Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Nghiên cứu tác dụng của cây móc trên thực nghiệm theo hướng làm thuốc cầm máu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.41 MB, 60 trang )





BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI


PHẠM THỊ MAI HƯƠNG


NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG CỦA CÂY
MÓC TRÊN THỰC NGHIỆM THEO
HƯỚNG LÀM THUỐC CẦM MÁU

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ






HÀ NỘI - 2013




BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

PHẠM THỊ MAI HƯƠNG



NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG CỦA CÂY
MÓC TRÊN THỰC NGHIỆM THEO
HƯỚNG LÀM THUỐC CẦM MÁU

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ

Người hướng dẫn:
PGS. TS. Đào Thị Vui
Ths. Nguyễn Hương Giang
Nơi thực hiện:
Bộ môn Dược lực- Đại Học Dược Hà
Nội






HÀ NỘI - 2013





LỜI CẢM ƠN

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc em xin gửi lời cảm ơn chân
thành nhất tới
PGS.TS. Đào Thị Vui – Bộ môn Dược lực

Ths. Nguyễn Thị Hương Giang – Bộ môn Y học cơ sở
TS. Nguyễn Thu Hằng - Bộ môn Dược liệu
Những cô giáo luôn tận tình dạy dỗ, chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá
trình làm khoá luận.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo và anh chị kĩ thuât
viên Bộ môn Dược lực, Bộ môn Y học cơ sở và Bộ môn Dược liệu đã nhiệt
tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận.
Em xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, các phòng ban, cùng toàn thể
các thầy cô giáo, các cán bộ trường Đại học Dược Hà Nội đã tạo điều kiện để
em có thể lĩnh hội những kiến thức quí giá về ngành Dược trong suốt 5 năm
học.
Cuối cùng, em gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn bè
đã luôn ủng hộ, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khoá luận này.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Phạm Thị Mai Hương










DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT


STT Kí hiệu


1 ADP Adrenosin diphosphat
2 APTT Thời gian thromboplastin hoạt hoá từng phần
(Activated Partial Thromboplastin Time)
3 FDP Sản phẩm phân huỷ fibrin
4 IgG Immunoglobulin G
5 PIVKA Các tiền chất đông máu
(Protein induced by vitamine K absence)
6 PT Thời gian prothrombin
(Prothrombin Time)
7 TT Thời gian thrombin
(Thrombin Time)





DANH MỤC CÁC BẢNG

STT

Ký hiệu

Tên bảng Trang

1 Bảng 3.1

Khảo sát tác dụng cầm máu trên thời gian chảy
máu của bẹ móc
30

2 Bảng 3.2

So sánh tác dụng của bẹ và rễ móc trên thời gian
chảy máu
32
3 Bảng 3.3

Ảnh hưởng của số lần dùng bẹ móc tới thời gian
chảy máu đuôi chuột
34
4 Bảng 3.4

Ảnh hưởng của bẹ móc đến số lượng tiểu cầu và
một số chỉ số đông máu cơ bản
35
5 Bảng 3.5

Tác dụng tại chỗ của bẹ móc trên thời gian chảy
máu
36
6 Bảng 3.6

Tác dụng chống viêm cấp đường uống của bẹ
móc
38
7 Bảng 3.7

Tác dụng chống viêm cấp tại chỗ của bẹ móc 39
8 Bảng 3.8


Số chuột chết trong vòng 72 giờ đầu của thử độc
tính cấp
41
9 Bảng 3.9

Tình hình chung của chuột trong 7 ngày thử độc
tính cấp
41







DANH MỤC CÁC HÌNH
STT

Ký hiệu Tên bảng Trang

1 Hình 1.1 Sơ đồ quá trình đông máu 6
2 Hình 2.1 Ảnh cây móc (Caryota urens L., Arecaceae)
chụp tại Phù Ninh, Phú Thọ
21
3 Hình 2.2 Sơ đồ thiết kế nghiên cứu 23
9 Hình 2.3 Sơ đồ qui trình nghiên cứu tác dụng chống viêm
tại chỗ của bẹ móc
27
4 Hình 3.1 Khảo sát liều dùng của bẹ móc 30
3 Hình 3.2 So sánh tác dụng của bẹ và rễ móc trên thời gian

chảy máu
32
4 Hình 3.3 Tác dụng tại chỗ của bẹ móc trên thời gian chảy
máu
36
5 Hình 3.4 Tác dụng chống viêm cấp đường uống của bẹ
móc
38
6 Hình 3.5 Tác dụng chống viêm cấp tại chỗ của bẹ móc 40

1





ĐẶT VẤN ĐỀ
Chảy máu là hiện tượng máu ra khỏi thành mạch vì vỡ mạch hay không
vỡ mạch. Là một hội chứng rất hay gặp, có thể xảy ra ở mọi cơ quan trong cơ
thể như rong kinh hay băng huyết, chảy máu cam, chảy máu chân răng, ho ra
máu,…Chảy máu gây hậu quả nặng hoặc nhẹ tuỳ thuộc lượng máu bị mất, tốc
độ chảy máu và số lần chảy máu. Trong trường hợp chảy máu cấp nặng, có
thể gây sốc hoặc thậm chí gây tử vong. Chảy máu mạn tính với tình trạng rỉ
máu liên tiếp kéo dài, tuy không nguy hiểm trực tiếp nhưng có nhiều hậu quả
về sau. Chảy máu mạn thường khó khăn trong chẩn đoán, có thể gặp trong các
thể bệnh như: ung thư tử cung, loét dạ dày tá tràng, nhiễm ký sinh trùng
đường ruột, điều trị thuốc chống đông máu, Ngoài ra, chảy máu dẫn đến gây
chèn ép, nguy hiểm trong các trường hợp như: tụ máu trong não, chảy máu
màng não, chảy máu bao tim (do vỡ tim) có thể gây tử vong đột ngột [23]. Có
rất nhiều trường hợp chảy máu kết hợp với các triệu chứng viêm, nhưng cũng

có khi chảy máu đơn thuần. Các bệnh liên quan đến chảy máu rất đa dạng,
phổ biến và nguy hiểm nếu không điều trị kịp thời. Trong khi đó thuốc điều trị
các bệnh chảy máu còn ít và còn nhiều tác dụng không muốn, đồng thời là
những nội dung nghiên cứu còn ít được quan tâm gần đây. Vì vậy, việc tìm
kiếm các thuốc điều trị bệnh chảy máu có nguồn gốc dược liệu đang là vấn đề
cấp thiết hiện nay.
Việt Nam có nền y học cổ truyền lâu đời và phong phú. Trong kho tàng
đó, nhiều bài thuốc, vị thuốc dùng để điều trị bệnh chảy máu như: tông lư,
trắc bách diệp, hoè hoa, cỏ nhọ nồi,…Tông lư là bẹ của cây móc, được sử
dụng rất phổ biến trong dân gian. Ở nước ta, cây móc mọc hoang và được
trồng ở nhiều nơi. Từ lâu, người ta đã dùng bẹ và rễ móc để chữa các bệnh
2



chảy máu như: đái ra máu, lỵ ra máu, bạch đới, rong kinh, rong huyết, ho ra
máu, sưng và chảy máu chân răng,…đã cho kết quả tốt. Tuy nhiên cho tới nay
chưa có đề tài nào đánh giá tác dụng cầm máu của rễ và bẹ móc trên thực
nghiệm cũng như trên lâm sàng nên việc áp dụng điều trị còn hạn chế. Để góp
phần chứng minh tác dụng của rễ và bẹ móc, hướng tới tạo ra sản phẩm thuốc
có tác dụng cầm máu, chống viêm từ cây móc chúng tôi thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu tác dụng của cây móc trên thực nghiệm theo hướng làm thuốc
cầm máu” gồm 3 mục tiêu chính:
1. Đánh giá tác dụng cầm máu của cây móc trên thực nghiệm
2. Đánh giá tác dụng chống viêm của bẹ móc trên thực nghiệm
3. Độc tính cấp của bẹ móc













3




Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Quá trình đông máu, cầm máu
Cầm máu là một quá trình diễn ra nhằm hạn chế hoặc ngăn cản máu
chảy ra khỏi mạch khi thành mạch bị tổn thương. Quá trình cầm máu được
thực hiện qua năm giai đoạn: co mạch, hình thành nút tiểu cầu, đông máu, co
cục máu đông và tan cục máu đông. Sau khi quá trình cầm máu hoàn thành tại
nơi tổn thương mô xơ phát triển thành sẹo làm liền vết thương [2].
1.1.1. Co mạch tại chỗ
Ngay sau khi thành mạch bị tổn thương, mạch máu sẽ co lại để hạn chế
lượng máu thoát ra ngoài. Co mạch còn có tác dụng làm tốc độ lưu chuyển
máu chậm lại, tạo điều kiện cho việc hình thành nút tiểu cầu và cục máu đông.
Cơ chế của co mạch là do những xung động đau nơi mạch bị tổn thương sẽ
hoạt hóa thần kinh giao cảm gây phản xạ co mạch. Ngoài ra, tại vị trí tổn
thương sẽ xuất hiện hiệu điện thế hoạt động, điện thế hoạt động này sẽ lan
truyền dọc theo thành mạch gây co mạch. Serotonin và thromboxanA
2

được
bài tiết từ tiểu cầu cũng gây tác dụng co mạch. Tổn thương càng lớn thì mức
độ co mạch càng mạnh. Co mạch có thể kéo dài hàng phút thậm chí hàng giờ
để tạo điều kiện cho tiểu cầu kết dính và kết tụ vào nơi tổn thương [2].
1.1.2. Tạo nút tiểu cầu
Bình thường tế bào nội mô thành mạch máu bài tiết prostacyclin có tác
dụng ức chế kết dính tiểu cầu. Khi thành mạch bị tổn thương sẽ làm rách lớp
nội mô, để lộ lớp collagen tích điện (+) ở bên dưới. Do tích điện âm và có
receptor với collagen nên tiểu cầu có thể dễ dàng kết dính với thành mạch tổn
thương. Bản thân tế bào nội mô bị tổn thương còn giải phóng ra yếu tố hoạt
4



hoá tiểu cầu, yếu tố von Willebrand cần cho sự kết dính tiểu cầu. Sau khi đã
kết dính vào nơi có tổn thương, tiểu cầu được hoạt hoá, bề mặt trở nên xù xì
đồng thời bài tiết yếu tố hoạt hoá tiểu cầu, ADP và thromboxan A
2

(thromboxan A
2
được tổng hợp từ phospholipid của màng tiểu cầu). Các chất
này sẽ làm các tiểu cầu khác lưu động trong máu kết tụ với các tiểu cầu vừa
bị kết dính. Các tiểu cầu mới kết tụ sẽ tiếp tục được hoạt hoá bài tiết các chất
hoá học làm cho càng có thêm nhiều tiểu cầu mới đến kết tụ hình thành nút
tiểu cầu. Sự hình thành nút tiểu cầu có thể sơ bộ bịt kín vết thương làm cho
máu ngừng chảy nếu tổn thương ở mạch nhỏ, đặc biệt là hàng ngàn vết
thương nhỏ vẫn xảy ra hàng ngày. Thời gian hình thành nút tiểu cầu hay còn
được gọi là thời gian máu chảy bình thường khoảng 2 – 4 phút.
Khi số lượng hoặc chất lượng tiểu cầu giảm sẽ làm thời gian chảy máu

kéo dài, xuất hiện nhiều nốt xuất huyết dưới da và niêm mạc, bệnh nhân dễ bị
chảy máu khi bị sang chấn nhẹ và thời gian chảy máu kéo dài trên 6 phút.
Chảy máu nặng xảy ra khi số lượng tiểu cầu giảm dưới 50G/l, nếu số lượng
tiểu cầu chỉ còn 10G/l thì bệnh nhân sẽ chết vì không cầm được máu [2].
1.1.3. Tạo cục máu đông
Đông máu là trạng thái tự bảo vệ của cơ thể khi có chảy máu. Sau khi
ra ngoài lòng mạch 2 – 4 phút, máu đông lại. Đông máu nghĩa là máu chuyển
từ thể lỏng sang thể đặc nhờ chuyển fibrinogen hoà tan trong huyết tương
thành fibrin không hoà tan dưới xúc tác của thrombin [14].
Đông máu là một chuỗi phản ứng hóa học của yếu tố đông máu có
trong huyết tương, các mô tổn thương và tiểu cầu. Đông máu gồm 3 giai
đoạn: giai đoạn tạo prothrombinase, giai đoạn chuyển prothrombin thành
thrombin và giai đoạn chuyển fibrinogen thành fibrin [2].


5



1.1.3.1. Giai đoạn tạo prothrombinase
Đây là giai đoạn phức tạp nhất và kéo dài nhất của quá trình đông máu. Giai
đoạn này được xảy ra theo hai con đường: nội sinh và ngoại sinh.
Ngoại sinh: khi mô bị tổn thương, giải phóng thromboplastin (yếu tố
III) và phospholipid của mô. Hai yếu tố trên kết hợp với Ca
2+
hoạt hoá yếu tố
VII. Yếu tố VII kết hợp với Ca
2+
hoạt hoá yếu tố IX. Yếu tố IX hoạt hoá kết
hợp với Ca

2+
và phospholipid mô hoạt hoá yếu tố V. Yếu tố V hoạt hoá yếu
tạo prothrombinase ngoại sinh. Như vậy, yếu tố III của mô khởi phát con
đường đông máu ngoại sinh.
Nội sinh (chất hoạt hoá ở máu): khi thành mạch tổn thương, các sợi
collagen hoạt hoá XII trong máu. Yếu tố XII hoạt hoá IX. Yếu tố IX hoạt hoá
VIII, phospholipid tiểu cầu hoạt hoá XI. Yếu tố XI hoạt hoá IX. Yếu tố IX
hoạt hoá X. Yếu tố X hoạt hoá V. Yếu tố V hoạt hoá kết hợp Ca
2+
tạo
prothrombinase nội sinh [14]. Như vậy, yếu tố XII và tiểu cầu khởi phát con
đường đông máu nội sinh.
Đông máu theo con đường ngoại sinh xảy ra nhanh và mạnh hơn rất
nhiều so với conđường nội sinh. Vài giây sau khi mạch máu tổn thương đã có
sự thành lập thrombin và sớm hình thành fibrin.
6




Hình 1: Sơ đồ quá trình đông máu
1.1.3.2. Giai đoạn chuyển prothrombin thành thrombin
Prothrombin là một globulin có trong huyết tương và do gan sản xuất.
Nó là tiền chất không hoạt động của một enzym tiêu protein rất mạnh là
thrombin. Phức hợp enzym prothrombinase được tạo thành cùng với ion Ca
2+

xúc tác cho quá trình chuyển prothrombin thành thrombin.
Thrombin không chỉ có tác dụng đối với sự hình thành và ổn định mạng
fibrin mà còn có tác dụng hoạt hoá yếu tố VIII trong con đường nội sinh, yếu

tố V trong con đường ngoại sinh. Do vậy, với một lượng nhỏ thrombin có sẵn
trong máu và sau đó được sinh ra nhanh chóng từ con đường ngoại sinh sẽ lập
tức tạo ra một feedback dương tính để tạo ra nhiều thrombin hơn, hoạt hoá
quá trình hình thành cục máu đông [2].


7



1.1.3.3. Giai đoạn chuyển fibrinogen thành fibrin
Dưới tác dụng của thrombin các phân tử fibrinogen bình thường hoà
tan sẽ biến thành fibrin đơn phân. Các fibrin đơn phân sẽ trùng hợp để tạo ra
sợi fibrin trong vài giây. Các sợi fibrin này nối lại với nhau bằng cầu nối
hydro lỏng lẻo nên không bền. Dưới tác dụng của yếu tố ổn định fibrin - yếu
tố `XIII
h
(do thrombin hoạt hoá), các cầu nối hydro được thay thế bằng các
cầu nối đồng hoá trị, tạo ra mạng lưới fibrin bền vững. Cục máu đông hình
thành sẽ có tác dụng bịt kín chỗ tổn thương một cách vững chắc [2].
1.1.4. Co cục máu đông và tan cục máu đông
1.1.4.1. Co cục máu đông
Sau khi máu đông khoảng 1 – 2 giờ, cục máu đông co lại và giải phóng
ra toàn bộ dịch của nó gọi là huyết thanh. Hiện tượng co cục máu đông có tác
dụng làm mép vết thương khép lại gần nhau hơn để tạo điều kiện cho sự tạo
sẹo [2].
1.1.4.2. Tan cục máu đông
Là hiện tượng cục máu đông tan ra dưới tác dụng của plasmin được
hoạt hóa từ plasminogen. Plasmin là một enzyme có khả năng phân hủy fibrin
mạnh, do đó làm tan cục máu đông. Tan cục máu đông là một trong những cơ

chế chống đông của chính cơ thể khi có xuất hiện cục máu đông để ngăn ngừa
tắc mạch và tạo điều kiện cho quá trình liền sẹo [2].
Như vậy, cầm máu là một quá trình phức tạp liên quan đến ba yếu tố
chính: sức bền và tính thấm thành mạch, tiểu cầu và các yếu tố đông máu.
1.2. Các bệnh liên quan tới chảy máu
Chảy máu là hội chứng biểu hiện tình trạng máu thoát ra khỏi thành
mạch do vỡ mạch hoặc không do vỡ mạch. Chảy máu có thể do các nguyên
nhân: do thành mạch tổn thương, do tiểu cầu, do bệnh huyết tương [5].
1.2.1. Do thành mạch bị tổn thương
8



Thành mạch bị tổn thương do thiếu vitamin C, vitamin PP; nhiễm khuẩn
(bệnh sởi, nhiễm khuẩn huyết do não mô cầu); một số bệnh mạn tính (lao, đái
tháo đường, xơ gan); bệnh Scholein - Henoch (dị ứng gây tổn thương thành
mạch),…
1.2.2. Do tiểu cầu
Tiểu cầu đóng vai trò rất quan trọng quá trình cầm máu. Một số bệnh
của tiểu cầu làm ảnh hưởng tới quá trình cầm máu thường gặp như:
1.2.2.1.Bệnh tiểu cầu bẩm sinh
Bệnh suy nhược tiểu cầu Glanzmann: bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc
thể thường (số lượng tiểu cầu bình thường, nhưng rối loạn tập trung tiểu cầu).
Bệnh Willebrand: bệnh có tính di truyền theo tính trội (thời gian chảy
máu kéo dài, co cục máu bình thường)
1.2.2.2. Giảm tiểu cầu thứ phát
Giảm tiểu cầu thứ phát trong các trường hợp: suy tuỷ, dị ứng, nhiễm
khuẩn,…
Suy tuỷ: dẫn đến giảm số lượng tiểu cầu được sinh ra, thường do nhiễm
độc thuốc hoặc hoá chất trong điều trị hoặc do tiếp xúc với chất độc nồng độ

cao kéo dài.
Tuỷ bị lấn át: do thâm nhiễm các tế bào ác tính trong tuỷ làm giảm số
lượng tiểu cầu do đó giảm số lượng tiểu cầu ở máu ngoại vi, thường gặp ở các
bệnh máu ác tính như: Leukemia cấp, Leukemia thể tuỷ mạn tính giai đoạn
chuyển dạng cấp.
Dị ứng: tác động của thuốc làm cơ thể sinh kháng thể kháng tiểu cầu.
Nhiễm khuẩn: sốt xuất huyết, nhiễm khuẩn huyết
1.2.2.3. Xuất huyết giảm tiểu cầu tự miễn
Là một bệnh tự miễn, trong đó một tự kháng thể IgG được tạo thành và
gắn vào tiểu cầu, phần Fc của tự kháng thể này bị đại thực bào ở lách nhận
9



diện (do chúng có thụ thể Fc). Các đại thực bào ở lách sẽ gắn với tiểu cầu có
phủ kháng thể làm tiểu cầu bị tiêu huỷ. Mặc dù có sự gắn bổ thể vào tự kháng
thể nhưng quá trình này không gây tiêu huỷ tiểu cầu trực tiếp [5].
1.2.3. Do bệnh huyết tương
Các thành phần trong huyết tương liên quan mật thiết tới quá trình đông
máu. Việc thiếu hụt các thành phần của huyết tương gây ra bệnh huyết tương
như: thiếu hụt yếu tố tạo thành thromboplastin, thiếu hụt prothrombin và
proconvertin,…
1.2.3.1. Do thiếu hụt yếu tố tạo thành thromboplastin
Bệnh Hemophylia là bệnh hay gặp nhất do thiếu hụt yếu tố VIII, IX tạo
thành thromboplastin. Đây là bệnh bẩm sinh do di truyền trên nhiễm sắc thể
X, thường gặp ở con trai. Bệnh càng nặng thì triệu chứng xuất huyết càng
sớm. Xuất huyết thường xảy ra sau một chấn thương dù rất nhẹ, ít có khả
năng tự cầm máu, hay tái phát ở một nơi nhất định [5].
1.2.3.2. Thiếu prothrombin và proconvertin
Thiếu prothrombin và proconvertin có thể gặp trong các trường hợp tổn

thương gan, ứ mật , tổn thương nhiều vùng ở ống tiêu hoá, dung nhiều thuốc
chống đông làm cho cơ thể không tổng hợp được prothrombin.
1.2.3.3.Bệnh tiêu sợi huyết (tiêu fibrinogen và fibrin)
Bệnh xảy ra sau phẫu thuật phổi, phẫu thuật sản phụ khoa, nhiễm trùng
huyết, nhiễm độc. Bệnh do sự huỷ hoại quá mức các yếu tố đông máu và tiểu
cầu cùng với sự giải phóng các sản phẩm giáng hoá fibrin. Nguyên nhân liên
quan đến sự huỷ hoại các cơ quan của cơ thể, giải phóng ra nhiều chất hoạt
hoá như streptokinase, urokinase, làm tăng chuyển plasminogen thành
plasmin và tăng giáng hoá fibrinogen, fibrin, ức chế hình thành
thromboplastin và chức năng của tiểu cầu gây hội chứng xuất huyết nặng [5].

10



1.3. Các xét nghiệm cơ bản cho cầm máu:
Các xét nghiệm cơ bản cho cầm máu giúp bác sĩ trong việc chẩn đoán
và điều trị các bệnh liên quan tới chảy máu bao gồm: xét nghiệm giai đoạn
cầm máu ban đầu, xét nghiệm đông máu, xét nghiệm giai đoạn phân huỷ
fibrin.
1.3.1. Xét nghiệm của giai đoạn cầm máu ban đầu
Giai đoạn cầm máu ban đầu bao gồm giai đoạn thành mạch và hình
thành nút tiểu cầu. Để đánh giá giai đoạn cầm máu ban đầu, người ta dựa trên
thời gian máu chảy và số lượng tiểu cầu.
1.3.1.1. Thời gian máu chảy
Đây là một xét nghiệm cơ bản nhất, dễ làm nhất để đánh giá giai đoạn
đầu cầm máu.
Xét nghiệm được tiến hành bằng phương pháp Ivy: quấn băng huyết áp,
bóp bóng đến mức huyết áp trung bình là 40mmHg, sau đó rạch ở cơ gấp
cẳng tay, máu chảy ra được thấm bằng cạnh của giấy thấm.

Thời gian máu chảy bình thường từ 3 - 9 phút. Thời gian máu chảy tăng
do giảm số lượng hoặc chất lượng của tiểu cầu, thành mạch [19].
1.3.1.2. Số lượng tiểu cầu
Số lượng tiểu cầu bình thường 150 - 400 x 10
9
. Số lượng tiểu cầu được
xác định cùng với công thức máu toàn phần qua máy đếm tự động. Trong
những trường hợp khẩn cấp khi mà không đếm được thì có thể nhìn trên tiêu
bản máu [19].
1.3.1.3. Chức năng tiểu cầu
Đánh giá chức năng tiểu cầu bằng cách chống đông bằng citrat khối
huyết tương giàu tiểu cầu. Máy đo ngưng tập tiểu cầu được sử dụng để kiểm
tra đáp ứng của tiểu cầu với những chất ngưng tập bao gồm collagen, ADP,
11



acid arachidonic để kiểm tra đáp ứng kết tụ tiên phát và thứ phát, phản ứng
giải phóng của tiểu cầu [19].
1.3.2. Xét nghiệm đông máu
1.3.2.1. Thời gian thrombin (Thrombin Time: TT)
Xác định PT nhằm đánh giá sự chuyển dạng từ fibrinogen sang fibrin
bởi hệ thống nội sinh và ngoại sinh khi có thrombin trong hệ thống thử.
Thrombin được pha loãng cho vào huyết tương chống đông bằng citrat.
Thời gian TT bình thường từ 10 - 15 giây. PT kéo dài trong các trường
hợp: giảm fibrinogen máu, rối loạn fibrinogen máu.
1.3.2.2. Thời gian prothrombin (Prothrombin Time: PT)
Xác định PT nhằm đánh giá con đường đông máu ngoại sinh. PT là thời
gian đông huyết tương đã được chống đông bằng natri citrat hoặc oxalat, nay
được phục hồi calci và thêm yếu tố của tổ chức (thromboplastin) [12].

PT kéo dài trong các trường hợp thiếu hụt yếu tố II, V, VII, X.
1.3.2.3. Thời gian Thromboplastin hoạt hoá từng phần (APTT)
Xác định APTT nhằm đánh giá con đường đông máu nội sinh. APTT là
thời gian phục hồi calci của huyết tương citrate hoá sau khi ủ với một lượng
thừa kaolin (hoạt hoá yếu tố tiếp xúc) và cephalin (thay thế yếu tố 3 tiểu cầu)
[23].
APTT kéo dài trong các trường hợp thiếu hụt yếu tố II, V, VIII, IX, X,
XI, XII [19].
1.3.3. Xét nghiệm giai đoạn phân huỷ fibrin
1.3.3.1. Sản phẩm phân huỷ fibrin (FDP)
Khi fibrin bị phân giải bằng plasmin hoạt động thì những mảnh vỡ
được giải phóng tạo FDP. FDP đo được trong huyết tương bằng phương pháp
miễn dịch.
12



Tăng FDP trong các trường hợp sau hậu phẫu, chấn thương, suy thận,
nhiễm khuẩn, huyết khối tĩnh mạch [19].
1.3.3.2. Thời gian phân giải Euglobulin
Xét nghiệm thời gian phân giải Euglobulin nhằm đánh giá sự có mặt
của yếu tố hoạt hoá plasminogen.
Thời gian phân giải Euglobulin bình thường trên 90 phút. Thời gian
này ngắn lại khi có sự phân huỷ fibrin hệ thống [19].
1.4. Các thuốc cầm máu
1.4.1. Các thuốc tân dược
Thuốc cầm máu có thể chia thành 2 loại: thuốc cầm máu toàn thân và
thuốc cầm máu tại chỗ [14].
1.4.1.1. Thuốc cầm máu toàn thân
 Nhóm vitamin K

Cơ chế: các tiền chất của yếu tố đông máu II, VII, IX, X - gọi là
PIVKA (protein induced by vitamin K absence) chỉ có hoạt tính khi gốc
glutamat trong cấu trúc hoá học của nó được carboxyl hoá bởi hệ enzym ở
microsom gan. Khi huyết tương chưa đủ vitamin K, các tiền chất đó chưa
chuyển thành các yếu tố đông máu có hoạt tính được. Khi có mặt vitamin K
thì vitamin K hoạt hoá hệ thống enzym ở microsom gan, nên PIVKA được
carboxyl hoá, chuyển thành các yếu tố đông máu II, VII, IX, X có hoạt tính và
kết hợp được với Ca
2+
trên bề mặt tiểu cầu, chuyển fibrinogen thành fibrin
cùng với xúc tác của thrombin tạo nên quá trình đông máu.
 Calci clorid
Ca
2+
cần để hoạt hoá các yếu tố đông máu nhất là các yếu tố VIII, IX, X
và chuyển prothrombin thành thrombin để tham gia vào quá trình đông máu.
 Coagulen
13



Coagulen là tinh chất máu toàn phần, đặc biệt có tinh chất của tiểu cầu
có tác dụng làm đông và cầm máu.
 Carbazochrom
Carbazochrom làm tăng sức đề kháng của mao mạch, giảm tính thấm
thành mạch nên giảm thời gian chảy máu. Carbazochrom không tác dụng lên
quá trình đông máu [14].
 Ethamsylat và dobesylat calci
Cơ chế: làm tăng sức đề kháng của mao mạch, giảm tính thấm thành
mạch nên giảm thời gian chảy máu.

1.4.1.2. Các thuốc cầm máu tại chỗ
Các thuốc cầm máu tại chỗ bao gồm các enzyme làm đông máu
(thrombinase, thrombin), keo cao phân tử (pectin, albumin), gelatin, fibrin
dạng xốp, thuốc làm săn (tanin, muối nhôm, chì, kẽm, KMnO
4
pha loãng,.)
 Thrombin
Thrombin xúc tác cho chuyển fibrinogen thành fibrin đơn phân, sau đó
fibrin đơn phân kết hợp thành fibrin polyme không tan trong huyết tương.
Thuốc chỉ dùng tại chỗ, không dùng tiêm tĩnh mạch, tránh đông máu trong
lòng mạch.
 Thrombinase
Thrombinase là tinh chất não và phổi của động vật có thrombokinase
và các yếu tố đông máu khác. Thuốc được dùng trong trường hợp chảy máu
ít, tại chỗ và thường xuyên như: chảy máu cam, răng miệng. Nếu chảy máu
nhiều kết hợp với băng chặt [14].
1.4.2.Các thuốc đông dược
Thuốc cầm máu trong đông y còn được gọi là thuốc chỉ huyết bao gồm
các vị thuốc có thể dùng trong các bệnh xuất huyết của tạng như vị xuất
huyết, phế xuất huyết; gây nôn ra máu, ho ra máu, hoặc trĩ xuất huyết. Trong
14



loại này cũng có loại vừa có tác dụng chỉ huyết lại có tác dụng tiêu huyết ứ
như tam thất; cũng có thể dùng để đắp, rắc vào vết thương để cầm máu bên
ngoài [9].
1.4.2.1. Tam thất
Tam thất có tác dụng hoá ứ chỉ huyết, hoá ứ chỉ thống, hoá ứ tiêu ung
nhọt dùng để điều trị các chứng xuất huyết ở bên trong và bên ngoài cơ thể,

trong trường hợp xuất huyết do huyết ứ thì thường dùng kết hợp với huyết dư
thán; ngoài ra tam thất còn dùng để điều trị chấn thương sưng nề [1], [9].
1.4.2.2. Hoè hoa
Hoè hoa có tác dụng lương huyết chỉ huyết dùng trong các trường hợp
huyết nhiệt gây xuất huyết như chảy máu cam, trĩ chảy máu, phụ nữ băng
huyết, đại tiểu tiện ra máu [9].
1.4.2.3. Trắc bách diệp
Trắc bách diệp có tác dụng lương huyết chỉ huyết điều trị các chứng
xuất huyết do huyết nhiệt, thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác [1].
1.4.2.4. Bạch cập
Bạch cập có tác dụng chỉ huyết, dùng trong các bệnh ho ra máu, xuất
huyết đường tiêu hoá, chảy máu ngoài [7].
1.4.2.5. Tông lư
Tông lư là bẹ của cây móc có tác dụngchỉ huyết, dùng trong các bệnh
xuất huyết bên trong, chảy máu cam, thổ ra huyết, phụ nữ băng huyết, đại tiểu
tiện ra huyết, lỵ, chảy máu mủ [6].
1.5. Các phương pháp xác định thời gian chảy máu trên động vật
1.5.1. Xác định thời gian chảy máu trên đuôi chuột
Phương pháp này được tiến hành lần đầu tiên do Dottl và Ripke năm
1936 và được sử dụng phổ biến để nghiên cứu tác dụng cầm máu trong các thí
15



nghiệm dược lý. Phương pháp này dùng để đánh giá những khiếm khuyết của
hệ thống đông máu và ảnh hưởng của thuốc lên quá trình cầm máu [30].
Tiến hành: thí nghiệm có thể tiến hành trên chuột cống trắng và chuột
nhắt trắng. Gây mê chuột, dùng dao lam sắc cắt 1 đoạn đuôi chuột 2 - 4mm
[3], [30], [34], [37], [38], [39]. Ngay sau khi cắt, nhúng đuôi chuột vào nước
cất, dung dịch nước muối sinh lí hoặc dùng giấy lọc thấm máu. Xác định thời

gian từ khi giọt máu đầu tiên chảy ra đến khi máu ngừng chảy, tối đa là 600
giây [30].
Xác định thời gian chảy máu đuôi chuột là phương pháp được sử dụng
phổ biến trong các nghiên cứu về cầm máu do kĩ thuật đơn giản, dễ tiến hành
nhưng cũng có thể bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố như: nhiệt độ, môi trường,
vị trí cắt đuôi.
1.5.2. Xác định thời gian chảy máu trên da chuột
Phương pháp này do Rustu Kose và cộng sự tiến hành năm 2012 dùng
để đánh giá tác dụng cầm máu của thuốc nghiên cứu [13].
Tiến hành: chuột cống trắng (180 – 260g) chia nhóm ngẫu nhiên, gây
mê với 30mg/kg ketamin hydrochlorid và 5mg/kg xylazin. Dùng dao mổ nhẹ
nhàng tạo vết cắt trên da dài 5cm và rộng 3cm ở phía trước của vùng thắt
lưng. Sau 1 – 2 giây, máu bắt đầu chảy, dùng 1ml nước muối hoặc thuốc
nghiên cứu tưới lên vết cắt và dùng bông ấn nhẹ nhàng vào vết cắt khoảng 1
phút để hoạt hoá hệ thống cầm máu. Thời gian chảy máu được xác định từ khi
máu bắt đầu chảy tới khi máu ngừng chảy [33].
1.5.3. Xác định thời gian chảy máu động mạch màng ruột
Phương pháp đã được Angelo cùng cộng sự tiến hành [28] dùng để
đánh giá sự ức chế hình thành huyết khối của các thuốc, phát hiện ảnh hưởng
của các yếu tố can thiệp vào cầm máu [30].
16



Tiến hành: chuột cống trắng đực nặng từ 180 – 240g dùng thuốc qua
đường uống, tiêm màng bụng hoặc tiêm tĩnh mạch. Sau khi đủ thời gian hấp
thu thuốc, gây mê chuột bằng 60mg/kg pentobarbital sodium tiêm màng bụng,
giữ ấm chuột ở 37°C. Rạch một đường giữa bụng, nâng màng ruột lên để lộ
động mạch ruột. Màng ruột được treo trên một đĩa nhựa và vẫn duy trì hoạt
động bình thường bằng dung dịch Tyrode ổn định ở 37°C. Thời gian chảy

máu xác định với một động mạch ruột tại chỗ nối của màng ruột với ruột.
Dùng một cây kim đâm vào động mạch, quan sát thời gian chảy máu
động mạch màng ruột qua một kính hiển vi 40X. Thời gian chảy được xác
định từ khi đâm kim tới khi máu ngừng chảy [30].
1.5.4. Xác định thời gian chảy máu trên khe mũi thỏ
Phương pháp này do Hanifi Kurtaran cùng cộng sự tiến hành năm 2010
để đánh giá tác dụng cầm máu của thuốc nghiên cứu [35].
Tiến hành: thỏ cái trưởng thành được gây mê với 5mg/kg xylocain
hydrochlorid and 50mg/kg ketamin chlorid. Dùng 1 thiết bị gây tổn thương
dài 3 mm tạo vết thương trên khe mũi của thỏ. Sau 1 – 2 giây từ khi tạo vết
thương thì máu bắt đầu chảy, các vết thương được điều trị ngẫu nhiên bằng
thuốc nghiên cứu hoặc dung dịch nước muối sinh lí. Dùng tăm bông ấn nhẹ
nhàng vào vết thương 1 giây trong vòng 30 giây đến khi máu ngừng chảy.
Thời gian chảy máu được xác định từ khi máu bắt đầu chảy tới khi máu
ngừng chảy [35].
1.5.5. Xác định thời gian chảy máu trên niêm mạc miệng chó
Foresythe và Willis (1989) đã mô tả một phương pháp có thể cho phép
xác định thời gian chảy máu trên niêm mạc miệng của chó để phát hiện những
bất thường của cầm máu.
Tiến hành: đặt chó ở tư thế nằm nghiêng hoặc nằm ngửa. Dùng một
mảnh gạc buộc chặt xung quanh cả hàm trên và hàm dưới của chó. Dùng thiết
17



bị gây tổn thương đặt áp vào niêm mạc miệng chó song song với mép và gây
tổn thương niêm mạc miệng chó. Máu chảy ra từ vết thương được thấm bằng
giấy thấm tròn đặt ngay dưới miệng nhưng không chạm vào vết thương. Sau
15 giây thay đổi vị trí giấy thấm một lần. Thời điểm kết thúc chảy máu được
xác định khi không còn máu trên giấy thấm nữa. Thời gian chảy máu được

xác định từ khi bắt đầu gây tổn thương cho đến khi máu không còn xuất hiện
trên giấy thấm nữa. Thời gian chảy máu trung bình từ 2 – 4 phút [30].
1.6. Tổng quan về cây móc
1.6.1. Mô tả
Cây móc có tên khoa học là Caryota urens L., họ Cau (Arecaceae).
Ngoài ra cây móc còn có tên khác: móc đen, đùng đình ngứa, đùng đình, đủng
đỉnh, mạy khuông (Tày) [15], [16], [18], [25].
Cây móc có thân dạng cột thẳng, thường mọc đơn đọc, cao 10 – 15m,
đường kính 40 – 50cm. Lá to dài, hai lần lông chim, có thùy lông chim hơi
dài, có hình tam giác với mép ngoài dài hơn, có răng không đều về phía trước.
Khi trưởng thành cây bắt đầu ra hoa. Hoa mọc thành cụm ở nách lá, thành
bông mo phân nhánh, dài 30 – 40cm, bao bởi 4 mo, dài 30cm, lợp lên nhau,
các nhánh trải ngang, dài 30 – 40cm. Cụm hoa ở phần ngọn cây mọc ra trước,
sau đó thì các cụm hoa ở phía dưới mọc và theo thứ tự từ trên xuống dưới.
Bông mo có cuống chung to lớn, mo bao bọc lấy hoa đực và hoa cái. Hoa tập
trung trên các cuống dài , mềm, rủ xuống. Cuống hoa ngắn. Hoa đực thường
mọc đơn độc hay cứ 2 hoa đực thì lại có một hoá cái xếp sát nhau. Hoa đực có
lá đài dài, xếp lợp, cánh hoa thuôn hình dải, nhị rất nhiều. Hoa cái nhỏ bé, gần
hình cầu, bầu 3 ô, noãn đính gốc. Quả hình cầu lõm, đường kính 12 – 15mm,
màu đỏ khi chín, có vỏ quả ngoài hơi dày, vỏ quả trong nạc ngọt, dễ chịu. Hạt
1 – 2, hình khối, có nội nhũ sừng [13], [15], [16], [25].
Mùa hoa: tháng 3 – 4, mùa quả : tháng 10 – 11 [25].
18



1.6.2. Phân bố, sinh thái
Caryota L. là một chi lớn gồm các loài phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt
đới Nam Á và Đông – Nam Á. Ở Việt Nam có 6 loài, đều là cây mọc tự
nhiên.

Móc là loại cây nhiệt đới tương đối điển hình. Cây phân bố rải rác khắp
các nước Ấn Độ, Xrilanca đến Malayxia, Thái Lan, Lào, Campuchia,
Indonesia và Việt Nam. Ở Việt nam cây cũng phân bố rải rác ở các tỉnh từ
vùng núi thấp (dưới 1000m) đến vùng trung du và đồng bằng, tập trung nhiều
nhất ở Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Bắc Giang, Tuyên Quang và các tỉnh
khu 4 cũ. Cây thường mọc rải rác ở ven rừng thứ sinh, trong các lùm bụi gần
khu dân cư. Móc còn được trồng ở nhiều nơi để làm cảnh.
Móc ra hoa quả hàng năm hoặc cách năm. Tuy nhiên, lượng cây con
mọc ra từ hạt rất ít. Cây có khả năng sinh chồi khoẻ từ gốc. Một năm cây mẹ
có thể tạo 3 – 5 cây con, sau 10 năm trồng đã thành bụi lớn [13], [16], [18],
[25].

1.6.3. Bộ phận dùng
Bẹ, rễ thu hái quanh năm, phơi khô. Ngoài ra người ta còn dùng quả
[13], [25].
1.6.4. Thành phần hoá học
Dịch ngọt của cây chứa 13,6% saccharose và vết của đường giảm, khi
cho lên men dịch hay rượu ngọt của cây chứa 1% đường giảm, 2 – 4,5% rượu
và 0,3% acid acetic [13], [25].
Theo Nambiar và cộng sự trong quả của Caryota urens có chứa rất
nhiều acid ascorbic với hàm lượng có thể so sánh với lượng acid ascorbic
trong quả cam [36].
19



Quả móc có chứa rất nhiều đường [31], [32], [36]. Bằng phương pháp
sắc kí (phương pháp Giri và Rao), Gopinathan và cộng sự thấy rằng trong quả
Caryota urens có chứa trên 10% saccharose, glucose, fructose và ít inositol
[31].

Ngoài ra, quả của Caryota urens còn chứa rất nhiều các acid amin như:
glycin, tyrosin, leucin, histidin, valin, isoleucin, prolin, hydroxy prolin [36].
Tinh thể calci oxalate hình kim có ở loài Caryota urens [16], vì vậy cần
tránh tiếp xúc trực tiếp với vỏ quả này vì đây chính là thành phần gây ngứa
khi tiếp xúc với quả chín.
Hiện nay, chúng tôi chưa thấy có nghiên cứu nào về thành phần hoá
học của rễ và bẹ móc.
1.6.5. Tính vị, tác dụng
Trong dân gian từ lâu đã sử dụng bẹ móc và rễ móc trong các bài thuốc
dân gian. Bẹ móc phơi khô còn được dùng trong y học cổ truyển với tên Tông
lư vị đắng, chát, tính bình, qui kinh tỳ, vị có tác dụng chỉ huyết, dùng trong
các bệnh xuất huyết bên trong, chảy máu cam, thổ ra huyết, phụ nữ băng
huyết, đại tiểu tiện ra huyết, lỵ, chảy máu mủ [9]. Ngoài ra, bẹ móc non còn
có tác dụng làm sít ruột, tan hòn cục. Quả móc vị cay, tính mát, có tác dụng
giải khát và chống mệt mỏi. Rượu móc có tác dụng nhuận tràng [13], [25].
1.6.6. Công dụng
Bẹ móc được dùng làm thuốc chữa đái ra máu, đái rắt, tiểu tiện không
thông, lỵ ra máu,bạch đới, rong kinh, rong huyết, ho ra máu. Liều dùng: 20g
đốt tồn tính tán bột uống hoặc sắc thuốc. Nhân quả giã nát, đắp chữa đau nửa
đầu [13], [25].
Nõn thân 20 – 30g sắc với 400ml nước, còn 100ml uống có tác dụng
nhuận tràng [25].
1.6.7. Một số bài thuốc có móc

×