Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tài liệu bóng đá lịch sử bóng đá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 15 trang )

Bóng
đá
Bóng đá là môn

thể

thao

đồng

đội

được chơi giữa
hai
đội với nhau, mỗi đội có 11 cầu

thủ

trên sân. Trò chơi
này dùng một quả

bóng

và thường được chơi trên
sân
cỏ

hình

chữ


nhật

với hai khung

thành

ở hai đầu
sân.
Mục tiêu của trò chơi là ghi điểm bằng cách đưa
bóng
vào khung thành của đội đối địch. Ngoại trừ thủ

môn

,


các cầu thủ khác đều không được cố ý dùng tay

hoặc


cánh

tay

để chơi bóng. Đội chiến thắng là đội ghi được
nhiều bàn thắng hơn khi kết thúc trận đấu.
Bóng đá được chơi ở đẳng cấp chuyên nghiệp trên
thế

giới.
Hàng vạn người đến sân

vận

động

để xem các trận
thi
đấu có đội bóng mà họ yêu thích, và hàng triệu người
khác theo dõi qua tivi nếu không thể đến sân vận động.
Ngoài ra, còn rất nhiều người chơi môn thể thao này ở
đẳng cấp nghiệp dư.
eo
một cuộc khảo sát công bố vào năm
2001




của


FI F A ,
tổ chức quản lý bóng đá trên thế
giới,

hơn

240

triệu người thường xuyên chơi bóng đá ở hơn 200
quốc gia . Luật chơi đơn giản và dụng cụ thi đấu ít
tốn
kém giúp cho trò chơi này phát triển mạnh mẽ. Ở
nhiều nước, bóng đá có vai trò quan trọng
tr
ong
cuộc
sống của người hâm mộ, trong cộng đồng địa
phương hay cả quốc gia; do đó có thể nói đây là
môn
thể

thao

phổ biến nhất thế giới.
1 Tổng
q
uan
Thủ
môn
nhoài người phá
bóng khỏi
cầu môn.
Bóng đá là môn thể thao đồng đội được chơi theo các
quy tắc đề ra trong Luật

bóng

đá


( tiếng

Anh : Laws of
the Game). Các vận động viên tham gia chơi bóng
đá
được gọi là các cầu thủ, họ thường sử dụng một
trái
bóng hình cầu được gọi đơn giản là quả bóng đá,
trái
bóng hoặc trái banh. Trong trận đấu bóng đá, hai đội,
mỗi đội gồm 11 cầu thủ sẽ tìm cách đưa trái bóng vào
khung thành (còn gọi là cầu
môn),
đội nào đưa bóng
vào khung thành đối phương nhiều hơn (ghi được
nhiều
bàn thắng hơn) sẽ là đội giành chiến thắng, nếu
hai đội có số lần đưa bóng vào khung thành đối
phương
như
nhau, hoặc không đội nào làm được việc
này thì
trận
đấu sẽ kết thúc với kết quả
hòa.
y
tắc

bản nhất của môn bóng đá là các cầu thủ,

trừ
người bảo vệ khung thành (được gọi là thủ

môn

),


được phép sử dụng bất cứ bộ phận nào trên cơ thể để
chơi bóng trừ hai cánh tay và bàn tay của họ (tuy nhiên
cầu
thủ phải dùng tay để thực hiện việc ném biên ).
[2]
Trong
một trận đấu thông thường, cầu thủ có thể
chơi ở
bất
cứ vị trí nào và có thể đưa quả bóng theo
bất cứ
hướng
nào trên sân, trừ trường hợp cầu thủ
rơi vào thế việt vị

thì không thể nhận bóng. Dựa vào
các quy tắc cơ bản này, cầu thủ thường dùng chân để
thực hiện các động tác kỹ thuật như rê bóng, lừa bóng,
chuyền
bóng
cho đồng đội, sút bóng, với mục đích
chính là tìm cách đưa bóng vào khung thành đối

phương và ngăn
không
cho đối phương đưa bóng vào
khung thành đội
nhà
.
Cầu thủ hai đội có thể va
chạm nhau thông qua các pha tranh bóng, tắc bóng
nhưng tuyệt đối không được phạm những lỗi ghi trong
luật như chuồi bóng từ
phía
sau, đẩy
người,
tiểu xảo.
Điều khiển trận đấu là tổ
trọng
tài





bao

gồm một trọng
tài chính và hai trọng tài biên, trọng tài chính sử dụng
một chiếc còi cùng hai loại
thẻ,
thẻ vàng và thẻ đỏ, và
có trách nhiệm bắt đầu, kết

thúc
hoặc tạm dừng trận
đấu. Một trận đấu bóng đá
thông
thường có hai hiệp,
mỗi hiệp 45 phút với khoảng
thời
gian 15 phút nghỉ
giữa hai
hiệp
.
2 Lịch
sử
Các môn thể thao tương tự bóng đá hiện đại (với
mục
đích đá bóng vào khung thành đối phương) đã
xuất
hiện ở nhiều nơi trên thế giới từ rất lâu.
eo
FI F
A





thì


dạng bóng đá cổ xưa nhất bao gồm đầy đủ các

kỹ
thuật
chơi bóng có lẽ xuất phát từ T rung

ốc


v ào khoảng
thế kỷ 2 hoặc 3
TCN,
môn
xúc cúc ( ,
đá
bóng).
[3]
Ở La
Mã cổ đại cũng xuất hiện một môn
thể
thao chơi bóng
có những nét giống bóng đá, đó là
môn

harpastum
.

Môn bóng đá với các luật chơi gần như ngày nay
bắt
đầu phổ biến từ giữa thế

kỷ


19 tại các trường học
trên
nước Anh .
Bộ
luật bóng đá hiện đại cổ nhất mà ta biết
là bộ luật mà ngày nay thường được biết đến dưới tên
Bộ
1
"


T

rường



xuân



b

á

c

h




tử



đồ"





()



vẽ



vào



thời



Tống









tả trẻ
em
chơi

xúc

cúc

.

luật Cambridge (tiếng
A

nh

:

Cambridge Rules).
Sở dĩ có
tên gọi này vì chính trong khuôn viên T rinity

College
thuộc Đại


học

Cambridge , đại diện của năm
trường
Eton , Har r o w , Rugby , Winchester

và Sh re wsbu r

y

đã


tổ chức họp mặt để thống nhất một luật chơi đầu
tiên
cho môn bóng đá.
[4]
Cũng trong thập

niên

1850

,


các đội
bóng nghiệp dư bắt đầu được thành lập và thường mỗi
đội xây dựng cho riêng họ những luật chơi

mới
của
môn
bóng đá, trong đó đáng chú ý có câu lạc bộ
She eld ffi
F

.

C.

.

[5]
Việc
mỗi đội bóng có luật chơi khác
nhau
khiến
việc điều hành mỗi trận đấu giữa họ diễn
ra rất
khó
khăn. Nỗ lực đáng kể nhất trong việc
chuẩn hóa
luật
chơi môn bóng đá là việc thành lập
Hiệp

hội

bóng


đá


Anh

(e Football Association,
thường viết tắt là
F
A
)
vào ngày
26
tháng





10
năm


1863
tại G r eat



e




en
St r e

et

,


Luân

Đôn .
[6]
Sau 5 cuộc họp
diễn ra từ
tháng
10 đến tháng
12,
bộ luật đầy đủ và
toàn diện đầu
tiên
của môn bóng đá gồm
13
điều đã
được FA
thông
qua
dưới sự chủ trì của E b


enezer
Cobb


Morl e y .
[6]
Hiện
nay


quan chịu tránh nhiệm quản lý
và theo dõi
luật
bóng đá trên thế giới là Ủy ban

bóng
đá

quốc

tế


(International Football Association Board,
thường
viết
tắt là
IFAB). IFAB
được thành lập năm
1886

[7]


tại
Manchester

t rong một buổi họp với sự có
mặt
của
đại diện FA, Hiệp

hội

bóng

đá Scotland
(Scoish
Football Association),
Hiệp hội bóng

đá
xứ


W ales
(F

ootball
Association of
Wales)

và Hiệp hội
bóng

đá
I r eland

(Irish Football Association).
Bản đồ phân bố mức độ phổ biến của bóng đá. Các quốc gia
được tô bằng màu xanh là nơi
bóng
đá phổ biến nhất, tô bằng
màu đỏ là nơi
bóng
đá ít phổ
biến
nhất.
Giải thi đấu bóng đá đầu tiên, Cúp

F A
(

FA
Cup), được
C. W .

Alc o

ck tổ chức lần đầu cho các câu lạc bộ
bóng
đá Anh vào năm

1872 .
Trận thi đấu bóng đá cấp quốc
tế đầu tiên giữa đội tuyển Anh

và Scotland

cũng
diễn
ra vào năm 1872 tại Glasg o w . Nước Anh cũng là
quê
hương của giải đấu liên đoàn đầu tiên,
e




F

o



otball


League , liên đoàn này được thành lập
năm
1888 th eo
sáng kiến của giám đốc câu lạc bộ
A

ston





Villa

,

ông
William McG r egor .
[8]
Giải đấu này bao gồm 12 câu lạc
bộ thuộc miền Trung và miền Bắc
nước
Anh.
Cơ quan quản lý bóng đá thế giới, FI F A (F édération
Internationale de Football Association, liên đoàn
bóng
đá quốc tế) được thành lập vào năm
1904

tại

Paris

với
chủ tịch đầu tiên là ông
Ro b


ert
Guérin

,

một
người
P
háp
,
ngay từ khi thành lập
FIFA
đã tuyên bố sử dụng

tôn
trọng bộ luật bóng đá do
FA
đưa ra.
[9]
Từ năm
1913 ,
cơ quan theo dõi luật bóng đá
IFAB
bắt đầu bổ
sung các thành viên là đại diện của
FIFA.
Hiện nay ban
điều
hành

của
IFAB
bao gồm 4 đại diện của
FIFA
và 4
đại diện
đến
từ
các
liên đoàn khai sinh luật bóng đá là
Anh, Scotland, Ireland và xứ Wales. Tính cho đến
năm
2008 , FIFA

208 quốc gia hoặc vùng lãnh thổ có đại diện là
thành
viên, nhiều hơn Ủy ban

Olympic
ốc


tế

3
thành

viên
và nhiều hơn Liên Hiệp
ốc



16 thành viên.
[10]
Ngày nay bóng đá đã
được
chơi ở cấp độ chuyên
nghiệp
trên khắp thế
giới với
hàng triệu người đến sân
theo dõi các trận đấu
[11]
cũng như hàng tỷ người theo
dõi
qua
truyền hình.
[12]
eo
một cuộc thăm dò do
FIF
A

tiến
hành năm
2001 ,
có trên
240
triệu người từ
trên 200 quốc gia thường xuyên chơi bóng đá.

[13]
Không chỉ là môn thể thao phổ biến nhất thế giới,
[14]
bóng đá
còn


ảnh hưởng lớn đến nền thể thao và xã
hội
nhiều
quốc gia, hãng truyền hình
ESPN
từng

cho
rằng
chính
đội tuyển
Bờ

Biển



Ngà

đã

giúp ngăn chặn
nguy



một
cuộc nội chiến tại nước này

v ào năm
2005 ,
ngược lại cũng chính một trận bóng đá đã khởi
đầu cho
một
cuộc chiến với cái tên Chiến

tranh

bóng
đá

xảy
ra
năm 1969 giữa El Salvador và
Honduras
.

[15]
3 Luật thi
đấu
3.2 Sân thi
2
3
LUẬT

THI
2
Hiện nay Luật bóng đá chính thức có 17 điều được
áp
dụng cho mọi cấp độ chơi bóng và chỉ có một vài sửa
đổi nhỏ cho phù hợp với bóng

đá

nữ

và bóng

đá

trẻ

.

Đường biên dọc
90-120m
3.1 Cầu thủ, trang phục và trọng

i
16,5m
5,5m





11m


9,15m
40,3m
9,15m
Đường giữa
sân
Vòng tròn
gi
Điểm phát bóng
g
Mỗi trận đấu bóng đá bao gồm hai đội, mỗi đội 11
cầu
thủ thi đấu chính thức trên sân kể cả 1 thủ
môn.

ủ
môn là người duy nhất được phép chơi
bóng

bằng
tay,
tuy nhiên việc này cũng chỉ được giới
hạn
trong khu
cấm

địa


phía trước khung thành do
thủ
môn trấn giữ.
Bên cạnh số cầu thủ chính thức mỗi đội cũng còn một
số cầu thủ dự bị để thay thế khi cần
thiết,
thông
thường trong một trận bóng đá thi đấu
chính
thức, mỗi
đội chỉ được phép thay đổi 3 cầu thủ.
Cầu
thủ sau
khi được thay ra sẽ không thể tiếp tục quay
trở
lại sân
thi đấu.
[16]
Người chỉ đạo chiến thuật cho đội bóng là
huấn

luyện viên , vị trí này không phải là
quy
định
bắt buộc được ghi trong Luật bóng đá.
[17]
T rang

phục


thi

đấu

của các cầu thủ thường bao gồm
áo phông, quần soóc, tất cao đến đầu gối, giày và bảo
vệ ống đồng. Cầu thủ thi đấu trên sân bị cấm mặc, đeo
hoặc mang theo các đồ vật có thể gây nguy hiểm
cho
cầu thủ đối phương như vòng, dây chuyền hoặc
đồng
hồ. Do là vị trí được sử dụng tay và thường xuyên
phải
bay người theo bóng, thủ môn được trang bị kĩ hơn
các cầu thủ khác, họ thường mặc áo phông dài tay,
đeo cả bảo vệ ống đồng và bảo vệ khuỷu tay và
mang
găng
khi thi đấu.
[18]
Điều khiển trận đấu là tổ trọng

tài

bao gồm 1
trọng
tài chính và 2 trọng tài biên, những người này có
toàn
quyền điều khiển trận đấu theo các quy định của Luật
bóng đá, quyết định của trọng tài chính dù đúng

hoặc
sai cũng thường là quyết định cuối cùng và không
thể
đảo ngược. Ngoài ba trọng tài làm việc trên sân còn có
một trọng tài thứ tư (còn gọi là trọng tài bàn) quản lý
việc thay người, theo dõi thời gian bù giờ và thay
thế
trọng tài trên sân trong trường hợp cần
thiết.
[19]
3.2 Sân thi
đấu
5,5m
11m
1
m
Các kích cỡ tiêu chuẩn của một sân bóng đá.
Do được hình thành ở Anh, luật bóng đá trước đây
quy
định các kích thước theo hệ

đo

lường

Anh

tuy
nhiên
hiện nay các số đo này đã được đổi sang hệ

SI

cho


phù
hợp với sự phổ biến của bóng đá trên thế
giới.
Một
sân
bóng

đá

tiêu chuẩn cho các trận đấu quốc tế có
dạng
chữ nhật với chiều dài nằm trong khoảng từ 100
đến
110 mét , chiều rộng từ 64 đến 75 m. Còn đối với các
trận đấu ở cấp độ thấp hơn, sân bóng có thể có
chiều
dài nằm trong khoảng từ
90
đến
120
m
(100–130
yd) và
rộng từ 45 đến 90 m
(50–100

yd). Hai cạnh dài của
sân
bóng được gọi là hai
đường
biên
dọc,
hai cạnh còn lại là
đường biên ngang. Ở chính giữa hai đường biên
ngang
là khung thành có dạng chữ nhật
[20]
với chiều dài 7,32
m và chiều cao
2,44
m. Khung thành thường
được
giăng
lưới để dễ phân biệt tình huống bóng vào khung
thành
hay ra ngoài, tuy nhiên điều này không nằm
trong
quy
định chính thức của Luật bóng đá.
[21]
Phía trước mỗi khung thành là khu

cấm

địa . Khu vực
này cũng có dạng chữ nhật với chiều dài dọc

the
o
đường biên ngang của sân với kích thước 40,3 m dài,
16,5
m rộng. Ở giữa khu cấm địa, cách khung thành 11
m là điểm đá

phạt

đền , nơi các cầu thủ thực hiện các
cú sút phạt đền (do cầu thủ đối phương phạm lỗi
tr
ong
khu
vực
cấm
địa).
Khu cấm địa cũng là nơi duy nhất
thủ
môn được phép chơi bóng bằng tay. Ở phía trong
khu
cấm địa có một hình chữ nhật nhỏ hơn
với
chiều
dài dọc
3.2 Sân thi
3
3
LUẬT
THI

2
Đ
ư

n
g

b
i
ê
n

n
g
theo đường biên ngang có kích thước
18,3
m dài,
5,5
m
rộng (thường được gọi là khu 5 mét
50),
đây là nơi
cầu
thủ đối phương tham gia tấn công không được phép va
chạm trực tiếp
với
thủ môn đang trấn giữ khung
thành.
3.3 Thời gian thi
đấu

Một trận thi đấu bóng đá thông thường diễn ra
tr
ong
hai hiệp chính thức liên tiếp, mỗi hiệp gồm 45
phút
ngăn cách bằng 15 phút nghỉ giữa giờ. Sau khi hiệp 1,
hai đội bóng sẽ phải đổi sân cho nhau để có sự
công
bằng trong vòng 1 phút.
Người
có quyền bắt đầu và
kết
thúc trận đấu là trọng tài chính. Trong các tình
huống
phải dừng bóng hoặc bóng ra ngoài sân, trọng tài sẽ
tính thêm giờ, thời gian chết này sẽ được chơi bù vào
cuối mỗi hiệp đấu (được gọi là những phút bù
giờ
),
số phút bù giờ là ít hoặc nhiều đều hoàn toàn phụ
thuộc
vào quyết định của trọng tài chính, kể cả trường
hợp

khác biệt so với số phút bù giờ do trọng tài thứ

công
bố trên bảng điện tử.
[22]
y

định về thời
gian
đá


xuất hiện sau trận đấu năm
1891

giữa


Stoke

và A ston Villa , khi chỉ còn 2 phút là hết giờ,
trong
tình
thế bị dẫn trước 1–0, đội Stoke bất ngờ
được
hưởng
một quả phạt đền, thủ môn Villa đã đối
phó bằng cách đá bóng ra khỏi sân và đến khi bóng
trở lại sân
thì
đồng hồ đã điểm 90 phút và Stoke thua
trận.
[23]
Trong các giải thi đấu liên đoàn, một trận đấu có
thể
kết thúc với tỉ số hòa, tuy nhiên trong các trận đá loại
trực tiếp (như ở các giải Cúp hoặc các trận

playo),
bắt
buộc phải xác định được một đội giành chiến
thắng.
Trong trường hợp này, nếu kết thúc 90 phút của 2
hiệp
chính hai đội vẫn hòa, họ sẽ phải thi đấu thêm 2
hiệp
phụ

liên tiếp, mỗi hiệp
15
phút không có nghỉ giữa giờ.
Nếu hết 2 hiệp phụ mà kết quả vẫn hòa, hai đội sẽ
phải
thi đá luân

lưu
11


m (

hai đội thay phiên nhau thực
hiện
các quả đá phạt đền) để xác định đội giành chiến
thắng.
Các bàn thắng ghi
được
trong hai hiệp phụ sẽ

được
tính
vào kết quả chung cuộc, tuy nhiên các bàn
thắng
ghi
trong những loạt đá luân lưu 11 m sẽ không
được
tính
(mà chỉ dùng để xác định kết quả thắng
thua).
Trong
thập

niên

1990 và
2000 , IFAB
đã cho thử
nghiệm
luật
Bàn
thắng





vàng

,


theo đó nếu trong hiệp
phụ có một đội ghi được bàn thắng trước, trận đấu sẽ
lập tức kết
thúc
với kết quả thắng cho đội vừa ghi
bàn. Luật bàn
thắng
vàng đã
được
sử dụng

cấp độ
thế
giới
trong W orld
Cup

1998


W orld Cup
2002


với P

háp

là đội tuyển đầu

tiên
tận dụng được lợi thế này khi giành chiến thắng trước
Paraguay

bằng bàn thắng vàng của Lau r ent
Blanc



(năm

1998 ),
Pháp cũng là đội vô địch ở giải đấu năm
1998.
Tại Giải vô địch

bóng

đá

châu

 u
1996

,


đội tuyển
bóng


đá


quốc

gia

Đức đã giành chức vô địch sau
chiến
thắng
trước đội

tuyển

bóng

đá

quốc

gia

Cộng
hòa

S é

c
bằng



bàn thắng vàng của Oli v er

Bierhoff

.


Tại
Giải vô

địch bóng

đá

châu

 u

2004

,


luật bàn thắng
vàng được
thay
thế bằng luật Bàn thắng


bạc th eo đó
nếu kết thúc
hiệp
phụ đầu tiên mà có một đội dẫn
trước về tỉ số, trận
đấu
sẽ kết thúc với chiến thắng
dành cho đội có lợi thế về
tỉ số. Tuy nhiên hiện nay
IFAB
đã bỏ việc thử
nghiệm
cả 2 luật
này
.
[24]
Trong các trận đấu loại trực tiếp theo thể thức lượt
đi-lượt về, thông thường người ta sẽ tính tới lợi

thế
bàn

thắng

trên

sân

khách .
eo

đó nếu sau
hai

trận
mà hai đội có kết quả chung cuộc hòa nhau, đội nào
ghi được nhiều bàn thắng hơn trên sân
khách
sẽ là
đội giành chiến thắng. Tuy nhiên không
phải

giải
đấu
lớn nào cũng sử dụng lợi thế này, ví dụ
như
tại Copa
Li b

ertado r es ở Nam Mỹ .
3.4 Trạng thái bóng trên
sân
Sebastian

La

r

sson




thực

hiện
một
quả phạt
góc
cho
B irmingham
City
eo
luật bóng đá, có hai trạng thái bóng
chính

trên
sân, đó là
bóng
động và
bóng chết.
ời gian
bóng
động
trong trận đấu được tính từ thời điểm các
cầu
thủ bắt
đầu trận đấu bằng cú phát bóng giữa sân
cho
đến khi
bóng rơi ra ngoài khu vực sân thi đấu
hoặc

trận đấu
bị ngừng lại bởi quyết định của trọng
tài

(
do cầu thủ
phạm lỗi, chấn thương hoặc tình
huống
đặc biệt khác),
khi đó bóng rơi vào trạng thái
bóng
chết. Trận đấu lúc
này sẽ được khởi động lại bằng các cách chính sau:

Ném

biên : Khi bóng rơi ra ngoài đường biên dọc
do tác động của một cầu thủ đội nhà (dù ở
trên
mặt sân hay bay trên không). Đội đối phương sẽ
được hưởng quyền ném bóng từ vị trí trên đường
biên dọc mà bóng rời sân. Từ quả ném biên,
bàn
thắng chỉ được công nhận khi chạm chân cầu
thủ
khác
[25]

P


hát

bóng : Khi bóng rơi ra ngoài đường
biên
ngang do tác động của cầu thủ tấn công đối
phương.
Đội
phòng ngự sẽ
được
hưởng quyền
phát
4
3
LUẬT
THI
4
bóng lên. Từ quả phát bóng, nếu bóng
được
đá
vào cầu môn, bàn thắng được công
nhận.
[26]

P

hạt

g ó

c : Khi bóng rơi ra ngoài đường biên

ngang
do tác động của cầu thủ phòng ngự. Đội
tấn
công
sẽ được hưởng quyền đưa bóng vào trận
đấu
bằng
cú đá từ điểm đá phạt góc (là điểm nối
giữa đường biên dọc và đường biên ngang). Từ
quả đá
phạt
góc, nếu bóng được đá vào cầu môn,
bàn thắng sẽ được
tính.
[27]

Đá phạt

gián

tiếp : Khi có cầu thủ bị phạm lỗi
nhẹ.
Đội đối phương sẽ được hưởng quyền đưa
bóng
vào trận đấu, nếu đá bóng trực tiếp vào cầu
môn,
bàn thắng không được công nhận. Bàn
thắng
chỉ
được công nhận khi bóng chạm chân

một cầu
thủ
khác
[28]

Đá phạt

trực tiếp : Khi có cầu thủ bị phạm lỗi
nặng
(lỗi
quy định trong điều
12
của Luật bóng
đá, ví
dụ
bị phạm lỗi khi đang có lợi thế tấn
công, bị
phạm
lỗi từ phia
sau).
Đội đối phương sẽ
được
quyền đưa bóng vào trận đấu và bàn thắng
ghi vào cầu
môn
từ cú đá phạt này sẽ được
tính.
[28]

P


hạt

đền : Khi có cầu thủ tấn công bị phạm lỗi
trong khu vực cấm địa của đội phòng ngự. Đội
tấn
công sẽ được hưởng cú đá phạt từ vị trí đá
phạt 11 m, đây là cú đá chỉ có sự tham gia của
một cầu
thủ
đội tấn công (người sút phạt đền) và
thủ môn đội phòng ngự.
[29]
• ả
bóng

:

Khi trận đấu bị dừng lại không phải
do bóng ra ngoài sân hoặc có cầu thủ bị phạm lỗi
(ví dụ có cầu thủ bị chấn thương, có cổ động
viên
nhảy vào sân). Trọng tài sẽ là người cầm
bóng và thả trước sự có mặt của một cầu thủ mỗi
đội.
[30]
3.5 Phạm
lỗi
Một
cầu thủ đội sọc đỏ đen vi phạm luật 12 bằng

việc
kê chân
cầu thủ đội
sọc
trắng xanh.
Một lỗi xảy ra khi có cầu thủ vi phạm các điều ghi
tr
ong
Luật bóng đá. Các lỗi vi phạm
được
quy định trong
điều
12 của Luật bóng đá (đôi khi còn được gọi là Luật 12).
Các lỗi thường thấy là câu giờ, đẩy người, kéo áo. Đội
có cầu thủ vi phạm sẽ chịu cú đá phạt trực tiếp hoặc
đá
phạt đền từ phía đối phương.
[2]
Để cảnh cáo cầu thủ phạm
lỗi,
trọng tài sẽ sử dụng
biện
pháp nhắc nhở, nặng hơn là phạt thẻ

vàng và nặng
nhất
là phạt thẻ

đỏ . Cầu thủ bị phạt 2 thẻ vàng hoặc
một

thẻ
đỏ sẽ bị đuổi khỏi sân và không được thay
thế
bằng
cầu thủ dự bị. Cầu thủ ngoài sân nếu có hành
vi
không
đúng mực cũng sẽ bị trọng tài sử dụng thẻ
vàng
hoặc
thẻ đỏ để cảnh cáo.
Với
các thành viên ban
huấn
luyện
và huấn luyện viên trưởng, trọng tài
không sử
dụng
thẻ vàng, thẻ đỏ mà có quyền đuổi
trực tiếp người vi phạm ra khỏi sân.
[2]
Trong tình
huống xét thấy tiếp
tục
cho bóng động có lợi hơn cho
đội bị phạm lỗi, trọng
tài
có quyền tiếp tục cho trận
đấu diễn ra và tiến
hành

việc cảnh cáo cầu thủ phạm
lỗi sau khi bóng chết,
tình
huống này được gọi là phép
lợi thế.
Luật phức tạp nhất của bóng đá là luật việt vị . Luật
này
đã có nhiều thay đổi kể từ ngày ra đời, theo quy
định
mới nhất thì một cầu thủ tấn công bị coi là việt
vị
khi
so với đường biên ngang khung thành đội
phòng ngự, cầu thủ này đứng thấp hơn 2 cầu thủ
phòng ngự cuối cùng của đối phương (kể cả thủ môn).
4 Cầu thủ và trận
đấu
4.1 Các hình thức chơi

ng
Trẻ em chơi
bóng
đá.
Với
luật chơi đơn giản và trang bị không đòi hỏi cầu
kỳ, đắt tiền, mọi người ở mọi lứa tuổi đều có thể chơi
bóng
như một môn giải trí trong các sân tập, tại các
giờ
học

thể dục hay thậm chí là trên đường phố. Tuy
nhiên để chơi bóng chuyên nghiệp thì các cầu thủ
thường
phải
tham gia các câu lạc bộ bóng đá từ khi
còn trẻ để được huấn luyện kỹ thuật và chiến thuật
cơ bản của
môn
bóng đá. Tại các cơ sở đào tạo này,
cầu thủ trẻ sẽ được rèn luyện cả về thể
lực
và kỹ chiến
thuật cũng như được tham gia nhiều trận đấu theo
từng lứa tuổi để tích
lũy
kinh nghiệm. Do tính cạnh
tranh rất cao của bóng
đá
chuyên nghiệp, chỉ một
phần nhỏ trong số các cầu
thủ
trẻ có thể trở thành cầu
thủ chuyên nghiệp, số còn lại chấp nhận chơi bóng
như một sở thích hoặc tiếp tục sự nghiệp ở các câu lạc
bộ bán chuyên
nghiệp
.
Để chơi trọn vẹn một trận đấu bóng dài 90 phút,
cầu
thủ cần một sức khỏe và độ bền lớn vì tùy theo vị

trí,
họ phải di chuyển (chủ yếu là chạy) trên quãng đường
tổng cộng dài từ
6
đến
11
km.
Bên
cạnh
đó,
cầu thủ
bóng
đá còn bị đe dọa
bởi
các chấn thương rất dễ xảy
ra
tr
ong
trận đấu hoặc trong lúc tập luyện, chấn
thương
thường
xảy ra với họ ở chân, ví dụ chấn
thương gân
kho
eo
,
chấn thương gót chân và đôi khi
thậm chí là gãy
chân.
Những cái chết trên sân đấu

hoặc sân tập, tuy
hiếm
gặp nhưng cũng vẫn xảy ra
trong môn bóng đá,
một
trường hợp như vậy là cái
chết của cầu thủ
Antonio
Puerta





người

Tây
Ban


Nha ,
anh đã chết trong bệnh
viện
sau khi bị ngừng tim
ngay trong một trận đấu
thuộc
giải La

Liga v ào ngày
25


tháng

8

năm 2007 .
[31]
Vì sự tiêu tốn thể lực và các
mối đe dọa này, một cầu
thủ
bóng đá chuyên nghiệp
hiếm khi có đủ
100%
khả
năng
để thi đấu suốt một
mùa giải dài 9 tháng, họ
thường
có chiến thuật phân
bổ sức lực chú trọng cho các
trận
đấu lớn. Cũng như
nhiều môn thể thao hiện đại khác, hiện tượng doping
cũng xuất hiện trong bóng đá. Sau một thời gian dài
không chấp nhận hợp tác với Ủy ban

chống

doping
quốc


tế

(

AMA), FIFA
vào năm 2006 đã

đồng

ý

với

đề
nghị

của

IOC về

việc

tất

cả

các

liên

đoàn

bóng

đá
phải



công

ước quốc

tế

về

chống

sử dụng

doping.
T uy

nhiên

FI

F


A





vẫn

giữ quyền

tự

quyết
định

hình
thức

xử

phạt

với cầu

thủ

bị

phát


hiện

dùng
doping.
[32]

Một trong những đặc điểm hấp dẫn của môn bóng
đá
là tính bất ngờ của kết quả trận đấu, về mặt này
bóng
đá và bóng

chày

được coi là hai môn thể thao
đồng
đội có tính bất ngờ cao nhất.
[33]
Có thể kể tới
trường
hợp của Đan

Mạch

vốn tham dự Giải vô

địch

bóng


đá


châu

 u

1992





với tư cách đội thay thế Nam Tư bị cấm
vận nhưng cuối cùng lại vượt qua nhiều đội mạnh để
trở thành nhà vô địch châu Âu, hay chiến thắng 3-2
tại
chung kết W orld Cup
1954


của Tây
Đức


trước
Hunga r

y


,


đội trước đó đã thắng họ tới 8-3 tại vòng
đấu bảng. Có thể tóm tắt sự bất ngờ trong môn bóng
đá bằng câu
nói
nổi tiếng của huấn luyện viên Sepp
Her b

erger

của đội tuyển Đức vô địch World Cup
1954:
4.2 Môi trường thi
đấu
Những cầu thủ bóng đá hiện đại đầu tiên thường là các
sinh viên, sau đó
mới
đến
giới
thượng lưu và công
nhân.
Ban đầu họ chỉ là các cầu thủ nghiệp dư và lấy
bóng
đá
như một thú giải trí. Một thời gian dài đầu
thế

kỷ


20 , việc chơi bóng một cách chuyên nghiệp cho
các câu lạc bộ của những ông chủ lớn bị coi như
hành động "đi làm nô lệ"
[35]
vì đồng lương thấp và
điều kiện thi
đấu
tồi, ví dụ cầu thủ quốc tế người Pháp
ad é

e
Cis

o

wski


được
nhận lương mỗi tháng
400
franc
vào năm 1961 ,
[36]
chỉ nhiều hơn
30%
so với mức lương
tối thiểu của
P

háp
(SMIC ).
Tuy các liên đoàn cầu thủ
đã được thành lập ở Anh từ đầu thế kỷ
20,
các tổ chức
này thực tế đã
không
đấu tranh được nhiều cho việc
cải thiện tình trạng
tồi
tệ đó.
[37]
Từ thập

niên

1960

,


điều kiện thi đấu của
bóng
đá chuyên nghiệp bắt đầu thay đổi, từ năm 1969
cầu


thủ bắt đầu được ký hợp đồng có kỳ hạn ở Pháp,
[38]


Anh là từ năm 1978 .
[39]
Từ thập

niên

1970

,


những “nô lệ đá bóng” bắt đầu
trở
thành “lính đánh
thuê
"
với điều kiện kinh tế cao
hơn
khi họ có sự tư vấn của những người hoặc cơ quan đại
diện.
[40]
Tuy nhiên ngay cả mức lương của các ngôi
sao
tại các giải bóng đá lớn vẫn còn thua kém so với
mức lương của các ngôi sao Công

thức

1 ,

NBA

hoặc


quyền
Anh





chuyên





nghiệp

.

Ví dụ siêu sao Diego
Maradona
được
câu lạc bộ
SSC
Na

p




oli



trả


7,5
triệu
franc Pháp mỗi năm trong khi tay đấm Lar r

y Holmes
nhận
được
hơn 45 triệu vào cùng thời gian tương ứng.
[41]
eo
bảng
xếp hạng năm
2006 các
vận động viên
chuyên nghiệp có thu nhập cao nhất của tạp chí
S p

orts
Illustrat e


d
[42]


thì
người có thu nhập cao nhất trong
giới cầu
thủ,
Ronaldinho , nhận khoảng 32,7 triệu
USD một
năm,
tương đương mức của ngôi sao quần
vợt Roger

F e

de r er

(31,3


triệu), nhưng vẫn còn thua
xa tay golf Tiger

W oo

ds

(111,9



triệu).
Cùng với sự gia tăng của lương cầu thủ, số tiền
chuyển
nhượng một cầu thủ từ câu lạc bộ này sang câu lạc bộ
khác cũng tăng lên nhanh chóng, nếu như vào
năm
1905 ,
cầu thủ Anh
Alf
Common trở thành cầu thủ
bóng
đá đầu tiên được chuyển nhượng với giá 1000
bảng
Anh
[43]


thì vào năm
2001 ,
vụ chuyển nhượng
Zin e

dine


Zidane

từ Ju v entus


sang Real Madrid đã lập kỷ lục
thế
giới với giá 76 triệu eu r o .
[44]
Tại châu

 u

có 2
mùa
chuyển nhượng chính diễn ra vào khoảng thời
gian
giữa hai mùa giải kế tiếp (từ khoảng tháng 6 đến
tháng
9 hàng năm) và khoảng thời gian nghỉ Đông của
một
mùa giải (từ tháng
12
năm trước đến tháng 1 năm sau).
4.3 Cách mạng về chiến
th
uật
Từ thập

niên

1880






đến khoảng năm
1925 ,
chiến
thuật
phổ biến của các đội bóng là bố trí đội hình gồm 5
cầu
thủ tấn công (tiền
đạo),
3 cầu thủ chơi giữa sân (tiền
vệ
) và 2 cầu thủ phòng ngự (hậu
vệ

). Sở
dĩ phải bố trí
nhiều
tiền đạo như vậy là vì luật việt vị thời gian này
quy
định
tiền đạo phải đứng trên ít nhất 3 cầu thủ đối
phương. Việc luật việt vị giảm số cầu thủ phải đứng
trên từ 3 xuống còn 2 đã ảnh hưởng lớn đến chiến
thuật và số lượng bàn thắng, ngay năm đầu tiên áp
dụng luật mới, số bàn thắng ghi ở giải vô địch bóng
đá Anh đã
tăng
từ
4.700

bàn lên
6.373
bàn.
[45]
Để ứng
dụng luật việt vị
mới,
huấn luyện viên Her b

ert
Chapman đã đưa ra
chiến
thuật mang tính cách mạng
đối với môn bóng đá,
chiến
thuật
“WM”
với 3 hậu vệ,
2 tiền vệ phòng ngự
(
W
), 2 tiền vệ công và 3 tiền đạo
(
M
).
[45]
Bộ tứ tiền vệ ở
trung
tâm thường được gọi là
ô vuông kỳ ảo

[46]
vì họ
đóng
vai trò quan trọng trong
việc điều tiết bóng, phát
động
tấn công cũng như ngăn
chăn các pha phản công
của
đối phương.
6
4
CẦU
THỦ
VÀ TRẬN
6
Chiến thuật WM chính thức phá sản vào năm
1953
sau


thất bại nổi tiếng của đội tuyển Anh trước đội
tuyển
Hungary ngay trên sân

vận

động

W embl e y .

Với
chiến
thuật mới
“4-2-4”,
người Hungary đã hạ người Anh
với tỷ số 6-3. Sau 4-2-4, bóng đá hiện đại bắt đầu
chuyển
sang chiến thuật
“4-3-3”
rồi
“4-4-2”. Về
mặt
phòng ngự,
bước
tiến đáng kể về chiến thuật là đội
hình Catenaccio do

huấn

luyện

viên

người Argentina
Helenio

Her

r


era


đưa ra và được áp dụng phổ biến
trong các đội bóng
Ý
.
Tại Đức, đội hình phòng ngự lại
thường sử dụng
một
cầu thủ phòng ngự tự do
(được
gọi là li b

e r o ) với
những
đại diện nổi tiếng như Franz
B e

ckenbauer hoặc
Lothar
Mahaus

.


Kết hợp việc
phòng ngự và tấn công,
huấn
luyện viên người Hà

Lan Rinus Michels đã đưa ra
triết
lý bóng đá

tổng lực
theo đó mọi cầu thủ cùng tham gia tấn công hoặc
phòng ngự tùy theo tình huống bóng, chiến thuật này
đã đem lại thành công cho câu lạc bộ Ajax
Amste r dam và đội tuyển

bóng đá quốc gia Hà Lan
trong thập

niên

1970





và 1980 .
Bóng đá hiện đại ngày nay thường sử dụng những đội
hình chắc chắn thay vì chỉ tập trung tấn công hoa mỹ,
vì vậy những đội hình thường được các đội bóng sử
dụng là
4-4-2, 5-3-2,
4-5-1 và đội khi là 5-4-1 tùy
the
o

đối thủ và điều kiện thi đấu.
4.4 Ngôi sao bóng
đá
P elé

(áo xanh), người được coi là một trong những ngôi sao
bóng
đá lớn nhất
mọi
thời
đại.
Bóng đá hiện đại sau hơn 1 thế kỷ hình thành và
phát
triển đã sản sinh ra nhiều cầu thủ lớn với khả năng và
thành tích đặc biệt. Những người này thường được gọi
là các ngôi sao bóng đá hay siêu sao bóng đá. Việc xác
định một cầu thủ là siêu sao hoặc huyền thoại bóng
đá
thường gây nhiều tranh cãi, ví dụ danh sách
FI F A

100


gồm 125 cầu thủ còn sống được coi là vĩ đại nhất do
"ông vua bóng đá" người Brasil Pelé

đưa ra cũng
gặp
nhiều chỉ trích vì bị cho là đã bỏ qua nhiều cầu thủ vĩ

đại của quá khứ. Hàng năm người ta thường tổ chức
các cuộc bầu chọn cầu thủ xuất sắc nhất ở cấp độ quốc
gia, châu lục và quốc tế. Những giải thưởng cầu
thủ
được
coi là uy tín nhất thế giới gồm giải
ả
bóng



ng

FI F A

(từ

năm
2010),
giải
ả
bóng



vàng



châu




Â

u



của


tạp
chí
France F o

otball
(từ

năm
1956
đến


2009 ),
giải Cầu
thủ xuất
sắc



nhất

năm của
FIFA
(từ năm
1991
đến


2009 ), giải
ả
bóng



vàng





châu





P




hi



(từ

năm
1970 )
và giải Cầu

thủ

Nam Mỹ xuất

sắc nhất

năm

(từ năm
1971
).

5 Tổ chức điều
h
ành
Tổ chức điều hành và quản lý bóng đá toàn thế giới là
Liên đoàn

bóng


đá

thế

giới
(FI

FA)
có trụ sở tại
Zürich
,

ụy


.

Dưới FIFA
có 6 liên đoàn bóng đá cấp châu
lục gồm:

Châu

Á : Liên đoàn

bóng

đá


châu

Á ( AFC)

Châu

 u : Liên đoàn

bóng

đá

châu

 u
(



UEF
A
)

Châu

Đại

Dương : Liên

đoàn


bóng

đá

châu

Đại

Dương
(

OFC)

Bắc ,
T rung

Mỹ và Cari b

e : Liên đoàn

bóng

đá

Bắc,
T rung

Mỹ và Cari b


e ( CONCACAF)

Nam

Mỹ : Liên

đoàn

bóng

đá

Nam

Mỹ

(CONMEBOL)

Châu

P

hi : Liên đoàn

bóng

đá

châu


P

hi
(

CAF)
Mỗi một quốc gia thành viên
FIFA
đều có cơ quan
điều
hành riêng. Các cơ quan này có mối quan hệ chặt
chẽ
với
FIFA
cũng như liên đoàn cấp châu lục của quốc gia
đó. Có một số ngoại lệ về quan hệ liên đoàn quốc gia-
châu lục, ví dụ như Úc nằm ở Châu

Đại

Dương

tuy


nhiên Liên

đoàn

bóng


đá

Úc

từ năm 2006 đã
chuyển
về trực thuộc Liên

đoàn

bóng

đá

châu

Á , hoặc
như
Israel

thuộc khu vực Tây

Á tuy nhiên Liên đoàn

bóng


đá


Israel

lại trực thuộc Liên đoàn

bóng

đá

châu

 u

từ


năm 1991 .
6 Giải đấu c
hính
6.1 Cấp quốc
tế
Giải đấu cấp quốc tế lớn nhất của bóng đá thế giới là
W orld Cup . World Cup được
FIFA
tổ chức lần đầu
năm
1930


đến nay đã trở thành giải thi đấu thể thao được
nhiều người theo dõi nhất hành tinh, vượt qua

cả

ế
vận

hội , ví dụ vòng chung kết W orld

Cup

2006





tổ
chức
tại Đức đã thu hút
26,29
tỷ lượt khán giả xem truyền
hình trong đó riêng trận chung kết đã
thu

hút

715,1
triệu khá giả trên khắp thế giới.
[47]
W
orld

Cup được tổ
chức theo thể thức 4 năm một lần với vòng đấu loại
có sự tham gia của trên 190 quốc gia thành viên
FIFA
và vòng chung kết có sự góp
mặt
của 32 đội tuyển
(trước năm 1982 là 16 đội, trước năm 1998 là 24 đội),
Bản đồ các quốc gia từng tham dự World Cup, màu càng
đậm là số lần tham dự càng nhiều.
vòng chung kết của W orld

Cup

2014





được tổ chức
tại
Brasil .
[48]
Trong chương trình
ế
vận






hội





Mùa









cũng




hạng
mục thi đấu của môn bóng đá kể từ năm 1900

(trừ
ế
vận


hội

Mùa



1932 tổ chức tại Los Angeles ). Cho
đến trước
ế

vận





hội





Mùa












1984

,

chỉ có các
cầu thủ nghiệp dư được phép tham gia
thi
đấu (khác
với World Cup không phân biệt
cầu
thủ chuyên
nghiệp hoặc nghiệp dư).
[9]
Hiện
nay

hạng
mục bóng
đá nam tại
ế
vận hội Mùa hè
chỉ
dành cho các cầu
thủ dưới
23 tuổi (với một số cầu thủ nhất định quá 23 tuổi).
[49]

Bên cạnh World Cup do
FIFA
tổ chức, các liên
đoàn
châu lục cũng có các giải đấu cấp độ châu lục của
riêng
họ, đó là Giải vô địch bóng

đá châu

 u của
UEFA,
Cúp
bóng





đá





Nam



Mỹ




của


CONMEBOL,
Cúp
bóng

đá

châu


P

hi

của
CAF,
Cúp

bóng

đá

châu

Á của

AFC,
Cúp

bóng


đá

Bắc, T rung

Mỹ



Cari b

e

của
CONCACAF

Cúp
bóng



đá




châu





Đại



Dương



của


OFC.
Các nhà vô địch
của
các giải đấu cấp châu lục
cùng với đương kim vô địch World Cup sẽ gặp nhau
tại Cúp Liên đoàn

các châu

lục , đây là giải đấu khởi
động cho World Cup và được FIFA tổ chức trước
World Cup
1

năm.
Các
câu lạc bộ của
từng
châu lục
cũng có các giải đấu riêng trong đó đáng
chú
ý nhất là
UE F A

Champions





League





châu

 u và Copa
Li b

ertado r es de América ở Nam Mỹ . Các câu lạc bộ vô
địch giải đấu cấp châu lục sẽ gặp nhau trong Giải vô
địch bóng đá thế


giới các câu lạc bộ do
FIFA
tổ chức.
[50]
6.2 Cấp quốc
gi
a
Tại mỗi quốc gia, cơ quan điều hành bóng đá cấp quốc
gia thông thường sẽ chia giải đấu liên đoàn cấp câu lạc
bộ thành nhiều hạng trong đó đội vô địch hạng dưới
có thể lên thi đấu tại hạng trên và đội xếp cuối hạng
trên
sẽ phải xuống thi đấu tại hạng dưới. Các giải đấu
liên
đoàn này thông thường được tổ chức thành hai
lượt đi và về theo đó các câu lạc bộ trong cùng hạng
sẽ
gặp
nhau 2 lần. Các đội đứng đầu giải đấu liên
đoàn
hạng
cao nhất của mỗi quốc gia sẽ tham dự các
giải đấu cấp châu lục. Bên cạnh các giải đấu liên đoàn
có phân
chia
thứ hạng, thông thường mỗi quốc gia
còn có một giải cúp theo thể thức đấu loại trực tiếp
dành cho câu lạc bộ
8

7
BÓNG ĐÁ VÀ TRUYỀN
8
Hai cầu thủ
C esc

F

àb

r

e

g

as






A nde r son

đang

tranh
bóng
trong

một
trận đấu
thuộc
G iải
bóng





đá

n g oại hạng A nh .
thuộc tất cả các
hạng.
Tại một số giải vô địch quốc gia, cầu thủ bóng đá
được trả lương rất cao, đặc biệt là các siêu

sao

bóng
đá , có thể kể tới các giải lớn ở châu

 u như La Liga
( Tây Ban Nha ), P r emier

League
(

Anh


),


Bundesliga
( Đức ),
Serie A
(Ý )
và Ligue 1 ( P

háp ).
7 Bóng đá và
truyền
th
ô
ng
7.1 Báo
viết
Khi
bóng đá mới ra
đời,
nó ít
được
đề cập đến trong
báo chí nói chung và báo chí thể thao nói riêng vì bị
coi là quá “bình dân”.
ậm
chí tờ e

Field



(xuất bản
tại

Anh
từ năm
1853 )
vốn chuyên về các môn thể thao
“quý tộc” như đánh
golf,
tennis, đua ngựa chỉ còn mở
hẳn

một
cột báo nhỏ để chê bai và châm biếm môn
bóng

đá.
Một ví dụ khác là tờ
L ' A uto

của

Pháp chỉ bắt
đầu
đăng tin về bóng đá từ sau
ế
chiến






thứ





nhất

.

[51]
Tuy nhiên cùng với mức độ phổ biến của bóng đá
trên
thế giới, báo chí thể thao cũng bắt đầu dành mối
quan
tâm cho môn thể thao này. Hàng loạt báo và tạp
chí
chuyên về bóng đá ra đời, ví dụ các tờ A
Bola

,


O
Jogo và
R e


co r d

của

Bồ

Đ à

o

Nha , La

Gazzea dello
S p

ort

,


T uos p

ort




Corrie r e


dello

S p

ort

-





Stadio



của


Ý ,
Ma r ca và
A s

của

Tây Ban Nha ,
Olé

của


Argentina


L'Équi p

e của P

háp . Những báo và tạp chí chuyên
về bóng
đá
như vậy bắt đầu được xuất bản trong
thời gian giữa
2 cuộc đại chiến thế giới, ngoài tờ tuần báo
Le
F o

otball
A ss o

ciation

do

chính
FIFA
xuất bản từ tháng 10
năm
1919

thì


mãi đến năm
1929 ,
tờ báo chuyên về bóng
đá
đầu tiên mới được xuất bản, đó là tuần báo
F o

otball
của
Pháp. Sau
ế
chiến





thứ





hai

,

tờ báo này được
tiếp

nối
bằng tờ báo nổi tiếng
France

F

o



otball

.

Báo viết không chỉ có vai trò quan trọng trong việc
quảng bá môn bóng đá với công chúng mà còn
tham
gia tổ chức và duy trì các giải đấu. Giải đấu danh giá
Cúp các đội vô địch bóng

đá quốc gia châu

 u đã được
chính tờ
L'Équi p

e

của


Pháp tổ chức lần đầu năm 1955 .
9
7
BÓNG ĐÁ VÀ TRUYỀN
8
Một số câu lạc bộ cũng dần xuất bản những tờ báo
của
riêng họ, ví dụ câu lạc bộ Celtic
FC
cho ra đời tuần
báo
e
Celtic View
[52]
từ năm
1965

để

chuyên đăng tin tức
về câu lạc bộ Scotland này. Câu lạc bộ của
Ý
AS
Roma cũng sở hữu tờ Il
Romanista
(xuất bản từ năm
2004 )
với số lượng khoảng
10.000
bản mỗi kỳ.

[53]
7.2 Truyền

nh
Một
người quay
phim trong
thời gian World
Cup
2006.
Từ những năm 1920 các trận đấu bóng bắt đầu được
tường thuật trực tiếp trên đài phát

thanh .
[54]
Buổi
tường
thuật lại một trận đấu lần đầu tiên được phát
trên
sóng
phát thanh của
Ý
ngày 6 tháng

10 năm
1924 .
[55]
Nghề bình

luận


viên

bóng

đá cũng bắt đầu
xuất hiện với những tên tuổi lớn như G e

orges
Briquet , người được mệnh danh là
“Vua
bình luận trên
đài” của phát
thanh
Pháp.
[56]
Ngay cả sau khi truyền
hình ra
đời,
việc
tường
thuật trận đấu trên sóng phát
thanh cũng không vì thế mà lụi tàn vì nhiều người
không có điều kiện xem truyền hình vẫn có nhu cầu
nghe đài để theo dõi
diễn
biến trận đấu.
[57]
Ngày
16

tháng





9



năm


1937 ,
buổi phát hình đầu tiên
mộ
t
trận đấu bóng đá được đài
BBC

thực

hiện với trận
đấu
giữa Arsenal và đội dự bị của họ.
[58]
Arsenal được
chọn
cho buổi phát hình này với lý do đơn giản là
sân

đấu
của câu lạc bộ gần với trụ sở đài
BBC
trên
Al e
xandra


Palace .
Ở cấp độ quốc tế, W orld Cup
1954


là giải đấu lớn đầu tiên được truyền hình.
[59]
Ngay từ
giai đoạn
đầu
mối quan hệ giữa truyền hình và bóng
đá đã có
nhiều
xung đột.
Ma Busby ,
huấn luyện viên
của
Manchester
Unit

e




d





đã

tuyên bố vào năm
1957 :
“Các cầu thủ
bóng
đá phải được trả tiền cho giá trị
của họ. Không có
thù
lao, không có phát sóng.”
[60]
Mâu thuẫn về quyền lợi
đã
dẫn đến việc các sân bóng
không cho phép đài
truyền
hình mang máy quay vào
tường thuật trận đấu. Mãi đến thập

niên

1980






khi các
đài truyền hình chấp
nhận
chia sẻ
lợi
nhuận
với
các
câu lạc
bộ,
những trận đấu cấp câu lạc bộ mới bắt đầu
được tường thuật thường
xuyên
hơn trên màn ảnh
nhỏ.
Hiện nay, tiền bản quyền truyền hình đã trở thành
một
1
7
BÓNG ĐÁ VÀ TRUYỀN
8
Một
trận đấu được
truyền
trực

tiếp theo
chuẩn
H D t rong một
rạp
chiếu phim
tại Anh.
nguồn thu quan trọng của các đội bóng và giải đấu, vì
vậy đôi khi lịch thi đấu của
các
đội phải
được
điều
chỉnh
cho phù hợp với giờ theo dõi thuận lợi của khán
giả, ví dụ các trận cầu "đinh” của giải Serie A thường
bao giờ cũng
được
tổ chức vào tối Chủ Nhật

thay vì tối
thứ Bảy như các trận đấu thông thường khác. Để
giành
quyền
phát sóng các giải đấu quan trọng, các
đài truyền
hình
lớn như Sky T

V của Anh hay
TF1





Canal+

của
P
háp
cũng phải cạnh tranh nhau quyết
liệt để đưa ra
những
số tiền bản quyền càng ngày
càng tăng. Một ví dụ
cho
sự phổ biến của việc truyền
hình các trận đấu là W
orld


Cup

2006 , giải đấu này
đã được tổng cộng 376
kênh
truyền hình phát sóng
trực tiếp trên khắp thế giới với tổng lượng khán giả
lên tới
26,29
tỷ lượt, tức là

trung
bình mỗi trận có
khoảng
506
triệu người trên Trái
Đất
theo dõi.
[61]
Truyền hình không chỉ ảnh hưởng tới
bóng
đá về mặt
kinh tế.
Với
công nghệ tường thuật ngày
càng
tiên tiến,
các lỗi nhận định của trọng tài hoặc các
pha
tiểu xảo
của cầu thủ trên sân dần không thể qua
nổi
mắt
khán giả. Nghề trọng tài và luật 12 liên quan
đến
lỗi
của cầu thủ vì thế cũng càng ngày càng được
hoàn
thiện.
Tương tự như báo viết, một số câu lạc bộ cũng
bắt

đầu thành lập cho riêng họ các kênh truyền
hình.
Middlesb r ough

FC

là câu lạc bộ đầu tiên của
Anh
có kênh truyền hình của riêng mình, kênh Boro TV
bắt đầu được phát sóng từ năm 2001 .
[62]
Một số
kênh
truyền hình của câu lạc bộ khác có thể kể tới OM
T

V ,
OL

T

V ,
Inter

Channel , Milan Channel, Roma
Channel,
Manchester United
TV,
Real Madrid TV và
Barca TV.

8 Lợi ích kinh
tế
Việc khai thác các lợi ích kinh tế của bóng đá bắt
đầu
diễn ra ngay từ thập niên
1880
ở Anh.
[63]
Tiền vé vào
sân của mỗi trận bóng đá đã giúp các đội bóng tự
nuôi
sống và xây dựng các sân đấu. Trung bình một
trận
đấu tại mùa giải vô địch đầu tiên của bóng đá
Anh
(mùa
1888-1889)
thu hút khoảng
4.639
khán giả,
[64]
cho
1
7
BÓNG ĐÁ VÀ TRUYỀN
8
10 10
BÓNG ĐÁ TRONG VĂN HÓA ĐẠI
CHÚNG
Các cổ

động viên
của
Borussia
Dortmund
đến cuối thế kỷ 19 con số này đã tăng lên
khoảng
10.000
người và đến trước
ế
chiến





thứ





nhất









20.000
người.
[65]
Vé vào sân tiếp tục là nguồn thu chính cho các
câu
lạc bộ bóng đá cho đến thập

niên

1990 , sau đó
dần
được thay thế bằng tiền bản quyền truyền hình.
Cùng
với truyền hình, các hình thức quảng cáo gắn với đội
bóng và trận đấu cũng được tận dụng triệt để. Việc
quảng cáo trên ngực áo cầu thủ bắt đầu xuất hiện ở
Pháp từ năm 1969 với các câu lạc bộ đi tiên phong là
Nîmes Olympique

và Olympique

de

Marseille .
[66]
Từ
năm
1982 , UE F A

bắt


đầu cho phép cầu thủ mặc áo có
quảng cáo trong các giải đấu cấp câu lạc bộ trừ
trận
chung kết (giới hạn trận chung kết chỉ được dỡ bỏ
từ
năm
1995 ).
Tuy nhiên việc quảng cáo trên ngực áo đội
tuyển cấp quốc gia cho đến nay vẫn chưa được FIFA
chấp
nhận.
eo
thống kê của mùa bóng
2006-2007
thì câu
lạc
bộ

doanh thu lớn nhất thế giới là
Real
Madrid



của

Tây
Ban Nha
với 351

triệu euro, sau đó là Manchester
Unit e

d của Anh
(315,2
triệu),
FC
Ba

r

celona



của

Tây
Ban
Nha

(290,1
triệu), Chelsea
FC
và Arsenal

FC
cùng
của
Anh


(283

263,9
triệu).
[67]
Doanh thu tăng nhưng các câu lạc bộ
cũng phải đối mặt với số tiền phải chi trả cho lương
cầu thủ, đặc biệt là các ngôi sao của đội.
eo
thống

của mùa bóng
2007-2008, 20
câu lạc bộ của Giải vô
địch bóng

đá
Ý





đã phải chi tổng cộng
768,4
triệu euro
tiền
lương cầu thủ, tăng thêm
101,9

triệu euro chỉ sau
một
mùa.
[68]
Bên cạnh các mối lợi kinh tế trực tiếp, bóng đá
cũng
đem lại nguồn thu cho các ngành kinh tế có liên
quan,
đặc biệt là du lịch. Ví dụ thành phố A uxer r e

của
P
háp
vốn rất nhỏ với chỉ hơn
40.000
dân nhưng nhờ có đội
bóng AJ A uxer r e

có thành tích khá tốt tại giải vô địch
Pháp nên kéo theo đó du lịch của thành phố này
cũng
phát triển.
[69]
Một ví dụ khác là việc tổ chức W orld
Cup
2006 chỉ trong vòng 1 tháng đã giúp lượng khách
du
lịch đến Đức trong cả năm
2006
tăng thêm

9%.
[70]
9 Bóng đá và chính
trị
Không chỉ là một môn thể thao thông thường, bóng
đá
đôi khi còn có ảnh hưởng chính trị

khu
vực
hoặc
thậm
chí là quốc tế. Một số câu lạc bộ bóng đá thành
công
thường
được
coi là biểu tượng cho địa phương
hoặc
chủ
nghĩa dân tộc nơi đội bóng đóng quân, FC
Ba r celona được người Catalan

coi là biểu tượng cho
tinh thần
tự
trị của họ, hoặc như Athletic

Bilbao




niềm tự hào
của
người dân xứ Basque với lý do tương
tự.
[71]
Ngược lại đôi khi bóng đá cũng được coi là liều
thuốc đoàn
kết
tinh thần của một quốc gia, có thể kể
tới chiến
thắng
của đội tuyển Pháp tại W orld Cup
1998


hay của Iraq
tại


Cúp

bóng

đá

châu

Á
2007


,


theo lời
chủ tịch Liên
đoàn


bóng

đá

Iraq Hussein

Sa ee

d thì
“người Iraq chỉ sống vì bóng đá, và đó là bí mật để họ
có thể đối mặt với mọi khó khăn”.
[72]
Ở mức độ quốc tế, lịch sử đã ghi nhận Chiến tranh
bóng
đá





v


ào năm
1969



cuộc xung đột đầu tiên bắt
nguồn
từ một trận đấu bóng. Đó là chiến thắng 3-2
tại
vòng
loại W orld

Cup

1970





của El Salvador

trước
Honduras
.


Những xung đột trong và sau trận đấu đã
dẫn đến việc El Salvador đem quân tấn công

Honduras, cuộc
chiến
đã khiến hơn
2.000
người thiệt
mạng và càng làm
trầm
trọng sự mâu thuẫn giữa hai
nước láng giềng
này
.
[73]
Bóng đá cũng trở thành
phương tiện tuyên
truyền
cho Mặt trận

giải phóng
Algérie t rong thời gian
Chiến
tranh





Algérie

.


[74]
Đôi khi
bóng đá lại trở thành
phương
tiện để thúc đẩy hoặc
hàn gắn quan hệ ngoại giao giữa các nước có mâu
thuẫn, có thể kể tới trận đấu lịch sử giữa Mỹ

và Iran
tại vòng đấu loại bảng F W orld

Cup

1998

hay

W orld

Cup

2002

,


giải đấu được Nhật

Bản



Hàn

ốc

,


hai quốc gia vốn có nhiều mâu thuẫn
lịch
sử, tổ chức chung khá thành công.
[75]
10 Bóng đá
trong
văn hóa
đại
c
h
úng
10.1 Văn hóa bóng
đá
Bóng đá được nhiều nghệ sĩ coi là thứ “ngôn ngữ
toàn
cầu” với
những đặc điểm thi đấu, luật lệ và truyền
thống
riêng của nó.
[76]
Nhà văn Al b


ert

Camus , người
từng
một thời là thủ môn bóng đá, đã phát biểu
rằng:
Tác phẩm văn

học về bóng đá có thể kể tới
V ua bóng
đá
của
Aziz
Nesin



hay


Fever Pitch (1992 )
của
Nick
Hornby
.


Âm nhạc, nhất là các bài hát tập thể, là
một yếu
tố

không thể thiếu của các trận bóng. Các
câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia thường có những bài
đồng ca để cổ vũ tinh thần cầu thủ và huấn luyện viên.
[77]
Đây có
thể
là những bài hát
được
sáng tác riêng cho
câu lạc bộ
như
Leeds United
(của
L ee

ds Utd )
hay
Good
old
Arsenal (của Arsenal ). Cũng có những bài hát
không
được
viết
riêng
cho bóng đá nhưng lại trở thành
ca khúc yêu thích
của
các cổ động viên, tiêu biểu là
Y ou'll


N e v er

W

alk Alone

,

A lbert

C amus ,
nhà văn, triết gia nổi
tiếng,
một thời từng là
thủ
môn bóng
đá
bài hát không chính thức của cổ động viên Li v er po

ol
FC . Ngược
lại, một số nghệ sĩ cũng lấy cảm hứng từ
các trận bóng để sáng tác các bài hát, có thể kể tới W e
Will
R o

ck Y ou




W e A r e
the



Champions



của

nhóm
 e

en

.

[78]
Trong thế giới điện

ảnh , bộ phim đầu tiên về bóng đá,
Har r

y

e

F


o



otballer

,


được đạo diễn người Anh
Le
win
Fitzhamon thực hiện từ năm 1911 .
[79]
Các tác
phẩm
điện ảnh về đề tài bóng đá có nội dung rất đa
dạng,
từ sự hâm mộ cuồng nhiệt của cổ động viên trong À
mort

l'arbit r e

(

1984

,



đạo diễn Jean-Pier r e

M o

cky )
đến
cái nhìn trào phúng về bóng đá trong
Coup de tête
( 1979 , Jean-Jacques

Annaud ) hay những trận đấu
mang
dấu
ấn lịch sử trong
Esca p

e

to


Victo r

y

( 1981 ,
đạo
diễn John Huston ) hoặc Das

W under


v on

Bern
( 2003 , đạo
diễn
Sönke

W ortmann ). Bóng đá đôi khi
còn được “mượn” để nói tới các đề tài văn hóa khác,
có thể kể tới vở
kịch
truyền hình T rận

bóng của
những

triết

gia

do
nhóm
Monty

Python

thực hiện
năm 1972 .
Bóng đá cũng được chuyển thể thành các trò chơi,

từ
các trò chơi cổ điển như bóng đá bàn hay Subbut e

o
đến
các trò điện tử hiện đại như loạt
FI F A F o

otball

của


hãng
El e

ct r onic

Arts

hay loạt P r o
E

v

olution






S

o



ccer





của
hãng
K onami (trò chơi điện tử bán chạy nhất tại P

háp
năm
2006
[80]

)
.
10.2 Cổ động vi
ê
n
Bóng đá, môn thể

thao


được hâm mộ nhất thế giới,
đã
tạo riêng cho nó một nền văn

hóa

cổ động riêng biệt.
Cổ động viên là những người đóng góp tài

chính

nhiều


nhất cho câu lạc bộ hoặc đội tuyển họ yêu thích
thông
qua nhiều hình thức như mua vé vào sân, mua đồ lưu
niệm của đội bóng hoặc tham gia các hội người
hâm
mộ do đội bóng tổ chức. Bên cạnh đó, các cổ động
viên
cũng là động lực (và cả sức ép) cho đội bóng
trong và ngoài sân đấu, vì vậy đôi khi cổ động viên
bóng đá được coi như “cầu thủ thứ
12”
của đội bóng.
Các hội cổ động viên bóng đá bắt đầu được hình
thành
từ cuối thế kỷ 19 tại Anh . Ban đầu các hội này

thường
phụ thuộc trực tiếp vào các đội bóng nhưng kể từ
thập
niên

1940 họ bắt đầu tách riêng đứng độc lập.
[81]
Các
hội cổ động viên thường đứng ra tổ chức các hình
thức
cổ động trên sân, đặc biệt là trong các trận đấu
“derby” giữa các đội bóng kình địch. Những trận
“derby” giữa các đội bóng kình địch nổi tiếng thường
trở thành
màn
trình diễn không chỉ của các siêu sao
hai đội mà còn là của các hội cổ động viên, có thể kể
tới các trận “derby” nổi tiếng thế giới như
Derby
della


Madonnina giữa A . C. Milan và Inter

Milan của
Ý, El
Clásico

giữa



Real
Madrid

và FC Ba r celona

của Tây
Ban Nha hay El
Su

p



e

r

clásico


giữa
CA B o

ca
Juniors







CA Ri v er
P



late



của


Argentina.
ông
thường các cổ động viên bóng đá thường cổ

trận đấu một cách hòa bình, tuy nhiên đôi khi bạo lực
cũng bùng phát, đặc biệt là trong các trận đấu giữa
những đội bóng kình địch. Bạo lực thậm chí đã
biến
một số trận đấu trở thành thảm kịch, ví dụ điển hình là
thảm

họa

H e ysel diễn ra trên sân

vận


động

H e ysel
tại


Bỉ năm
1985

đã

khiến 39 cổ động viên thiệt mạng,
hơn
600 người khác bị thương. Trong một số trường
hợp
khác, cổ động viên bóng đá quá khích lại tràn
xuống
sân làm gián đoạn các trận thi đấu, đây là trường
hợp
của trận giao hữu giữa đội tuyển Algérie và đội
tuyển
Pháp diễn ra năm
2001
tại

Stade de France , các cổ
động
viên tràn vào sân đã làm trận đấu phải kết thúc sớm 15
phút.

[82]
11 Các loại hình bóng đá
kh
á
c
Bóng đá thông thường được chơi với hai đội hình 11
người trên sân lớn, tuy nhiên đôi khi môn thể thao
này
cũng được biến đổi về số người chơi, luật lệ để phù
hợp
với các điều kiện chơi bóng khác
nhau.
11.1
Futsa
l
Futsal hay bóng đá trong nhà là môn thể thao
tương
tự bóng đá nhưng các trận đấu được diễn ra trong
nhà
với một số luật lệ được thay đổi cho phù hợp
[83]

dụ
kích thước sân và bóng được thu nhỏ, các cầu thủ đi
giày đế bằng thay vì giày đinh như ở các trận đấu
sân
cỏ. Futsal ra đời vào năm
1930

tại


Uruguay

và liên
tục
phát triển
dưới
sự bảo trợ của
FIFA. FIFA
cũng là tổ
chức điều hành Giải vô địch bóng đá t r ong

nhà

thế
giới . Các đội tuyển quốc gia có truyền thống ở môn
thể thao
này
1
12 13
THAM
KHẢO
có thể kể tới Tây Ban Nha,
Ý

Brasil.
Tại vòng
chung
kết Giải vô địch thế giới môn futsal gần đây nhất vào
năm

2008
tại
Brasil ,
đội vô địch là Brasil sau khi
thắng
Tây Ban Nha 4-3 sau loạt sút luân lưu (hai đội hòa 2-2
trong thời gian thi đấu chính thức) tại trận chung
kết.
11.2 Bóng đá bãi
b
iển
Một
trận
bóng
đá bãi biển
Bóng
đá bãi biển là môn bóng đá chơi trên bãi cát,
thông
thường là bãi biển. Các trận đấu bóng đá bãi
biển có
2 đội, mỗi đội 5 người với quyền thay người
không
hạn chế. Các cầu thủ chơi trên một sân nhỏ kích thước
28x37
m trong 3 hiệp, mỗi hiệp 12 phút. Giải vô địch
thế giới môn bóng đá bãi biển được
FIFA
tổ chức
từ
năm

1995 .
Trong môn thể thao này, đội tuyển thống
trị
nhiều năm qua là đội bóng đá bãi biển Brasil, đội
này
đã 12 lần vô địch thế giới kể từ năm
1995,
thành
tích
vượt xa so với 2 đội đứng tiếp theo là Bồ Đào Nha và
Pháp (cùng 1 lần vô địch thế giới).
11.3 Loại hình
kh
á
c
Bóng đá cho người khuyết

tật

có hai loại hình chính là
bóng

đá

xe

lăn

( cho người khuyết tật chi) và bóng


đá


cho

người khiếm

thị

( cho người có khuyết tật về mắt).
Môn bóng đá cho người khiếm thị được đưa vào
nội
dung thi đấu của Paralympic

kể từ năm
2004 .
Tại các
loại hình bóng đá này thì những đội tuyển Nam Mỹ
như Brasil và Argentina cũng là những người
thống
trị. Ngoài ra tại các thành thị còn thịnh hành loại
bóng
đá

đường
phố

.

Ngoài những loại hình kể trên, cũng còn một số loại

hình ít phổ biến hơn như môn jorkyball hay môn
bóng
đá

tennis

.

15
NGUỒN,
NGƯỜI
ĐÓNG GÓP, VÀ GIẤY
PHÉP
CHO VĂN BẢN VÀ HÌNH
1

×