Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp thị xã Phúc yên - tỉnh Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 115 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




NGUYỄN VŨ ĐẠT



ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
THỊ XÃ PHÚC YÊN – TỈNH VĨNH PHÚC


LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI - 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM



NGUYỄN VŨ ĐẠT



ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP


THỊ XÃ PHÚC YÊN – TỈNH VĨNH PHÚC



CHUYÊN NGÀNH : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
MÃ SỐ : 60.85.01.03



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN THỊ VÒNG


HÀ NỘI - 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn
này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được
chỉ rõ nguồn gốc./.

Tác giả luận văn





Nguyễn Vũ Đạt

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình, sự đóng
góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Vòng đã tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự góp ý chân thành của các Thầy, Cô giáo
Khoa Quản lý đất đai, Ban quản lý đào tạo - Học viện nông nghiệp Việt Nam đã
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện và hoàn thành đề tài.
Tôi xin trân trọng cám ơn Uỷ ban nhân dân thị xã Phúc Yên, tập thể phòng
Tài nguyên và Môi trường, phòng Thống kê, phòng Quản lý đô thị, cấp uỷ, chính
quyền và bà con nhân dân các xã, phường trên địa bàn thị xã Phúc Yên đã giúp
đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài trên địa bàn.
Tôi xin cám ơn đến gia đình, người thân và bạn bè đã động viên, giúp đỡ,
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Vĩnh Phúc, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn



Nguyễn Vũ Đạt



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG vi
DANH MỤC HÌNH vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT viii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2 Mục đích, yêu cầu 2
3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
Chương 1.TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1 Đất nông nghiệp và quan điểm sử dụng đất nông nghiệp 3
1.1.1 Khái quát chung về tình hình sử dụng đất nông nghiệp 3
1.1.2 Sử dụng đất theo quan điểm phát triển bền vững 6
1.2 Những lý luận cơ bản về hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất nông nghiệp 9
1.2.1 Các quan điểm cơ bản về hiệu quả kinh tế sử dụng đất 9
1.2.2 Phân loại hiệu quả sử dụng đất 11
1.2.3 Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 14
1.2.4 Xác định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 17
1.3 Nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam 21
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 27
2.1 Đối tượng, địa điểm nghiên cứu 27

2.2 Nội dung nghiên cứu 27
2.2.1Điều tra, đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội liên quan đến sử dụng
đất và sản xuất nông nghiệp TX Phúc Yên 27
2.2.2 Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp TX Phúc Yên 27
2.2.3 Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 27
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

2.2.4 Đề xuất hướng sử dụng đất nông nghiệp bền vững 27
2.3 Phương pháp nghiên cứu 28
2.3.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu 28
2.3.2. Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất 28
2.3.3 Phương pháp điều tra thu thập số liệu 29
2.3.4 Phương pháp thống kê, xử lý số liệu 29
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 30
3.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội trên địa bàn thị xã. 30
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 30
3.1.2. Các nguồn tài nguyên 32
3.1.3. Đánh giá tổng hợp về điều kiện tự nhiên thị xã Phúc Yên 35
3.1.4. Điều kiện kinh tế - xã hội 36
3.2. Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp của Phúc Yên 52
3.2.1. Tình hình quản lí đất đai 52
3.2.2. Hiện trạng sử dụng đất 52
3.2.3. Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn thị xã. 53
3.3. Xác định, mô tả và đánh giá các LUT hiện tại 56
3.3.1 Phân vùng sản xuất nông nghiệp 56
3.3.2. Mô tả các loại hình hình sử dụng đất sản xuất nông nghiệp chính 56
3.4. Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất sản xuất nông nghiệp 60
3.4.1. Hiệu quả kinh tế 60
3.5 Định hướng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp 77

3.5.1 Những quan điểm nâng cao sử dụng đất nông nghiệp 77
3.5.2 Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp 78
3.6 Đề xuất các loại hình sử dụng đất bền vững trên địa bàn huyện 80
3.6.1 Quan điểm đề xuất 80
3.6.2 Đề xuất các loại hình sử dụng đất nông nghiệp 81
3.7 Một số giải pháp chủ yếu để thực hiện định hướng 82
3.7.1 Biện pháp cải tạo đất, thủy lợi và môi trường 82
3.7.2 Giải pháp về thị trường tiêu thụ 84
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

3.7.3 Biện pháp khuyến nông và áp dụng khoa học công nghệ 85
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 86
1. Kết luận 86
2. Đề nghị 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
PHỤ LỤC 91
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang


Bảng 3.1: Tăng trưởng kinh tế của thị xã thời kỳ 2008 - 2013 36
Bảng 3.2: Cơ cấu kinh tế của thị xã thời kỳ 2008 - 2013 37
Bảng 3.3: Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của thị xã trong tỉnh Vĩnh Phúc 41
Bảng 3.4: Hiện trạng sử dụng đất thị xã Phúc Yên năm 2013 53
Bảng 3.5: Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp thị xã Phúc Yên


năm 2013 54
Bảng 3.6: Các loại hình sử dụng đất chính của Phúc Yên 56
Bảng 3.7: Hiệu quả kinh tế một số loại hình sử dụng đất ở tiểu vùng 1 62
Bảng 3.8: Hiệu quả kinh tế một số loại hình sử dụng đất ở tiểu vùng 2 63
Bảng 3.9: Mức đầu tư lao động và thu nhập trên ngày công lao động ở tiểu vùng
1 69
Bảng 3.10: Mức đầu tư lao động và thu nhập trên ngày công lao động ở tiểu
vùng 2 69
Bảng 3.11: Phân cấp chỉ tiêu đánh hiệu quả của các loại hình sử dụng đất 73
Bảng 3.12: Đánh giá khả năng sử dụng bền vững các loại hình

sử dụng đất 74

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC HÌNH

STT Tên hình Trang
Hình 3.1: Cơ cấu sử dụng đất thị xã Phúc Yên năm 2013 53
Hình 3.2: Đất 2 vụ lúa ở xã Tiền Châu 66
Hình 3.3: Đất 2 màu – 1 lúa ở xã Nam Viêm 66
Hình 3.4: Đất trồng cây ăn quả ở xã Cao Minh 67
Hình 3.5: Đất chuyên màu ở phường Phúc Thắng 67

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CNH – HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
CPTG : Chi phí trung gian
CLĐ : Công lao động
FAO : Tổ chức Nông nghiệp và lương thực thế giới
GDP : Tổng thu nhập quốc nội
GTSX : Giá trị sản xuất
GTGT : Giá trị gia tăng
HTX : Hợp tác xã
KHKT : Khoa học kỹ thuật
LMU : Đơn vị bản đồ đất đai
LUS : Hệ thống sử dụng đất
LUT : Loại hình sử dụng đất
TNHH : Thu nhập hỗn hợp
USD : Đô la Mỹ
VAC : Vườn ao chuồng
WTO : Tổ chức thương mại thế giới

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp có vai trò vô cùng quan trọng trong sự
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trong khi, xã hội ngày càng phát
triển, dân số tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày càng tăng về lương thực,
thực phẩm, các sản phẩm công nghiệp; các nhu cầu văn hoá, xã hội, nhu cầu về
đất cho xây dựng v.v Tất cả những vấn đề trên đã gây ra áp lực ngày càng lớn
lên đất đai, làm cho quỹ đất nông nghiệp luôn có nguy cơ bị giảm diện tích, trong

khi khả năng khai hoang, mở rộng lại rất hạn chế.
Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là việc làm hết sức quan trọng
và cần thiết, đảm bảo cho sự phát triển của sản xuất nông nghiệp cũng như sự
phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp nhằm phát hiện ra các yếu tố tích cực và hạn chế, làm cơ sở để định
hướng phát triển sản xuất nông nghiệp, thiết lập các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Phúc Yên là thị xã (TX) nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Vĩnh Phúc, với vị
trí địa lý, điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Từ
khi được tách khỏi huyện Mê Linh năm 2003 trên địa bàn thị xã thì một diện tích
không nhỏ đất nông nghiệp đã được chuyển sang đất phi nông nghiệp. Vấn đề đặt
ra là phải xác định được hướng sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả, đồng thời định
hướng sử dụng đất đai cho thị xã là vấn đề hết sức cần thiết.
Phúc Yên có hai dạng địa hình chính: vùng bán sơn địa, sản xuất nông
nghiệp chủ yếu là trồng rừng, cây công nghiệp và cây ăn quả; vùng đồng
bằng, sản xuất truyền thống ở đây chủ yếu là 2 vụ lúa, một phần diện tích đất
cao có thể trồng một số loại rau, màu (ngô, lạc, đỗ tương, khoai lang, rau các
loại ). Những diện tích thấp trũng chủ yếu được sử dụng để nuôi trồng thủy
sản kết hợp với chăn nuôi thủy cầm. Sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ
trong cơ cấu kinh tế của thị xã.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

Trong thời gian qua việc chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp sang
các mục đích khác của thị xã diễn ra mạnh mẽ, thiếu kiểm soát, không theo quy
hoạch làm đất sản xuất nông nghiệp liên tục giảm. Hiệu quả kinh tế của các loại
hình sử dụng đất trên địa bàn thị xã chưa cao, các loại hình sản xuất tại Phúc Yên
phần lớn còn mang tính tự phát theo phương thức sản xuất còn nhỏ lẻ, chưa tương
xứng với tiềm năng đất đai của thị xã, thiếu tính bền vững do môi trường đất, nước
bị ảnh hưởng của quá trình chuyển đổi sản xuất và quá trình đô thị hóa.

Những thách thức, tồn tại nêu trên đã đặt ra vấn đề cần xây dựng cơ chế,
chính sách nhằm quản lý, sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất nông nghiệp của
thị xã theo quan điểm sinh thái và phát triển có hiệu quả.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, được sự phân công của khoa Tài nguyên
và Môi trường - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội và sự hướng dẫn của
PGS.TS Nguyễn Thị Vòng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả
sử dụng đất nông nghiệp TX Phúc Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc”.
2 Mục đích, yêu cầu
a. Mục đích
Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn TX Phúc Yên -
Tỉnh Vĩnh Phúc.
Đề xuất hướng sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả trên địa bàn nghiên cứu.
b. Yêu cầu
Nắm vững điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của thị xã.
Điều tra, đánh giá các loại hình sử dụng đất nông nghiệp của thị xã.
Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp dựa trên các tiêu chí sử dụng
đất (kinh tế - xã hội - môi trường).
Định hướng sử dụng đất nông nghiệp phải có tính khả thi.
3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a. Ý nghĩa khoa học
Góp phần xây dựng hệ thống lý luận trong việc đánh giá các loại hình sử
dụng đất có hiệu quả cho vùng đồng bằng sông Hồng.
b. Ý nghĩa thực tiễn
Xác định được các loại hình sử dụng đất, phục vụ cho định hướng sử dụng
đất nông nghiệp của TX Phúc Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

Chương 1.TỔNG QUAN TÀI LIỆU



1.1 Đất nông nghiệp và quan điểm sử dụng đất nông nghiệp
1.1.1 Khái quát chung về tình hình sử dụng đất nông nghiệp
Trong sản xuất nông nghiệp thì đất đai là nhân tố vô cùng quan trọng.
Trên thế giới, mặc dù sự phát triển của sản xuất nông nghiệp của các nước không
giống nhau nhưng tầm quan trọng của nó đối với xã hội thì quốc gia nào cũng
thừa nhận. Hầu hết các nước đều coi nông nghiệp là cơ sở nền tảng của sự phát
triển. Tuy nhiên, khi dân số ngày một tăng nhanh thì nhu cầu lương thực, thực
phẩm là một sức ép rất lớn. Trong khi đó đất đai lại có hạn, đặc biệt quỹ đất nông
nghiệp lại có xu hướng giảm do chuyển sang các mục đích phi nông nghiệp. Để
đảm bảo an ninh lương thực loài người phải tăng cường các biện pháp khai thác,
khai hoang đất đai phục vụ cho mục đích nông nghiệp. Vì vậy đất đai là đối
tượng bị khai thác triệt để, trong khi đó các biện pháp bảo vệ và tăng độ phì cho
đất không được chú trọng dẫn tới hậu quả môi trường sinh thái bị phá vỡ, hàng
loạt diện tích đất bị thoái hóa trên phạm vi toàn thế giới, người ta ước tính có tới
15% tổng diện tích đất trên trái đất bị thoái hoá do những hành động bất cẩn của con
người gây ra.
Toàn bộ đất nông nghiệp của thế giới chừng khoảng 3,3 tỉ ha (chiếm
khoảng 22% tổng diện tích đất liền); nhưng có khoảng 78% (xấp xỉ 11,7 tỷ ha)
không dùng được vào nông nghiệp. Đất trồng trọt là đất đang sử dụng, cũng có
loại đất hiện tại chưa sử dụng nhưng có khả năng trồng trọt. Đất đang trồng trọt
cả thế giới có khoảng 1,5 tỉ ha (chiếm xấp xỉ 10,8% tổng diện tích đất đai và 46%
đất đang có khả năng trồng trọt). Như vậy, còn 54% đất có khả năng trồng trọt
chưa được khai thác. Tiềm năng đất nông nghiệp của hành tinh chúng ta khoảng
3 - 5 tỷ ha. Trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, con người đã làm hư hại khoảng
1,4 tỷ ha đất và hàng năm có khoảng 6 - 7 triệu ha đất nông nghiệp bị loại bỏ do
xói mòn và thoái hóa. Với năng suất trung bình hiện nay để thỏa mãn nhu cầu về
sản phẩm nông nghiệp phải có 0,40 ha đất canh tác trên đầu người. Như vậy,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4


hàng năm trên thế giới phải khai thác để đưa vào sản xuất nông nghiệp khoảng
30 triệu ha. Trong thực tế để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người về
sản phẩm nông nghiệp phải đi theo hai hướng: (1) Thâm canh tăng vụ, tăng năng
suất cây trồng, (2) Mở rộng diện tích đất nông nghiệp. Dù đi theo hướng nào
cũng phải tiến hành điều tra, nghiên cứu đất đai để nắm vững số lượng và chất
lượng đất đai, bao gồm: điều tra lập bản đồ đất, đánh giá hiện trạng sử dụng đất,
đánh giá phân hạng đất và quy hoạch sử dụng đất hợp lý (Dent.D, 1986, 1987,
1992, Dugan.J, 1990; FAO, 1976, 1983, 1985, 1992). Trong khoảng 30 năm trở
lại đây tổ chức FAO đã có những hoạt động về vấn đề nghiên cứu đất, những
hoạt động này nhằm vào 4 hướng chủ yếu: (1) Lập bản đồ tài nguyên đất; (2)
Đánh giá đất đai; (3) Nghiên cứu hiệu suất tiềm năng đất đai; (4) Sử dụng, quản
lý và bảo vệ đất. Công tác nghiên cứu chuyên đề về đất và sử dụng đất đã được
triển khai từ đầu thế kỷ 20 đến nay cùng với công tác lập bản đồ đất. Trong đó
công tác đánh giá hiệu quả sử dụng đất đặc biệt được chú trọng (Viện thổ nhưỡng
nông hoá, 1999, kết quả nghiên cứu khoa học).
Trên thế giới đất đai phân bố ở các châu lục không đều. Tuy có diện tích
đất nông nghiệp khá cao so với các châu khác nhưng Châu á lại có tỉ lệ diện tích
đất nông nghiệp trên diện tích tự nhiên thấp và lại là khu vực có tỉ lệ dân số đông
trên thế giới. Có các quốc gia dân số đông nhất nhì thế giới như: Trung Quốc, ấn
Độ, Indonexia. ở Châu á đất đồi núi chiếm 35% tổng diện tích, tiềm năng đất
trồng trọt nhờ nước trời là khá lớn khoảng 407 triệu ha, trong đó xấp xỉ 282 triệu
ha đang được trồng trọt.
Theo tài liệu của FAO/UNESCO (FAO, 1976, 1983, 1985, 1992) (: trên
thế giới hàng năm có khoảng 15% diện tích đất bị suy thoái vì lý do tác động con
người, trong đó suy thoái vì xói mòn do nước chiếm khoảng 55,7% diện tích, do
gió 28% diện tích, mất chất dinh dưỡng do rửa trôi 12,2% diện tích. Ở Trung
Quốc, diện tích đất bị suy thoái là 280 triệu ha, chiếm 30% lãnh thổ, trong đó có
36,67 triệu ha đất đồi bị xói mòn nặng; 6,67 triệu ha đất bị chua mặn; 4 triệu ha
đất bị úng, lầy. Tại khu vực châu Á Thái Bình Dương có khoảng 860 ha đất đã bị

hoang mạc hoá làm ảnh hưởng đến đời sống của 150 triệu người. Theo kết quả
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

điều tra của FAO, 1992 (FAO, 1992), do chế độ canh tác không tốt đã gây xói
mòn đất nghiêm trọng dẫn đến suy thoái đất, đặc biệt ở vùng nhiệt đới và vùng
đất dốc. Mỗi năm lượng đất bị xói mòn tại các châu lục là: châu Âu, châu Úc,
châu Phi: 5 -10 tấn/ha, châu Mỹ: 10 - 20 tấn/ha; châu Á: 30 tấn/ha.
Đông nam á là một khu vực đặc biệt, từ số liệu của UNDP năm 1995 []
cho ta thấy đây là khu vực dân số khá đông trên thế giới nhưng diện tích canh tác
thấp: bình quân đất canh tác trên đầu người của các nước như sau: Indonesia
0,12ha; Malaysia 0,27ha; Philipin 0,13ha; Thái Lan 0,42ha; Việt Nam 0,1ha.
Như vậy, chỉ có Thái Lan là diện tích đất canh tác trên đầu người khá nhất và
Việt Nam là quốc gia đứng vào hàng thấp nhất trong số các quốc gia ASEAN.
Những vấn đề môi trường đã trở nên mang tính toàn cầu và được phân
thành 2 loại chính: một loại gây ra bởi công nghiệp hoá và các kỹ thuật hiện đại,
loại khác gây ra bởi lối canh tác tự nhiên. Hệ sinh thái nhiệt đới vốn cân bằng
một cách mỏng manh rất dễ bị đảo lộn bởi các phương thức canh tác phản tự
nhiên, buộc con người phải sản xuất nông nghiệp theo hướng sử dụng tài nguyên
và bảo vệ môi trường, thoả mãn các yêu cầu của thế hệ hiện tại nhưng không làm
phương hại đến nhu cầu của các thế hệ tương lai, đó là mục tiêu của việc xây
dựng và phát triển nông nghiệp bền vững và đó cũng là hướng đi trong tương lai.
Việt Nam là nước có diện tích không lớn, đứng thứ 4 ở khu vực Đông
Nam á, dân số đứng thứ 2, bình quân diện tích đất nông nghiệp trên đầu người
thấp, với gần 80% dân số là nông dân, hiện nay nước ta vẫn đang thuộc nhóm 40
nước có nền kinh tế kém phát triển. Theo số liệu thống kê (Nhà xuất bản Thống
kê Hà Nội năm 2000), diện tích đất nông nghiệp và diện tích đất canh tác của
Việt Nam có sự biến động lớn: năm 1990 diện tích đất nông nghiệp 9.940.000 ha,
diện tích đất canh tác là 8.101.500 ha, bình quân đất canh tác trên đầu người là
1.223 m

2
, đến năm 1998 diện tích đất nông nghiệp là 11.704.800 ha, diện tích đất
canh tác là 10.001.300 ha, bình quân đất canh tác trên đầu người 1.311 m
2
.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

1.1.2 Sử dụng đất theo quan điểm phát triển bền vững
Sự gia tăng dân số, nhu cầu của quá trình phát triển các ngành kinh tế đã
gây áp lực rất lớn đối với đất đai, nhất là đất nông nghiệp. Mục tiêu của con
người trong quá trình sử dụng đất là sử dụng khoa học và hợp lý. Trong thực tế,
do quá trình sử dụng lâu dài, nhận thức về sử dụng đất còn hạn chế dẫn tới nhiều
vùng đất đai đang bị thoái hoá, ảnh hưởng tới môi trường sống của con người.
Những diện tích đất đai thích hợp cho sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu
hẹp, do đó con người phải mở mang thêm diện tích canh tác trên các vùng không
thích hợp. Hậu quả đã gây ra quá trình thoái hoá, rửa trôi và phá hoại đất một
cách nghiêm trọng.
Trước những năm 1970, trong nông nghiệp người ta nói đến nhiều giống
mới, năng suất cao, kỹ thuật cao. Nhưng sau năm 1970 một khái niệm mới đã
xuất hiện và ngày càng có tính thuyết phục, khái niệm tính bền vững và tiếp theo
là nông nghiệp bền vững.
Theo Lê Viết Ly, Bùi Văn Chính, nông nghiệp bền vững không có nghĩa
là khước từ những kinh nghiệm truyền thống mà phối hợp, lồng ghép những sáng
kiến mới từ các nhà khoa học, từ nông dân hoặc cả hai. Điều trở nên thông
thường đối với những người nông dân, bền vững là sử dụng những công nghệ và
thiết bị vừa mới được phát kiến, những mô hình canh tác tổng hợp, những phát
kiến mới nhất để giảm giá thành đầu vào. Đó là những công nghệ mới về chăn
nuôi động vật, những kiến thức sâu về sinh thái để quản lý sâu hại và thiên địch.
Theo Lê Văn Khoa, để phát triển nông nghiệp bền vững cũng phải loại bỏ ý nghĩ

đơn giản rằng nông nghiệp, công nghiệp hoá sẽ đầu tư từ bên ngoài vào. Phạm
Chí Thành cho rằng, có 3 điều kiện để tạo nông nghiệp bền vững đó là công nghệ
bảo tồn tài nguyên, những tổ chức từ bên ngoài và những tổ chức từ các nhóm
địa phương. Tác giả cho rằng xu thế phát triển nông nghiệp bền vững được các
nước phát triển khởi xướng mà hiện nay đã trở thành đối tượng để các nước
nghiên cứu theo hướng kế thừa, chắt lọc các tinh tuý của các nền nông nghiệp,
chứ không chạy theo cái hiện đại mà bác bỏ những cái thuộc về truyền thống.
Trong nông nghiệp bền vững như chọn cây gì, con gì trong một hệ sinh thái
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

tương ứng không thể áp đặt theo ý muốn chủ quan mà phải điều tra, nghiên cứu
để hiểu biết thiên nhiên.
Không có ai hiểu biết hệ sinh thái nông nghiệp ở một vùng bằng chính
những người sinh ra và lớn lên ở đó. Vì vậy, xây dựng nông nghiệp bền vững cần
thiết phải có sự tham gia của nông dân trong vùng nghiên cứu. Phát triển bền
vững là việc quản lý và bảo tồn cơ sở tài nguyên thiên nhiên, định hướng những
thay đổi công nghệ và thể chế theo một phương thức, sao cho đạt đến sự thoả
mãn một cách liên tục những nhu cầu của con người, của những thế hệ hôm nay
và mai sau.
Fetry cho rằng sự phát triển bền vững như vậy trong lĩnh vực nông
nghiệp chính là sự bảo tồn đất, nước, các nguồn động và thực vật, không bị suy
thoái môi trường, kỹ thuật thích hợp, sinh lợi kinh tế và chấp nhận được về mặt
xã hội. FAO đã đưa ra các chỉ tiêu cụ thể trong nông nghiệp bền vững là:
- Thoả mãn nhu cầu dinh dưỡng cơ bản của các thế hệ hiện tại và tương lai
về số lượng và chất lượng và các sản phẩm nông nghiệp khác.
- Cung cấp lâu dài việc làm, đủ thu nhập và các điều kiện sống, làm việc
tốt cho mọi người trực tiếp làm nông nghiệp.
- Duy trì và chỗ nào có thể, tăng cường khả năng sản xuất của các cơ sở
tài nguyên thiên nhiên và khả năng tái sản xuất của các nguồn tài nguyên tái tạo

được mà không phá vỡ bản sắc văn hoá xã hội của các cộng đồng sống ở nông
thôn, hoặc không gây ô nhiễm môi trường.
- Giảm thiểu khả năng bị tổn thương trong nông nghiệp, củng cố lòng tin
trong nông dân
Cũng trong năm 1992, thế giới kỉ niệm 20 năm thành lập Chương trình
Bảo vệ môi trường của Liên Hợp quốc (UNEP), lần đầu tiên hội nghị thượng
đỉnh về môi trường và phát triển đã họp tại Rio De Janerio, Brazin (gọi tắt là Rio
– 92), định hướng cho các quốc gia, các tổ chức quốc tế chiến lược về môi
trường và phát triển bền vững để bước vào thế kỉ 21. Trong bối cảnh đó, quan
điểm sử dụng đất bền vững đã được triển khai trên thế giới. Ư\

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

Các nguyên tắc sử dụng đất bền vững:
Theo Smith và Dumanski sử dụng đất bền vững được xác định theo 5
nguyên tắc:
- Duy trì hoặc nâng cao các hoạt động sản xuất (năng suất).
- Giảm mức độ rủi ro đối với sản xuất (an toàn).
- Bảo vệ tiềm năng các nguồn tài nguyên tự nhiên chống lại được sự thoái
hoá đối với chất lượng đất và nước (bảo vệ).
- Khả thi về mặt kinh tế (tính khả thi).
- Được sự chấp nhận của xã hội (sự chấp nhận).
5 nguyên tắc nêu trên được coi là những trụ cột của sử dụng đất đai bền
vững và là những mục tiêu cần phải đạt được. Nếu thực tế diễn ra đồng bộ so với
các mục tiêu trên thì khả năng bền vững sẽ đạt được. Nếu chỉ đạt một hay một
vài mục tiêu mà không phải tất cả thì khả năng bền vững chỉ mang tính bộ phận.
Mollison B. và Holmgren D. tác giả của hai cuốn sách Permacultre One
(1978) và Permacultre Two (1979) đã đề xuất học thuyết về phát triển nông
nghiệp bền vững, đồng thời cho triển khai ở Australia và một số nước trên thế

giới. Theo Mollison B., nông nghiệp bền vững là một hệ thống thiết kế để chọn
môi trường bền vững cho con người, liên quan đến cây trồng, vật nuôi, các công
trình xây dựng và hạ tầng cơ sở (nước, năng lượng, đường xá…). Tuy vậy, nông
nghiệp bền vững không hẳn là những yếu tố đó mà chính là mối liên quan giữa
các yếu tố do con người tạo ra, sắp đặt và phân bố chúng trên bề mặt trái đất.
Mục tiêu của nông nghiệp bền vững là xây dựng một hệ thống ổn định về
mặt sinh thái, có tiềm lực kinh tế, có khả năng thoả mãn những nhu cầu của con
người mà không bóc lột đất, không gây ô nhiễm môi trường. Nông nghiệp bền
vững sử dụng những đặc tính vốn có của cây trồng, vật nuôi, kết hợp với đặc
trưng của cảnh quan và cấu trúc trên diện tích đất sử dụng một cách thống nhất.
Nông nghiệp bền vững là một hệ thống mà nhờ đó con người có thể tồn tại được,
sử dụng nguồn lương thực và tài nguyên phong phú của thiên nhiên mà không
liên tục huỷ diệt sự sống trên trái đất. Đạo đức của nông nghiệp bền vững bao
gồm 3 phạm trù: chăm sóc trái đất, chăm sóc con người và dành thời gian, tài lực,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

vật lực vào các mục tiêu đó. Nông nghiệp bền vững là một hệ thống nông nghiệp
thường trực, tự xây dựng bền vững, thích hợp cho mọi tình trạng ở đô thị và nông
thôn với mục tiêu đạt được sản lượng cao, giá thành hạ, kết hợp tối ưu giữa sản
xuất cây trồng, cây rừng, vật nuôi, các cấu trúc và hoạt động của con người.
Gần đây xuất hiện khuynh hướng “Nông học hữu cơ”, chủ trương dùng
máy cơ khí nhỏ và sức kéo gia súc, sử dụng rộng rãi phân hữu cơ, phân xanh,
phát triển cây họ đậu trong hệ thống luân canh cây trồng, hạn chế sử dụng các
loại hoá chất để phòng trừ sâu bệnh.
Anbert K. và Voisin A. đã hình thành trường phái “Nông nghiệp sinh
học”, bác bỏ việc sản xuất và sử dụng nhiều loại phân hoá học vì như thế sẽ ảnh
hưởng đến chất lượng nông sản và sức khoẻ người tiêu dùng.
Theo Đỗ Ánh, Phần Lan đã đưa ra thị trường những sản phẩm nông nghiệp
sản xuất theo con đường “Green way” hoàn toàn không dùng phân hoá học.

Ở Việt Nam đã hình thành nền văn minh lúa nước hàng ngàn năm nay, có
thể coi là một mô hình nông nghiệp bền vững ở vùng đồng bằng, thích hợp trong
điều kiện thiên nhiên ở nước ta. Trong những năm gần đây, nhiều mô hình VAC
(vườn – ao – chuồng), mô hình nông – lâm kết hợp trên đất đồi thực chất là
những kinh nghiệm truyền thống được đúc rút ra được từ quá trình đấu tranh lâu
dài, bền vững với thiên nhiên khắc nghiệt của con người để tồn tại và phát triển.
Thực chất của nông nghiệp bền vững là phải thực hiện được khâu cơ bản
là giữ độ phì nhiêu của đất được lâu bền. Độ phì nhiêu của đất là tổng hoà của
nhiều yếu tố vật lý, hoá học và sinh vật học để tạo ra môi trường sống thuận lợi
nhất cho cây trồng tồn tại và phát triển.
1.2 Những lý luận cơ bản về hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất nông nghiệp
1.2.1 Các quan điểm cơ bản về hiệu quả kinh tế sử dụng đất
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt chất lượng của các
hoạt động sản xuất. Mục tiêu của sản xuất là đáp ứng mức sống ngày càng tăng
về vật chất và tinh thần của toàn xã hội, trong khi nguồn lực sản xuất xã hội ngày
càng trở nên khan hiếm. Việc nâng cao hiệu quả kinh tế là một đòi hỏi khách
quan của mọi nền sản xuất xã hội.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

Xuất phát từ góc độ nghiên cứu khác nhau, đến nay có nhiều quan điểm
khác nhau về hiệu quả kinh tế sử dụng đất. Tuy nhiên, chúng tôi đề cập một số
quan điểm sau:
* Quan điểm 1: tính hiệu quả theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên
trên cơ sở sản xuất tổng thể là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách
có kế hoạch thời gian lao động theo các ngành sản xuất khác nhau.
Trên cơ sở thực hiện vấn đề “tiết kiệm và phân phối một cách hợp lý thời
gian lao động (vật hoá và lao động sống) giữa các ngành” theo quan điểm của
Mác đó là quy luật “tiết kiệm”, là “tăng năng suất lao động xã hội” hay đó là tăng
hiệu quả. Ông cho rằng: “Nâng cao năng suất lao động, vượt qua nhu cầu cá nhân

của người lao động là cơ sở của hết thảy mọi xã hội”
* Quan điểm 2: các nhà kinh tế XHCN, đại diện là Liên Xô cũ đã dựa vào
lý luận chung của Các Mác để phát triển CNXH. Ở đây, hiểu hiệu quả kinh tế cao
được biểu hiện bằng sự đáp ứng được yêu cầu quy luật kinh tế cơ bản của CNXH
và hiệu quả kinh tế cao khi được xác định bằng nhịp độ tăng tổng sản phẩm xã
hội hoặc thu nhập quốc dân cao. Do vậy quan điểm này mới chỉ đề cập đến nhu
cầu tiêu dùng, quỹ tiêu dùng là mục đích cuối cùng cần đạt được của nền sản
xuất xã hội, nhưng chưa đề cập đến quỹ tích luỹ để làm điều kiện phương tiện đạt
được mục đích đó
* Quan điểm 3: các nhà khoa học kinh tế Samuelson – Nordhuas cho
rằng: “Hiệu quả có nghĩa là không lãng phí”. Nghiên cứu hiệu quả sản xuất phải
xét đến chi phí cơ hội, “hiệu quả sản xuất phải diễn ra khi xã hội không thể tăng
sản lượng một loại hàng hoá này mà không cắt giảm sản lượng một số loại hàng
hoá khác. Mọi nền kinh tế có hiệu quả phải nằm trên đường giới hạn và sản
lượng tiềm năng khả năng sản xuất của nó”
* Quan điểm 4: hiệu quả trên quan điểm kinh tế thị trường:
Xã hội chịu sự chi phối bởi quy luật khan hiếm nguồn lực, thực tế các
nguồn lực như đất đai, lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên khan hiếm. Trong
khi đó nhu cầu xã hội tăng nhanh cả về số lượng, chất lượng. Do vậy, vấn đề đặt
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

ra là phải tiết kiệm nguồn lực, từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
lực nói chung, trước hết mỗi quá trình sản xuất phải lựa chọn đầu vào tối ưu
* Quan điểm 5: hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi
phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng khối lượng kết quả hữu ích
hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kì, góp phần làm tăng thêm lợi ích của
xã hội, của nền kinh tế quốc dân.
Ưu điểm của quan điểm này là gắn chi phí với kết quả, coi hiệu quả là sự
phản ánh của trình độ sử dụng chi phí. Nhược điểm là chưa rõ ràng, thiếu tính

khả thi ở phương diện xác định và tính toán.
Như vậy, trong thực tế có rất nhiều quan điểm về hiệu quả. Tuy nhiên,
việc xác định bản chất và khái niệm kết quả cần phải xuất phát từ những luận
điểm triết học Mác và những luận điểm lý thuyết hệ thống sau đây:
- Thứ nhất: Bản chất của hiệu quả là sự thực hiện yêu cầu tiết kiệm thời
gian, biểu hiện trình độ sử dụng nguồn lực của xã hội. Các Mác cho rằng quy luật
tiết kiệm thời gian là quy luật có tầm quan trọng đặt biệt tồn tại trong nhiều
phương thức sản xuất.
- Thứ hai: theo quan điểm của lý thuyết hệ thống thì nền sản xuất xã hội là
một hệ thống các yếu tố sản xuất và các quan hệ vật chất hình thành giữa con
người với con người trong quá trình sản xuất.
- Thứ ba: hiệu quả kinh tế là mục tiêu nhưng không phải là mục tiêu cuối
cùng mà là mục tiêu phương tiện xuyên suốt mọi hoạt động kinh tế. Trong kế
hoạch và quản lý kinh tế nói chung, hiệu quả là quan hệ so sánh tối ưu giữa đầu
vào và đầu ra, là lợi ích lớn hơn thu được với một chi phí nhất định, hoặc một kết
quả thu được với một chi phí nhỏ hơn.
Như vậy, bản chất của hiệu quả được xem là:
+ Việc đáp ứng nhu cầu của con người trong đời sống xã hội.
+ Việc bảo tồn tài nguyên, nguồn lực để phát triển lâu bền.
1.2.2 Phân loại hiệu quả sử dụng đất
Khái niệm về hiệu quả ngày nay được sử dụng rất rộng rãi, nói đến hiệu
quả được hiểu là công việc đạt kết quả tốt. Hay hiệu quả là kết quả mong muốn,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

cái sinh ra kết quả mà con người mong đợi và hướng tới. Trong sản xuất, hiệu
quả có nghĩa hiệu suất, năng suất. Với lĩnh vực kinh doanh thì hiệu quả là lãi
suất, lợi nhuận. Trong lao động thì hiệu quả là năng suất lao động được đánh giá
bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hoặc bằng số
lượng sản phẩm được sản xuất trong một đơn vị thời gian. Còn trong xã hội, hiệu

quả xã hội là có tác dụng tích cực đối với một lĩnh vực xã hội nào đó.
Đánh giá chất lượng của hoạt động sản xuất là nội dung đánh giá hiệu quả.
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu cây trồng,
vật nuôi phù hợp là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết các
nước trên thế giới (Viện thổ nhưỡng nông hoá, 1999). Nó không chỉ thu hút sự
quan tâm của các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh
doanh nông nghiệp mà còn là sự mong muốn của nông dân, những người trực
tiếp tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp.
Khái niệm hiệu quả sử dụng đất phải xuất phát từ luận điểm triết học của
Mác và những nhận thức lí luận của lí thuyết hệ thống, hiệu quả phải được xem xét
trên 3 mặt: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trường (Phát triển nông
nghiệp bền vững ở Việt Nam, 2009).
a. Hiệu quả kinh tế:
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt chất lượng của các
hoạt động sản xuất. Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu biểu hiện kết quả của hoạt động
sản xuất, nói rộng ra là của hoạt động kinh tế, hoạt động kinh doanh, phản ánh
tương quan giữa kết quả lao động, vật tư, tài chính. Đó là chỉ tiêu phản ánh trình
độ, chất lượng sử dụng của các yếu tố sản xuất kinh doanh nhằm đạt được kết
quả kinh tế tối đa với chi phí tối thiểu. Tuỳ theo mục đích đánh giá ta có thể đánh
giá hiệu quả kinh tế bằng những chỉ tiêu khác nhau như: năng suất sử dụng vốn,
hàm lượng vật tư của sản phẩm, lợi nhuận so với vốn, thời gian thu lại vốn…
Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là
quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian lao động
theo các ngành sản xuất khác nhau (FAO, 1992).
Theo các nhà khoa học Đức (Stenien, Hanau, Rusteruyer, Simmerman-
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

1995): Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn
vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất

trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội.
Bản chất của hiệu quả kinh tế sử dụng đất là: trên một diện tích đất đai nhất
định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất, với một lượng đầu tư
chi phí về vật chất và lao động thấp nhất nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về
vật chất của xã hội. Xuất phát từ lý do này mà trong quá trình đánh giá đất nông
nghiệp cần phải chỉ ra được loại hình sử dụng đất có hiệu quả kinh tế cao.
b. Hiệu quả xã hội:
Hiệu quả xã hội trong sử dụng đất hiện nay là phải tạo ra được nhiều sản
phẩm, thu hút được nhiều lao động, đảm bảo đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh
lương thực, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển, nội lực và nguồn lực của địa
phương được phát huy; đáp ứng nhu cầu của hộ nông dân về ăn, mặc, và nhu cầu
sống khác; phải tạo ra được sự ổn định và phong phú về thị trường tiêu thụ. Sử
dụng đất phù hợp với tập quán, nền văn hoá của địa phương thì việc sử dụng đó
bền vững hơn, ngược lại sẽ không được người dân ủng hộ.
Theo Nguyễn Thị Vòng và các cộng sự (2001) thì hiệu quả xã hội là mối
tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã hội và tổng chi phí bỏ ra.
Hiệu quả về mặt xã hội sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định
bằng khả năng tạo việc làm trên một diện tích đất nông nghiệp (Nguyễn Duy Tính,
1995, Nghiên cứu cây trồng vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng Bắc bộ).
Từ những quan niệm trên đây của các tác giả cho ta thấy giữa hiệu quả kinh tế
và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là
một phạm trù thống nhất, phản ánh mối quan hệ giữa kết quả sản xuất và các lợi ích
xã hội mang lại. Trong giai đoạn hiện nay việc đánh giá hiệu quả xã hội của các loại
hình sử dụng đất nông nghiệp là nội dung được nhiều nhà khoa học quan tâm.
c. Hiệu quả môi trường:
Hiệu quả môi trường được thể hiện ở chỗ: Loại hình sử dụng đất phải bảo
vệ được độ màu mỡ của đất đai, ngăn chặn được sự thoái hoá đất bảo vệ môi
trường sinh thái. Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14


đa dạng sinh học (FAO, 1992)
Hiệu quả môi trường được phân ra theo nguyên nhân gây nên, gồm: hiệu
quả hoá học, hiệu quả vật lý và hiệu quả sinh học môi trường (Phát triển nông
nghiệp bền vững ở Việt Nam, 2009).
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả hoá học môi trường được đánh giá
thông qua mức độ sử dụng và tác động của các hóa chất trong nông nghiệp. Đó là
việc sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản xuất đảm bảo
cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao và không gây ô
nhiễm môi trường.
Hiệu quả sinh học môi trường được thể hiện qua mối tác động qua lại giữa
cây trồng với đất, giữa cây trồng trong mối tương tác với các đối tượng sinh học
có lợi và có hại khác nhằm đảm bảo tính đa dạng mà vẫn đạt được yêu cầu đặt ra.
Hiệu quả vật lý môi trường được thể hiện thông qua việc lợi dụng tốt nhất
tài nguyên khí hậu như ánh sáng, nhiệt độ, nước mưa của các kiểu sử dụng đất để
đạt được sản lượng cao và tiết kiệm chi phí năng lượng đầu vào.
1.2.3 Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
1.2.3.1 Đặc điểm sử dụng đất nông nghiệp vùng nghiên cứu
a. Vùng đồi núi
Ở khu vực miền núi do đặc điểm về địa hình khí hậu thời tiết và tập quán
sản xuất. Khi tính toán hiệu quả kinh tế sản xuất nông lâm nghiệp cần chú ý đến
đặc điểm này để đảm bảo việc tính đúng, đủ, toàn diện. Cụ thể như sau:
Đối với miền núi, do trình độ dân trí, mức độ kinh tế của nông hộ thấp và
tập quán sản xuất còn lạc hậu, sản xuất 1 vụ là chính, sản xuất chủ yếu là tự cung
tự cấp và theo hướng quảng canh. Trên diện tích đất nông lâm nghiệp, người sản
xuất có thể bố trí nhiều công thức luân canh, xen canh khác nhau trên địa hình dốc.
Do vậy, cần phải tính toán, so sánh, đánh giá hiệu quả của từng công thức luân
canh và toàn bộ hệ thống công thức luân canh. Từ đó lựa chọn những công thức
luân canh phù hợp đạt hiệu quả cao.
Viêc sử dụng đất ở miền núi rất đa dạng và phong phú, có nhiều loại cây

trồng khác nhau (ngắn ngày, dài ngày, cây công nghịêp, cây lâm nghiệp ) được gieo
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

trồng và thu hoạch ở những thời điểm khác nhau. Do vậy, việc xác định hiệu quả
kinh tế cho từng loại cây, từng đơn vị sử dụng đất ở từng vùng là hết sức khó khăn
phức tạp, để tính được phải dựa trên số bình quân và điều tra điểm.
b. Vùng đồng bằng
Ở khu vực đồng bằng trình độ dân trí, mức độ kinh tế của nông hộ cao
hơn, sản xuất mang tính kinh tế thị trường. Do vậy cần tính toán, so sánh, đánh
giá hiệu của của các công thức luân canh từ đó lựa chọn công thức luân canh phù
hợp với điều kiện của địa bàn nghiên cứu.
1.2.3.2 Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất là hết sức
cần thiết, nó giúp cho việc đưa ra những đánh giá phù hợp với từng loại vùng đất
để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Các nhân tố ảnh hưởng có thể chia ra làm 3 nhóm sau đây:
* Điều kiện tự nhiên: bao gồm điều kiện khí hậu, thời tiết, vị trí địa lý, địa
hình, thổ nhưỡng, môi trường sinh thái, nguồn nước Chúng có ảnh hưởng một
cách rõ nét, thậm chí quyết định đến kết quả và hiệu quả sử dụng đất .
- Đặc điểm lý, hoá tính của đất: trong sản xuất nông lâm nghịêp, thành
phần cơ giới, kết cấu đất, hàm lượng các chất hữu cơ và vô cơ trong đất, quyết
định đến chất lượng đất và sử dụng đất. Quỹ đất đai nhiều hay ít, tốt hay xấu, có
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng đất.
- Nguồn nước và chế độ nước: là yếu tố rất cần thiết, nó vừa là điều kiện
quan trọng để cây trồng vận chuyển chất dinh dưỡng vừa là vật chất giúp cho
sinh vật sinh trưởng và phát triển.
- Địa hình, độ dốc và thổ nhưỡng: điều kiện địa hình, độ dốc và thổ
nhưỡng là yếu tố quyết định lớn đến hiệu quả sản xuất, độ phì đất có ảnh hưởng
đến sinh trưởng phát triển và năng suất cây trồng vật nuôi.

- Vị trí địa lý: vị trí địa lý của từng vùng với sự khác biệt về điều kiện ánh
sáng, nhiệt độ, nguồn nước, gần đường giao thông, khu công nghiệp sẽ quyết
định đến khả năng và hiệu quả sử dụng đất. Vì vậy, trong thực tiễn sử dụng đất

×