Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

“Xác định mật độ trồng ngô bằng bầu cải tiến trong điều kiện vụ Đông năm 2014 tại vùng Gia Lâm – Hà Nội”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7 MB, 94 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản khoá luận này ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi đã
nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô, bạn bè và gia đình.
Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Thế
Hùng người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và đóng góp những ý kiến quý báu
trong quá trình thực hiện khoá luận.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn đến các thầy, cô và các cán bộ nhân viên trong
khoa Nông học - Học viện Nông Nghiệp Việt Nam, trong bộ môn đã tận tình
truyền đạt những kiến thức rất hữu ích cho tôi trong thời gian học tập tại
trường, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
thực hiện đề tài tốt nghiệp của mình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình đã chăm lo cho tôi mọi điều kiện
vật chất lẫn tình thần trong suốt quá trình học tập.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn những người thân, bạn bè đã cộng tác,
giúp đỡ và khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp này.
Cuối cùng, tôi xin kính chúc quý thầy cô, cán bộ công nhân viên chức
trường Học viện Nông Nghiệp Việt Nam sức khỏe và thành công trong sự
nghiệp cao quý này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả bài khoá luận
Đỗ Thị Thanh Loan
i
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN i
MỤC LỤC ii
DANH MỤC BẢNG ii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT v
PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 26
PHẦN V 59


KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 59
HÌNH ẢNH THÍ NGHIỆM 65
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Tình hình sản xuất ngô thế giới giai đoạn 1961 - 2013 3
Bảng 2.2. Tình hình sản xuất ngô của một số nước trên thế giới năm 2013. .4
Bảng 2.3. Sản xuất ngô Việt Nam giai đoạn 1961 – 2013 5
Bảng 4.1: Diễn biến thời tiết vụ Thu Đông năm 2014 tại Gia Lâm – Hà Nội
26
Bảng 4.2: Ảnh hưởng của mật độ trồng bằng bầu cải tiến tới sinh trưởng và
phát triển của 2 giống ngô thí nghiệm 28
Bảng 4.4: Ảnh hưởng của mật độ trồng bằng bầu cải tiến tới động thái tăng
trưởng số lá của 2 giống ngô thí nghiệm 34
Đơn vị: lá/cây 34
Bảng 4.5: Ảnh hưởng của mật độ trồng bằng bầu cải tiến tới chiều cao cây
cuối cùng và chiều cao đóng bắp của 2 giống ngô thí nghiệm 36
Bảng 4.6: Ảnh hưởng của mật độ trồng bằng bầu cải tiến tới diện tích lá và
chỉ số diện tích lá của 2 giống ngô thí nghiệm 39
Bảng 4.7: Ảnh hưởng của mật độ trồng bằng bầu cải tiến tới chỉ số màu
xanh (SPAD) của 2 giống ngô thí nghiệm 42
ii
Bảng 4.8: Ảnh hưởng của mật độ trồng bằng bầu cải tiến tới cường độ ánh
sáng của 2 giống ngô thí nghiệm 45
Bảng 4.9: Ảnh hưởng của mật độ trồng bầu đến khả năng chống chịu của 2
giống thí nghiệm 47
Đơn vị: % 47
Bảng 4.10: Ảnh hưởng của mật độ trồng bầu đến đặc điểm hình thái bắp
của 2 giống ngô thí nghiệm 51
Bảng 4.11: Ảnh hưởng của mật độ trồng bầu đến các yếu tố cấu thành năng
suất của 2 giống thí nghiệm 53
iii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1: Ảnh hưởng mật độ đến động thái tăng trưởng chiều cao của
hai giống ngô thí nghiệm 32
Biểu đồ 4.3: Ảnh hưởng mật độ đến chiều cao cây cuối cùng và chiều cao
đóng bắp của hai giống ngô thí nghiệm 36
Biểu đồ 4.4: Ảnh hưởng mật độ đến diện tích lá và chỉ số diện tích lá của
hai giống ngô thí nghiệm 40
Biểu đồ 4.5: Ảnh hưởng mật độ đến chỉ số màu xanh (SPAD) của hai giống
ngô thí nghiệm 43
Biểu đồ 4.6: Ảnh hưởng của mật độ đến đặc điểm hình thái bắp của 51
2 giống thí nghiệm 51
Biểu đồ 4.7: Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất của 2 giống ngô thí
nghiệm 56
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
FAO : Tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc
BNN & PTNT : Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn
TB : Trung Bình
BCT : Bầu cải tiến
CT : Công thức
ĐC : Đối chứng
LAI : Chỉ số diện tích lá
SPAD : Chỉ số màu xanh
CCCC : Chiều cao cuối cùng
CCĐB : Chiều cao đóng bắp
TLCCĐB : Tỷ lệ chiều cao đóng bắp
NSLT : Năng suất lý thuyết
NSTT : Năng suất thực thu
v

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây ngô (Zea mays L.) là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn
cầu, góp phần nuôi sống 1/3 dân số trên thế giới. Ngày nay ngô đứng thứ 3 sau
lúa mỳ và lúa nước về diện tích, đứng đầu về năng suất và sản lượng (FAO,
1995). Ngô là cây trồng đã giúp loài người giải quyết nạn đói thường xuyên bị
đe doạ (Nguyễn Hữu Lộc, 1969). Ngô được coi là nguồn cung cấp lương thực
quan trọng, dùng làm thức ăn gia súc, và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp,
…Ngô là cây lương thực chính của người dân Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Châu Phi và
thức ăn cho gia súc, gia cầm trên khắp thế giới.
Ở Việt Nam, ngô là cây lương thực đứng hàng thứ 2 sau lúa gạo. Diện tích
gieo trồng và năng suất, sản lượng ngô cũng tăng mạnh, từ hơn 200 ngàn ha với
năng suất 1 tấn/ha (năm 1960), đến năm 2009 đã vượt ngưỡng 1 triệu ha với
năng suất 43 tạ/ha. So với các nước thì năng suất ngô ở ta vẫn thuộc loại khá
thấp. Đặc biệt tại một số địa phương miền núi vùng sâu, vùng xa của các tỉnh
Lai Châu, Sơn La, Thanh Hóa, Quảng Nam, Lâm Đồng một số đồng bào dân
tộc ít người sử dụng ngô là nguồn lương thực, thực phẩm chính, sử dụng các
giống ngô địa phương và tập quán canh tác lạc hậu nên năng suất ngô ở đây chỉ
đạt trên 1 tấn/ha. Sản lượng ngô trong nước vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu mà
hàng năm chúng ta còn phải nhập khẩu khá nhiều ngô hạt (trị giá trên 500 triệu
USD) để sản xuất thức ăn gia súc. Hiện nay và trong những năm tới, ngô vẫn là
cây ngũ cốc có vai trò quan trọng ở nước ta.
Ở nước ta hiện nay, dân số ngày càng gia tăng, quỹ đất giành cho nông
nghiệp ngày càng bị thu hẹp, vấn đề giải quyết nhu cầu lương thực, thực phẩm
đang trở thành một trong những thách thức trong việc phát triển kinh tế xã hội.
Để giải quyết vấn đề này có 2 hướng cơ bản. Một là nâng cao năng suất chất
lượng cây trồng bằng các giống mới ưu thế lai; hai là nâng cao hiệu quả sản
xuất của cây trồng trên đơn vị diện tích.
1
Một hướng đi mới hiện nay là tăng mật độ gieo trồng bằng cách thu hẹp

khoảng cách giữa các hàng và khoảng cách giữa các cá thể. Đồng thời, để khắc
phục một số khó khăn về thời vụ, thời tiết bất thuận,… người nông dân đã áp
dụng kỹ thuật làm bầu cho cây ngô thời kỳ cây con ở giai đoạn đầu trong vườn
ươm sau đó chuyển ra ruộng trồng. Hiện nay, sản xuất bầu được làm theo các
cách: sử dụng túi nilong hoặc gieo trực tiếp trên khay có lỗ. Cả hai cách làm bầu
trên trên có các nhược điểm như: bầu bằng túi nilong chỉ sử dụng 1 lần gây lãng
phí, tăng chi phí, gây ô nhiễm môi trường; làm bầu gieo trên khay có thể tích
nhỏ, khi ra bầu dễ bị vỡ, thời gian sống trong bầu ngắn, chất lượng cây giống
kém làm năng suất bị giảm (Cao Kỳ Sơn, 2008). Một hướng nghiên cứu mới là
tạo các vỏ bầu từ thân lá, phụ phẩm nông nghiệp thay thế vỏ bầu làm từ túi ni
lông để tận dụng nguồn nguyên liệu từ các sản phẩm phụ nông nghiệp dồi dào
như rơm rạ và thân lá cây trồng sau thu hoạch, giúp giải quyết các vấn đề ô
nhiễm môi trường, và sản xuất ra bầu công nghiệp giá thành thấp. Sử dụng vỏ
bầu hữu cơ công nghiệp cho phép tích hợp nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật mới
như: sử dụng phân viên nén, các loại phân chậm tan, các loại chất giữ nước, giữ
ẩm, có thể trồng dày nhằm tăng mật độ cho năng suất ngô cao…
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Xác định mật độ trồng ngô bằng bầu cải tiến trong điều kiện vụ Đông năm
2014 tại vùng Gia Lâm – Hà Nội”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu, đánh giá các đặc điểm sinh trưởng và phát triển của các
giống trên vật liệu bầu.
- Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của cây ở các mật độ
trồng bầu khác nhau, lựa chọn mật độ trồng thích hợp nhất cho 2 giống ngô
thí nghiệm.
2
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tình hình nghiên cứu và sản xuất ngô trên thế giới.
Trong nhiều thập kỉ qua các nhà khoa học trên thế giới đã thành công
trong việc nghiên cứu, khai thác tiềm năng của cây ngô. Chính vì vậy cây ngô

không ngừng tăng trưởng về diện tích, sản lượng và năng suất. Theo thống kê
năm 2014 ta có bảng 2.1 thể hiện diện tích, năng suất, sản lượng ngô thế giới
giai đoạn 1961-2013.
Bảng 2.1. Tình hình sản xuất ngô thế giới giai đoạn 1961 - 2013
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
1961 105,55 1,92 205,03
2008 161,10 5,13 826,22
2009 159,53 5,12 817,11
2010 162,3 5,06 820,6
2011 171,78 5,15 885,28
2012 176,99 4,94 875,09
2013 184,24 5,52 1016,43
(Nguồn FAOSTAT, 2014)
Qua bảng 2.1 cho thấy, sản xuất ngô trên thế giới tăng lên không ngừng cả
về diện tích và năng suất. Năm 1961 năng suất ngô trung bình thế giới mới chỉ
đạt 1,92 tấn/ha, diện tích 105,55 triệu ha. Nhưng đến năm 2013 năng suất ngô
đạt 5,52 tấn/ha, gấp 2,9 lần và sản lượng đạt 1016,43 triệu tấn, gấp 5 lần so với
năm 1961, trong khi diện tích ngô tăng không nhiều 1,7 lần.
Có được kết quả như vậy trước hết là nhờ việc ứng dụng rộng rãi thuyết ưu
thế lai trong chọn tạo giống cây trồng, tiếp đó là không ngừng cải thiện các biện
pháp kỹ thuật canh tác như: tăng mật độ, làm đất tối thiểu, bón phân hợp lý, đã
góp phần làm năng suất ngô tăng lên đáng kể.
Trong công tác cải tạo giống cây trồng trên cơ sở ưu thế lai, ngô lai là một

thành công kỳ diệu của nhân loại. Nhờ sử dụng giống ngô lai và kỹ thuật trồng trọt
3
tiên tiến mà năng suất ngô trên thế giới đã tăng 5 lần trong vòng 53 năm (1961-
2013), nhất là các nước có điều kiện thâm canh như Mỹ, Trung Quốc, Brazil.
Bảng 2.2. Tình hình sản xuất ngô của một số nước trên thế giới năm 2013
Nước
Diện tích
(triêu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
Mỹ 35.35 77.44 273.83
Trung Quốc 34.96 59.55 208.25
Brazil 14.22 50.11 71.29
Ấn Độ 8.40 25.07 21.06
Mêxicô 6.92 31.87 22.06
Indonesia 3.95 48.93 19.37
Argentina 3.50 73.42 25.70
Pháp 1.71 90.85 15.61
Hungari 1.19 39.84 4.74
Thái Lan 1.08 44.56 4.81
Chilê 0.13 107.22 1.49
(Nguồn FAOSTAT, 2014)
Số liệu bảng 2.2 cho thấy: Mỹ là nước có diện tích trồng ngô nhiều nhất trên
thế giới, năm 2013 diện tích ngô của Mỹ là 35.35 triệu ha chiếm 31.72% diện tích
trồng ngô trên toàn thế giới, tiếp Mỹ là Trung Quốc với 34.96 triệu ha chiếm
31.37% diện tích trồng ngô trên thế giới, đứng thứ ba là Brazil (14.22 triệu ha).
Về năng suất thì Chi lê là nước đạt năng suất ngô cao nhất, năm 2013
năng suất ngô của Chilê đạt 107.22 tạ/ha, cao gấp 1.8 lần năng suất trung bình

của thế giới, tiếp đến là Pháp (90.85 tạ/ha), Mỹ (77.44 tạ/ha)…. Nhưng những
nước này có diện tích trồng ngô thấp, do vậy Mỹ, Trung Quốc và Brazil vẫn là 3
nước có sản lượng ngô lớn so với các nước khác trên toàn cầu.
Tuy nhiên, sản lượng ngô trên thế giới trong những năm gần đây có xu
hướng giảm nhẹ, do diện tích trồng ngô có phần bị thu hẹp nhưng sản lượng chỉ
giảm ở những nước phát triển, còn đối với nhưng nước đang phát triển thì sản
lượng ngô lại tăng.
4
Như vậy, trên thế giới trong những năm qua về năng suất ngô đã tăng
nhanh ở một số nước phát triển và các nước đang phát triển. Hiện nay thị trường
ngô trên thế giới được đánh gia là một thị trường tương đối khả quan. Chính vì
vậy mà sản xuất ngô trên toàn cầu sẽ tăng trưởng mạnh trong những năm tới.
2.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất ngô tại Việt Nam
Cây ngô được đưa vào Việt Nam cách đây khoảng 300 năm (Ngô Hữu
Tình, 1997). Ngô là một trong những cây màu chính, thích ứng rộng, chịu thâm
canh, năng suất cao, vì vậy cây ngô được trồng ở hầu hết các vùng trong cả
nước. Tình hình sản xuất ngô lai trong nước giai đoạn từ năm 1961 đến 2013
được trình bày qua bảng 2.3.
Bảng 2.3. Sản xuất ngô Việt Nam giai đoạn 1961 – 2013
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
1961 229,2 1,14 260,1
1975 229,2 1,05 280,6
1990 432,0 1,55 671,0
1994 534,6 2,14 1.143,9

2000 730,2 2,51 2.005,9
2009 1.086,8 4,03 4.381,8
2010 1.126,9 4,09 4.606,8
2011 1121,2 43,1 4835,7
2012 1118,2 42,9 4803,1
2013 1172,6 44,3 5193,5
(Nguồn: FAOSTAT 2014 và Niên giám thống kê, 2014)
Sản xuất ngô ở Việt Nam trải qua nhiều bước thăng trầm, đến nay đã đạt
được những thành tựu to lớn, được chia làm 3 giai đoạn chính:
Giai đoạn 1: Trước năm 1975 do điều kiện còn khó khăn nên cây ngô chưa
được chú trọng, vì vậy diện tích ngô chỉ đạt 209 ngìn ha, năng suất 1,07 tấn/ha,
với sản lượng bình quân 224 nghìn tấn/năm.
Giai đoạn 2: Từ năm 1975-1994 diện tích trồng ngô tăng chậm từ 229,2
nghìn ha (năm 1975) lên 534,6 nghìn ha (năm 1992). Đầu những năm 1990
5
ngành sản xuất ngô Việt Nam thực sự có một bước tiến nhảy vọt, gắn liền với
việc sử dụng giống ngô lai ra sản xuất, đây là bước chuyển tiếp quan trọng trong
chương trình phát triển ngô lai ở Việt Nam - từ giống thụ phấn tự do sang giống
ngô lai quy ước. Hàng loạt các giống ngô lai Việt Nam đã được mở rộng ra sản
xuất: LVN10, LVN4, LVN5, LVN9, LVN12, LVN17 Do được chọn tạo trong
nước nên các giống ngô được tạo ra có khả năng thích ứng với điều kiện sinh
thái và tập quán canh tác của người dân, giá thành giống chỉ bằng 50-70% so với
các giống nước ngoài cùng loại.
Giai đoạn 3: Từ năm 1994 đến nay, diện tích trồng ngô tăng nhanh, đồng
thời với việc tăng không ngừng về năng suất. Năm 2013 năng suất và sản
lượng ngô cao nhất từ trước đến nay, năng suất đạt 44,3 tấn/ha, sản lượng
5193,5 nghìn tấn trên diện tích 1172,6 nghìn ha. So với năm 1990, khi chưa
sử dụng giống ngô lai trong sản xuất thì diện tích tăng trên 2,7 lần, còn sản
lượng tăng trên 7,7 lần.
Có thể nói việc phát triển và sử dụng các giống ngô lai trong sản xuất ở

Việt Nam là thành tựu nổi bật không thể phủ nhận. Trước đây năng suất ngô của
nước ta rất thấp so với năng suất ngô thế giới, do sử dụng giống địa phương và
áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế. Tuy nhiên chỉ trong 10
năm áp dụng sản xuất ngô lai tại Việt Nam diện tích ngô lai đã tăng từ 0% năm
1990 lên 60% năm 2000 với tốc độ tăng kỷ lục 6%/năm, đến năm 2013 tỷ lệ
giống ngô lai trong sản xuất là 95%.
Như vậy, để sản xuất ngô Việt Nam theo kịp các nước tiên tiến và đạt năng
suất trung bình của thế giới, việc quan trọng nhất là tăng cường thu nhập các
nguồn nguyên liệu phù hợp, chọn tạo các giống chống chịu phục vụ cho các
vùng khó khăn, chọn tạo các giống ngô thực phẩm có năng suất và chất lượng
cao, đẩy mạnh nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật canh tác để phát huy tối đa
tiềm năng của giống và bảo vệ môi trường sinh thái.
6
2.3. Tình hình nghiên cứu sử dụng bầu và giá thể trồng cây trên thế giới và
Việt Nam.
2.3.1. Một số nghiên cứu sử dụng bầu và giá thể trên thế giới.
Trồng cây trong giá thể là biện pháp trồng cây trong các giá thể tự tạo
không phải là đất. Dinh dưỡng được cung cấp cho cây thông qua phân bón trộn
trong giá thể và bón thúc. Giá thể được để trong những khay chậu. Khay chậu có
thể làm bằng gỗ, xốp, đất nung, sành, sứ, đá, kim loại,…tuỳ vào điều kiện mà
người trồng có thể chọn lựa và sử dụng theo sở thích của mình.
Giá thể trồng cây cũng có rất nhiều loại nhưng hầu hết được phối trộn từ
các vật liệu dễ kiếm trong tự nhiên như: trấu hun, xơ dừa, mùn cưa, cát, bột đá…
tuy nhiên giá thể được tạo ra phải có độ thông thoáng, giữ nước tốt và có khả
năng cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng, sạch bệnh.
Hỗn hợp bầu vườn ươm được sử dụng có rất nhiều công thức phối trộn, dựa
vào khả năng có sẵn của nguyên vật liệu có tỉ lệ 1:1:1 là cát rây + đất vườn +
phân hữu cơ; đất vườn + bột xơ dừa + phân hữu cơ hay đất vườn + phân chuồng
+ bột xơ dừa.
Masstalerz (1997) cho biết ở Mỹ đưa ra công thức phối trộn (tính theo thể

tích) thành phần hỗn hợp bầu bao gồm mùn sét, mùn cát sét và mùn cát có tỉ lệ
1:2:2; 1:1:1 hay 1:2:0 đều cho thấy cây con mập, khoẻ.
Theo Bunt (1965), hỗn hợp bầu gieo hạt (tính theo thể tích) 1 than bùn rêu
nước + 1 cát bổ sung 2,4kg đá vôi nghiền + 0,6kg supephotphat 20% + 285g
KNOP3. Nhưng ở hỗn hợp bầu trồng cây 3 than bùn rêu nước + 1 cát thì bổ sung
1,8kg đá vôi nghiền + 1,5kg supephotphat 20% + 740g KNOP3 + 1,2g NH4NO3.
Trung tâm nghiên cứu phát triển Rau châu Á khuyến cáo việc sử dụng rêu
than bùn hoặc chất khoáng được coi như môi trường tốt cho cây con. Ví dụ: đối
với ớt, sử dụng 3 phần than bùn + 1 phần chất khoáng. Hỗn hợp đặc biệt bao
gồm đất + rêu than bùn + phân chuồng. Trấu hun và trấu đốt cũng được sử dụng
như thành phần của hỗn hợp.
7
2.3.2. Một số nghiên cứu sử dụng bầu và giá thể tại Việt Nam.
Sử dụng bầu trồng cây là tiến bộ kỹ thuật hiện được áp dụng rộng rãi đối
với các loại cây cây con, cây giống đúng thời vụ, giải quyết các khó khăn thời
tiết không thể khắc phục khi gieo trồng các loại cây trồng cạn. Trên thế giới nói
chung và tại Việt Nam nói riêng việc nghiên cứu tạo bầu trồng cây đã phát triển
từ lâu, các nguyên liệu được nghiên cứu sừ dụng là những nguyên liệu có sẵn
trong tự nhiên như: phế phụ phẩm nông nghiệp, chất hữu cơ: than bùn, mạt cưa,
vỏ trấu hun, Việc nghiên cứu và sử dụng bầu cho cây con trong giai đoạn vườn
ươm ở Việt Nam đã được tiến hành trên nhiều đối tượng cây trồng như: cây lâm
nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả, rau, ngô …
Hiện nay sản xuất bầu được làm theo các cách: sử dụng túi nilon hoặc
gieo trực tiếp trên khay có lỗ, …
Theo Tạ Thu Cúc và cs., (2000) ở những vùng có điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt và đối với những giống rau quý hiếm có thể gieo cây con trong vườn
ươm. Giá thể làm bầu gồm đất bột đã phơi ải, đập nhỏ, sạch cỏ dại chiếm 1/3
khối lượng ruột bầu, 1/3 xỉ than và 1/3 phân chuồng hoai mục trộn đều, cứ 10kg
ruột bầu (chất bồi dưỡng cây giống) trộn thêm 0,5kg supe lân để xúc tiến quá
trình hình thành và sinh trưởng của rễ. Nếu gieo hạt vào khay thì độ dày của

chất bồi dưỡng tuỳ theo loại cây trồng, trung bình từ 5-7cm.
Theo kết quả nghiên cứu “Sử dụng vỏ bầu hữu cơ và gía thể trồng một số
loại rau tại vùng Gia Lâm, Hà Nội” – Nguyễn Thế Hùng và cộng sự (2013), vỏ
bầu hữu cơ công nghiệp được làm từ thân lá lúa nghiền có khả năng phân hủy
nhanh trong đất sau 20 ngày. Vỏ bầu có tác dụng giữ ẩm, cung cấp nước, đảm
bảo độ thoáng, khi phân hủy tạo ra mùn cung cấp cho cây trồng. Có thể sử dụng
vỏ bầu hữu cơ công nghiệp để ươm các loại hạt rau.
Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội (2003) qua nghiên cứu
bước đầu, đã đưa ra 5 công thức phối trộn giá thể cho 5 loại cây trồng như sau:
8
cây hồng Đà Lạt: than bùn 76,5% + bèo dâu 13,5% + đất 10%; cây cảnh: than
bùn 76,5% + 6,75% trấu + 6,75% bèo dâu + 10% đất; hoa giống: than bùn 45%
+ 22,5% trấu + 22,5% bèo dâu + 10% đất; ớt: than bùn 67,5% + 22,5% trấu hun
+ 10% đất và cà chua: 67,5% than bùn + 22,5% bèo dâu + 10% đất.
2.4. Nghiên cứu về mật độ và khoảng cách trồng ngô
trên thế giới và Việt Nam.
Tạo giống chịu mật độ cao là một trong những mục tiêu quan trọng của
các nhà tạo giống ngô. Bằng nhiều phương pháp người ta đã không ngừng cải
thiện được mật độ trồng ngô trên thế giới. Mật độ trồng và khoảng cách giữa các
hàng ngô là những vấn đề được nghiên cứu nhiều và sâu nhất trong các biện
pháp canh tác cây ngô. Rất nhiều thí nghiệm liên quan đến mật độ và khoảng
cách về ngô ở nhiều khu vực trên thế giới.
Theo Hallauer (1991), Banzinger và cộng sự (2000) và nhiều người khác,
các giống ngô lai mới tạo ra hiện nay có khả năng chịu được mật độ cao gấp 2 –
3 lần so với các giống ngô lai tạo ra cách đây 50 năm và có tiềm năng năng suất
cao hơn hẳn.
Theo Minh Tang Chang (2005), năng suất ngô của Mỹ trong hơn 40 năm
qua tăng thêm 58% là nhờ đóng góp của giống lai đơn, 21% là nhờ tăng mât độ
và 5% là nhờ thu hẹp khoảng cách hàng.
Người ta đã nghiên cứu với khoảng cách giữa các hàng từ hơn 30 cm đến

hơn 200cm và mật độ từ 0,5 đến 24 vạn cây/ha. Giai đoạn trước năm 1940,
khoảng cách giữa các hàng chủ yếu phụ thuộc vào kích thước của ngựa (vốn
được dùng chủ yếu trong canh tác ngô ở Mỹ thời đó), và khoảng cách thuận lợi
cho việc canh tác là 100 – 112 cm.
Cùng với việc mở rộng các giống ngô lai và cơ giới hóa, khoảng cách
hàng hẹp hơn đã trở nên phổ biến với khoảng cách cây đều nhau hơn. Stickler
(1964) ở Kansas kết luận rằng: với cùng một mật độ nhưng khoảng cách hàng
51 cm cho năng suất tăng 5% so với 102 cm ở điều kiện khô hạn và 6% ở điều
9
kiện có tưới. Rossman và Cook (1966) thu được năng suất tăng 14% ở khoảng
cách hàng 46 cm so với 91 cm ở Michigan. Collvile (1966), qua 9 thí nghiệm ở
Nebraska cho thấy, năng suất hạt tăng 16% ở khoảng cách hàng 51cm so với
102 cm. Stivers và cộng sự (1971), trong thí nghiệm ở Indiana cho thấy năng
suất tăng 7% ở khoảng cách hàng 51 cm và 4% ở khoảng cách hàng 76 cm so
với 102 cm. Barbieli và cộng sự (2000) ở Argentina đã công bố kết quả nghiên
cứu ảnh hưởng của khoảng cách hàng gieo 35 cm và 70 cm với cùng mật độ 7,6
vạn cây/ha ở 2 giống ngô lai DK636 và DK639 trong 2 năm 1996 và 1997 cho
thấy: trong điều kiện gieo hàng hẹp (35 cm) năng suất cao hơn hẳn so với
khoảng cách truyền thống.
Widdicombe và Kurt D.Thelen (2002), đã làm thí nghiệm với 4 giống ngô
khác nhau về thời gian sinh trưởng, chiều cao cây, kiểu bắp và góc lá tại 6 địa
điểm ở vành đai ngô nước Mỹ, vào năm 1998 – 1999, với 5 mật độ từ 5,6 – 9
vạn cây/ha và khoảng cách hàng là 38 cm, 56 cm và 76 cm đã rút ra các kết
luận: năng suất đạt cao nhất ở khoảng cách hàng 38 cm và 9 vạn cây/ha.
Các nghiên cứu ở Liên Xô và Bungari cho thấy, năng suất ngô vẫn
tăng khi tăng mật độ đến trên 10 vạn cây/ha với điều kiện đủ ẩm và dinh
dưỡng. Trường hợp đủ ẩm nhưng không bón phân thì càng tăng mật độ năng
suất càng giảm và năng suất tối ưu không vượt quá 4,5 vạn cây/ha. Trường
hợp có bón phân nhưng không đủ ẩm thì khi tăng mật độ lên 9 – 10 vạn
cây/ha vẫn cho năng suất cao hơn trong trường hợp đủ ẩm nhưng thiếu dinh

dưỡng. Còn trường hợp không đủ ẩm và dinh dưỡng thì cho năng suất thấp
nhất trong mọi mật độ trồng.
Việc năng suất tăng ở khoảng cách hàng hẹp so với hàng rộng, đặc biệt ở
mật độ cao, được giải thích là do tiếp nhận năng lượng mặt trời tốt hơn, giảm
bốc hơi nước và hạn chế cỏ dại phát triển do sớm che phủ mặt đất. Denmead và
cộng sự (1962) tính toán rằng, với cùng mật độ thì năng lượng cho quang hợp sẽ
lớn hơn 15 – 20% khi giảm khoảng cách hàng từ 102 cm xuống 60 cm. Yao và
10
Shaw (1964) thấy rằng, tỉ số bức xạ thật ở mặt đất so với trên cây trồng giảm khi
khoảng cách hàng tăng, năng suất và hiệu quả sử dụng nước tăng khi khoảng
cách hàng giảm.
Các nghiên cứu về mật độ và khoảng cách gieo trồng ngô ở nước ta đã
được nghiên cứu từ cách đây khá lâu. Những năm 1984 – 1986, Trung tâm
nghiên cứu ngô Sông Bôi đã trồng giống ngô MSB49 ở các mật độ 9,52 vạn
cây/ha (70×15 cm), 7,14 vạn cây/ha (70×20 cm) và 5,7 vạn cây/ha (70×25 cm),
với 3 mức phân bón khác nhau. Kết quả cho thấy: ở mật độ 9,52 vạn cây/ha với
mức phân bón 120N : 80P
2
O
5
: 40K
2
O cho năng suất cao nhất (55,30 tạ/ha) và ở
mật độ 5,7 vạn cây/ha cho năng suất thấp nhất. Tuy nhiên, sự sai khác về năng
suất giữa các công thức không đáng kể. Cùng với nhiều thí nghiệm ở các giống
ngô thụ phấn tự do khác trong giai đoạn đó cũng như theo hướng dẫn của
CIMMYT, Trung tâm ngô Sông Bôi và sau này là Viện Nghiên cứu Ngô đã đề
ra quy trình về mật độ từ 4,8 – 5,7 vạn cây/ha, tùy theo từng giống ở các tỉnh
phía Bắc và từ 5,3 – 6,2 vạn cây/ha ở các tỉnh phía Nam, với khoảng cách hàng
là 70 cm. Đó cũng là quy trình mà ngành Nông nghiệp ban hành trước đây.

Từ năm 2006, Bộ Nông Nghiệp đã ban hành Hướng dẫn quy trình kỹ
thuật thâm canh ngô lai đạt năng suất trên 7 tấn/ha ở các tỉnh miền Bắc. Trong
đó khuyến cáo, với các giống dài ngày nên trồng với mật độ từ 5,5 – 5,7 vạn
cây/ha, các giống ngắn ngày và trung bình trồng 6,0 – 7,0 vạn cây/ha với khoảng
cách giữa các hàng là 60 – 70 cm. Tuy vậy, nhiều nơi bà con nông dân chưa
trồng đạt mật độ khuyến cáo, có nơi chỉ đạt khoảng 3 vạn cây/ha, đây là một
trong những nguyên nhân chính dẫn đến năng suất ngô trong sản xuất của nước
ta chỉ mới đạt 30 – 40% so với tiềm năng năng suất trong thí nghiệm. Trên cả
nước chỉ mới có tỉnh An Giang đạt năng suất trung bình 7,5 – 7,8 tấn/ha trên
diện tích gần 10.000 ha từ năm 2006 đến nay.
2.5. Kỹ thuật làm ngô bầu truyền thống
* Chọn vị trí làm bầu
11
- Vị trí làm bầu ngô phải thông thoáng, tốt nhất làm ngay gần ruộng dự
kiến trồng ngô, gần nguồn nước, dễ vận chuyển ra ruộng; nơi làm bầu cần san
phẳng và nhặt sạch cỏ dại.
* Kỹ thuật làm bầu ngô
- Trộn đất bùn với phân chuồng hoai mục theo tỷ lệ 2 đất bùn + 1 phân
chuồng, bổ sung 3 kg phân lân (40 kg đến 50 kg bùn ao + 20 kg phân chuồng
hoai mục + 3 kg phân lân cho số bầu để trồng cho 1 sào ngô).
Lưu ý: Không nên dùng đất bùn ở nơi ao tù màu đen, có mùi hôi tanh, nhiều
chất độc có thể làm thối mầm ngô.
- Dàn đều hỗn hợp dày từ 3 cm đến 5 cm trên nền đất cứng có lót lá chuối
hoặc 1 lớp trấu mỏng, khi hỗn hợp làm bầu se mặt dùng dao mỏng cắt vuông
hỗn hợp đất:
+ Kích thước 3 cm x 3 cm x 3 cm (cây sống trong bầu tối đa 5 ngày);
+ Kích thước 5 cm x 5 cm x 5 cm (cây sống trong bầu tối đa 7 ngày).
* Gieo hạt, chăm sóc bầu ngô
- Lượng giống từ 17 kg đến 22 kg/ha (từ 0,6 kg đến 0,8 kg/sào) tùy từng
loại giống và mật độ trồng.

- Ngâm ủ: Trước khi gieo hạt vào bầu từ 1 đến 2 ngày đem ngâm hạt
giống trong nước sạch 8 - 10 giờ, sau đó đem ủ, có thể ủ cùng cát, trấu, tốt nhất
nên dùng cát ẩm để ủ. Sau 20 giờ hạt nảy mầm, kiểm tra giá thể, nếu ẩm quá có
thể làm thối giống. Ủ hạt nứt nanh, nhú mầm tiến hành đem gieo, không để rễ
mầm quá dài khi gieo rất dễ gẫy.
- Gieo hạt vào bầu: Khi bầu ngô se mặt dùng ngón tay trỏ chọc một lỗ sâu
2 cm ở giữa bầu, đặt hạt ngô vào lỗ, rễ quay xuống. Dùng đất bột khô lấp kín hạt
sau đó tưới nhẹ đảm bảo đủ ẩm thường xuyên.
- Chăm sóc bầu ngô: Giữ cho bầu đủ ẩm bằng cách tưới nước 1 - 2
lần/ngày vào sáng sớm và chiều mát; trong 3 ngày đầu, cần che phủ mặt luống,
12
đề phòng mưa to. Thời gian cây ngô sống trong bầu từ 5 đến 7 ngày. Khi cây
ngô có từ 1,5 đến 3 lá thì đem ra trồng.
* Kỹ thuật trồng ngô bầu
Làm đất
- Trên đất ruộng 2 vụ, sau khi gặt lúa mùa, tháo cạn nước và cày luống
rộng 1,1m, rãnh luống 0,3 m, cuốc thành hốc theo 2 hàng, bón lót phân rồi tiến
hành đặt bầu. Ở những nơi có điều kiện nên áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu
hoặc không làm đất khi trồng ngô để giảm công lao động và tranh thủ thời vụ.
Đặt bầu ra ruộng
- Thời vụ
+ Cây ngô là cây trồng ưa ấm, do đó cây ngô vụ Đông trồng càng sớm
càng tốt, đặt bầu ra ruộng.
- Kỹ thuật trồng: Trồng mỗi hốc 1 bầu dùng đất lấp kín chỗ tiếp xúc giữa
bầu và mặt luống để tránh đọng nước ở gốc.
- Mật độ và khoảng cách: hàng cách hàng 50 cm, cây cách cây 30 cm
hoặc theo hướng dẫn trực tiếp trên bao bì.
Bón phân và chăm sóc ngô
- Lượng phân bón cho 1 sào (360 m
2

):
+ Phân chuồng từ 300 kg trở lên;
+ Đạm urê từ 11 kg đến 13 kg.
+ Phân lân từ 13 kg đến 15 kg.
+ Kali từ 4 kg đến 6 kg.
- Cách bón phân
+ Bón lót toàn bộ phân chuồng và phân lân. Bón vào rãnh hoặc vào hốc,
lấp một lớp đất mỏng rồi mới gieo hạt hoặc đặt bầu.
13
+ Khi cây ngô có từ 3 lá đến 4 lá, xới phá váng, giặm chỗ cây bị mất
khoảnh, bón từ 5,5 kg đến 6,5 kg đạm urê + 2 kg đến 3 kg kali (bón thúc lần 1),
kết hợp vun nhẹ (vun đá chân).
+ Khi cây ngô có từ 7 lá đến 9 lá, bón toàn bộ lượng phân đạm và phân
kali còn lại (bón thúc lần 2) kết hợp với vun cao (bón phân ở khoảng cách giữa 2
cây ngô, không bón trực tiếp vào gốc ngô).
+ Luôn tưới nước và giữ đủ ẩm cho ngô ở các giai đoạn cây từ 3 lá
đến 4 lá, từ 7 lá đến 9 lá, xoáy loa kèn, trỗ cờ, phun râu và chín sữa. Không
để ngô bị ngập úng.
+ Nếu ruộng ngô gặp mưa nhiều, đất bí không kịp thoát nước cây ngô
chuyển màu huyết dụ, chân chì dùng 3 kg phân lân ngâm với nước giải 1 ngày
sau đó pha loãng tưới cho 1 sào ngô hoặc dùng phân bón lá để phun (sử dụng
theo hướng dẫn ghi trên bao bì).
Phòng trừ sâu bệnh: Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, khi phát hiện
sâu bệnh có biện pháp phòng trừ kịp thời. Chú ý một số loại sâu bệnh hại chính
sau: sâu xám, rệp bắp, rệp cờ, đục thân, khô vằn, đốm lá,
Thu hoạch: Khi lá bi đã khô vàng, hạt ngô có điểm đen ở chân thì thu hoạch.
Phương pháp làm bầu ngô đã được nông dân thực hiện từ rất lâu nhưng
năng suất không cao chưa tương xứng với tiềm năng năng suất của giống ngô lai
đang trồng và vẫn còn nhiều hạn chế:
- Làm bầu bằng bùn bị bí chặt làm hạt khó nảy mầm và dễ bị thối.

- Biện pháp làm ngô bầu có tác dụng tốt để trồng ngô đông sớm nhưng
nhiều hộ nông dân làm bầu không đúng kỹ thuật khi bứng bầu ngô ra ruộng để
trồng thì cả khối bầu vẫn liên kết chặt chẽ với nhau nên vừa tốn công tách bầu
vừa làm ngô bị đứt rễ, đây là nguyên nhân để ngô lâu phục hồi và kéo dài thời
gian sinh trưởng.
- Khi trồng ngô ra ruộng tuổi bầu cây vượt quá 7 ngày làm cây ngô bị chột.
- Làm luống ngô nhỏ: bề mặt luống hiện nay phổ biến chỉ từ 0,6-0,8 m,
làm cho ruộng ngô mất nhiều diện tích rãnh ( góp phần vào làm giảm mật độ
14
trồng ngô) đồng thời tăng bề mặt tiếp xúc với không khí dẫn đến khả năng giữ
ẩm kém dẫn đến cây ngô bị thiếu nước. Đặc biệt giai đoạn khi ngô trỗ cờ đến
khi vào hạt là thời kỳ cây ngô yêu cầu lượng nước lớn trong khi thời tiết lại ít
mưa, ẩm độ không khí thấp.
- Mật độ trồng ngô thưa, sắp xếp tán lá không hợp lý, khi đặt bầu ngô
không theo trình tự làm cho ruộng ngô có chỗ tán lá quá dày trong khi có chỗ lại
thưa nên không phát huy hết hiệu quả quang hợp.
- Chế độ sử dụng phân bón chưa cân đối và hợp lý: Việc sử dụng lượng
kali còn ở mức thấp, chăm bón sớm cho cây ngô ở giai đoạn đầu chưa được chú
trọng, nên cây ngô thường bị còi cọc ở giai đoạn đầu. Phân đạm bón quá muộn
làm giảm hiệu quả sử dụng phân bón của cây.
- Phòng trừ sâu bệnh không kịp thời: tổ chức phòng trừ muộn đặc biệt là
rệp cờ. Do giai đoạn trước khi trỗ cờ rệp thường tập trung ở trong nõn ngô, mức
gây hại còn nhẹ nên việc phát hiện thường muộn.
- Bà con nông dân ở một số địa phương đã vặt lá tươi cho trâu bò ăn khi
ngô đang vào hạt, thu hoạch ngô sớm khi lá và bẹ vẫn còn xanh đã làm giảm
năng suất và chất lượng ngô.
Vì vậy, để trồng ngô đạt năng suất, hiệu quả cao và hạn chế được những
nhược điểm của làm bầu truyền thống cần phải áp dụng những biện pháp kỹ
thuật cải tiến.
2.6. Kỹ thuật trồng ngô vụ Đông mật độ cao theo phương pháp đặt bầu

chỉnh tán lá bằng bầu cải tiến.
* Cách làm bầu
+ Sử dụng các loại phế phụ phẩm nông nghiệp để làm nguyên liệu (chất
hữu cơ) trộn lẫn với đất và phân vi sinh.
+ Trộn nguyên liệu thành hỗn hợp theo đúng các công thức làm bầu, cho
thêm nước đủ ẩm.
+ Đưa hỗn hợp vào máy trộn, sau đó cho vào khuôn để ép, phơi khô.
15
+ Giai đoạn vườn ươm: bầu ươm được xếp cạnh nhau trên cùng 1 công
thức, sau 3 ngày tiến hành lấp cát xung quanh bầu tạo điều kiện tốt cho rễ sinh
trưởng sau khi đâm qua vỏ bầu (tránh hiện tượng khô đầu rễ).
+ Gieo mỗi bầu một hạt giống (có thể sử dụng hạt đã ngâm ủ).
+ Tưới giữ ẩm 1 – 2 lần / ngày.
* Chọn đất và làm đất:
- Chọn đất: Đất có thành phần cơ giới cát pha, thịt nhẹ, độ phì khá, chủ
động tưới tiêu.
- Làm đất, lên luống: Đất cày bừa kỹ, tơi nhỏ, nhặt sạch cỏ dại. Lên luống
rộng 1,0 m, rãnh luống rộng 0,20 m.
* Thời vụ:
- Vụ Đông trên đất chuyên mầu: trồng từ 20/8 đến 20/9.
- Vụ Đông trên đất 2 vụ lúa: trồng từ 15 đến 30/9.
* Lượng giống và mật độ trồng:
- Ngô được trồng trong vụ đông cần chọn giống ngô có thời gian sinh
trưởng ngắn hoặc trung bình.
- Phương pháp trồng là gieo hạt ngô vào bầu khi đạt số lá qui định (3 – 4
lá) đưa ra ruộng đặt.
- Lượng giống 28 – 30 kg/ha (1kg/sào).
- Mật độ trồng: 8 – 9 cây/m2 (2.900 – 3000 cây/sào). Cần làm bầu ngô dự
phòng 10% để bù cho bầu có hạt không nẩy mầm hoặc cây không đạt yêu cầu.
- Khoảng cách trồng: Luống rộng 1m được chia thành 2 hàng cách nhau

20 cm, các hốc trên hàng cách nhau 48 cm, đặt 2 cây/hốc cách nhau 6 – 8 cm
(hàng kép).
16
* Cách đặt bầu ngô:
+ Căng dây làm chuẩn theo kích thước qui định rồi mới tiến hành đặt
bầu ngô.
+ Khi đặt bầu yêu cầu các cá thể đều có tán lá quay ngang vuông góc với
hàng ngô, song song và không che khuất nhau để mọi cây ngô đều phát huy tối
đa khả năng quang hợp tích lũy chất khô.
* Lượng phân bón và cách bón phân
- Lượng phân bón đầu tư: Căn cứ vào quy trình kỹ thuật của từng giống,
nhưng do mật độ trồng tăng gấp đôi nên lượng phân bón phải tăng từ 25 – 30%.
- Cách bón:
Bón lót: Sau khi chăng dây đặt bầu ngô bón toàn bộ phân chuồng + phân
lân vào xung quanh bầu ngô (cách bầu 2 – 3 cm) rồi xúc đất vun kín gốc.
Bón thúc: 3 lần với liều lượng phân bón như sau:
+ Bón thúc lần 1: (khi cây ngô có 4 – 5 lá): Bón 1/3 lượng phân đạm + 1/2
kali có thể hòa tan phân vào nước tưới hoặc rắc phân kết hợp xới nhẹ mặt luống
rồi tưới nước nhẹ.
+ Bón thúc 2 lần (khi cây ngô có 10 – 11 lá): Bón 1/3 lượng phân đạm +
1/2kali có thể hòa tan phân vào nước tưới hoặc rắc phân kết hợp xới vun cao gốc
rồi tưới nước nhẹ.
+ Bón thúc lần 3 (khi cây ngô trỗ cờ phun râu xong): Bón 1/3 lượng phân
đạm còn lại bằng cách hòa tan phân đều trong nước tưới xung quanh gốc.
* Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh:
- Tưới đủ độ ẩm cho cây ngô từ khi đặt bầu đến khi trỗ cờ phun râu xong
(nếu có điều kiện nên tháo nước ngập 1/2 rãnh).
- Bón lót đủ lượng phân qui định, bón thúc đủ 3 lần, bón thúc lần 2 kết
hợp vun cao gốc để cây không bị đổ ngã.
- Xới xáo kết hợp bón thúc lần một và nhổ sạch cỏ dại khi cây ngô có 4 – 5 lá.

- Phòng trừ sâu bệnh: kịp thời phòng trừ một số loại sâu bệnh hại ngô chủ
yếu: sâu xám, sâu đục thân, sâu cuốn lá, khô vằn, đốm lá,…
17
PHẦN III. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung:
Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, khả năng chống chịu, năng suất và mật
độ trồng thích hợp cho ngô gieo trồng trên bầu trong vụ Đông năm 2014.
3.2. Vật liệu, địa điểm và thời gian nghiên cứu
3.2.1 Vật liệu nghiên cứu
- Giống ngô:
Giống
Đặc điểm
Giống NK4300 Giống LVN4
Nguồn gốc
Có nguồn gốc từ Thái Lan, được
công ty TNHH Syngenta Việt Nam
nhập nội và chuyển giao.
Do Viện nghiên cứu ngô tạo ra
Thời gian sinh
trưởng
Là giống có thời gian sinh trưởng
trung bình, từ 105 – 110 ngày.
Là giống có thời gian sinh trưởng
trung bình sớm, 90 – 110 ngày.
Đặc điểm, đặc
tính giống
Chiều cao cây trung bình: 190 –
210 cm.
Chiểu cao đóng bắp: 75 – 80 cm.

- Khả năng chống đổ, chịu úng,
chịu hạn tốt.
- Bắp to, hình trụ, có 14 – 16 hàng
hạt, hạt màu vàng cam đậm, dạng
bản đá.
- Tiềm năng năng suất cao: 80 –
100 tạ/ha.
- Chiều cao cây trung bình: 170
– 200 cm.
- Chiều cao đóng bắp: 80 – 100
cm.
- Khả năng chống chịu sâu bệnh
tốt.
- Bắp to, có 12 - 14 hàng hạt, hạt
màu vàng cam, dạng bản đá.
- Tiềm năng năng suất cao: 80 –
100 tạ/ha.
- Vật liệu làm bầu:
18
Bầu sử dụng các phế phẩm nông nghiệp, cùng với đất phù sa và phân vi
sinh, có thể đưa ra một số các công thức phối trộn bầu khác nhau:
+ Công thức 1: 3 Phần đất + 1 Phần phân vi sinh + 4 Phần trấu xay nhỏ.
+ Công thức 2: 3 Phần đất + 1 Phần phân vi sinh + 0.5 Phần trấu hạt.
+ Công thức 3: 3 Phần đất + 1 Phần phân vi sinh + 0.5 Phần rơm mục cắt
đoạn ngắn 2 – 3 cm.
+ Công thức 4: 3 Phần đất + 1 Phần phân vi sinh + Phần 0.5 cỏ mục cắt
đoạn ngắn 2 – 3cm.
+ Công thức 5: 3 Phần đất + 1 Phần phân vi sinh + 0.5 Phần bèo khô (băm
nhỏ) + 0.2 Phần trấu hạt.
Trong thí nghiệm, sử dụng công thức phối trộn bầu: 3 Phần đất + 1 Phần

phân vi sinh + 0.5 Phần rơm cắt đoạn ngắn 2 – 3 cm.
- Phân bón: Phân viên nén.
3.2.2. Địa điểm bố trí thí nghiệm.
- Địa điểm: Đề tài nghiên cứu được bố trí trên khu đất thí nghiệm thuộc
bộ môn Cây lương thực – Khoa Nông học – Học viện Nông nghiệp Việt Nam,
Trâu Quỳ - Gia Lâm – Hà Nội.
- Thí nghiệm được tiến hành trên đất phù sa thuộc Đồng Bằng Sông Hồng
không được bồi đắp hàng năm. Đất thịt nhẹ và tơi xốp.
- Đất được đảm bảo làm kỹ, sạch cỏ dại, lên luống và chia ô đúng thiết kế
của thí nghiệm.
3.2.3 Thời gian tiến hành thí nghiệm.
Thời gian nghiên cứu: tiến hành trong vụ Đông năm 2014.
3.3. Phương pháp thí nghiệm
Xác định mật độ gieo trồng thích hợp cho 2 giống ngô (LVN4,
NK4300) trồng bằng bầu công nghiệp trong vụ Đông ở Gia Lâm – Hà Nội.
- Thí nghiệm 2 gồm 2 nhân tố:
+ Nhân tố chính: mật độ (M): M1, M2, M3, M4, M5, M6, M7.
19
+ Nhân tố phụ: Giống ngô (G): G1: NK4300, G2: LVN4.
M1: 4 cây/m dài luống, trồng thông thường (Đ/C), mật độ = 6,5 vạn cậy /ha;
M2: 4 cây/m dài luống, trồng bầu, xoay lá, mật độ = 6,5 vạn cây /ha;
M3: 5 cây/m dài luống, trồng bầu, xoay lá, mật độ = 7, 5vạn cây /ha;
M4: 6 cây/m dài luống, trồng bầu, xoay lá , mật độ = 8,6 vạn cây /ha;
M5: 7 cây/m dài luống, trồng bầu, xoay lá, mật độ = 10,0 vạn cây /ha;
M6: 8 cây/m dài luống, trồng bầu, xoay lá, mật độ = 11,5 vạn cây /ha;
M7: 9 cây/m dài luống, trồng bầu, xoay lá, mật độ = 12,8 vạn cây /ha;
- Thí nghiệm gồm 14 công thức:
G1M1, G1M2, G1M3, G1M4, G1M5, G1M6, G1M7,
G2M1, G2M2, G2M3, G2M4, G2M5, G2M6, G2M7,
- Cách bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm 2 nhân tố, Split-plot .

Mỗi công thức 3 lần nhắc lại, mỗi lần nhắc lại gieo trên 1 ô, diện tích mỗi
ô là 14 m
2
. Tổng số ô thí nghiệm là 14 x 3 = 42 ô. Mỗi ô gồm 4 hàng dài 5m,
khoảng cách hàng x hàng = 0,7m. Tổng diện tích của thí nghiệm là 42 x 14 =
588 m
2
(chưa kể dải bảo vệ và rãnh)
Công thức 2 đến 14 tiến hành gieo ngô trên bầu, sau khi cây được 3 – 4 lá
tiến hành ra bầu, trồng ngoài đồng ruộng theo phương pháp đặt bầu và xoay lá.
SƠ ĐỒ THÍ NGHIỆM
20

×