của người đó sử dụng
trong thời gian liên kết với Internet cũng có một địa chỉ IP nên người ta vẫn coi máy
tính đó là thành viên của Internet.
Vào năm 1992 cộng đồng Internet đã ra đời nhằm thúc đẩy sự phát triển của
Internet và điều hành nó. Hiện nay Internet có 5 dịch vụ chính:
Thư điện tử (Email): đây là dịch vụ đã có từ khi mạng ARPANET mới được thiết
lập, nó cho phép gửi và nhận thư điến tử cho mọi thành viên khác trong mạng.
Thông tin mới (News): Các vân đề thời sự được chuyển thành các diễn đàn cho
phép mọi người quan tâm có thể trao đổi các thông tin cho nhau, hiện nay hiện nay có
hàng nghìn diễ đàn về mọi mặt trên Internet.
Đăng nhập từ xa (Remote Login): Bằng các chương trình như Telnet, Rlogin
người sử dụng có thể từ một trạm của Internet đăng nhập (logon) vào một trạm khác

nếu như người đó được đăng ký trên máy tính kia.
Chuyển file (File transfer): Bằng chương trình FTP người sử dụng có thể chép các
file từ một máy tính trên mạng Internet tới một máy tính khác. Người ta có thể chép
nhiều phần mềm, cơ sở dữ liệu, bài báo bằng cách trên.
Dịch vụ WWW (World Wide Web): WWW là một dịch vụ đặc biệt cung cấp
thông tin từ xa trên mạng Internet. Các tập tin siêu văn bản được lưu trữ trên máy chủ
sẽ cung cấp các thông tin và dẫn đường trên mạng cho phép người sử dụng dễ dàng
Truy cập các tập tin văn bản, đồ họa, âm thanh.

23
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
Hình5: Ví dụ một trang Web cho phép dễ dàng khai thác các trang Web khác
Người sử dụng nhận được thông tin dưới dạng các trang văn bản, một trang là
một đơn thể nằm trong máy chu. Đây là dịch vụ đang mang lại sức thu hút to lớn cho
mạng Internet, chúng ta có thể xây dựng các trang Web bằng ngôn ngữ HTML
(Hypertext Markup Language) với nhiều dạng phong phú như văn bản, hình vẽ, video,
tiếng nói và có thể có các kết nối với các trang Web khác. Khi các trang đó được đặt
trên các máy chủ Web thì thông qua Internet người ta có thể xem được sự thể hiện của
các trang Web trên và có thể xem các trang web khác mà nó chỉ đến.
Các phần mềm thông dụng được sử dụng hiện nay để xây dựng và duyệt các
trang Web là Mosaic, Navigator của Netscape, Internet Explorer của Microsoft, Web
Access của Novell.

24
- CÁC LOẠI MẠNG MÁY TÍNH (THEO DIỆN HOẠT ĐỘNG) - NHÓM 3
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Giáo trình mạng máy tính
Thầy Vũ Lâm Khánh-Trường CĐ
Sư Phạm Hà Nội

2.
Tìm hiểu mạng máy tính
-Trần Việt (1998), Nhà xuất bản
Giáo dục
3. Mạng cho doanh nghiệp nhỏ
(2004)
Nhà xuất bản Thống kê
4. Giáo trình hệ thống mạng máy
tính CCNA
Nhà xuất bản Lao động và Xã hội.
5.
Giáo trình thiết kế và xây dựng
mạng LAN và WAN
-Viện Công Nghệ Thông Tin
(2004)
6.
7.

25

×