1
CHƯƠNG 0: MỞ ĐẦU
0.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Điện năng là một loại hàng hoá đặc biệt. Quá trình kinh doanh điện năng bao gồm 3
khâu liên hoàn: Sản xuất - Truyền tải - Phân phối điện năng xảy ra đồng thời (ngay
tức khắc), từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ không qua một khâu thương mại trung
gian nào. Điện năng được sản xuất ra khi đủ khả năng tiêu thụ vì đặc điểm của hệ
thống điện là ở bất kỳ thời điểm nào cũng có sự cân bằng giữa công suất phát ra và
công suất tiêu thụ (không để tồn đọng).
Thị trường điện lực (TTĐL) được hình thành đầu tiên ở Anh vào thập niên 90 của
thế kỷ trước do việc không đảm bảo chất lượng điện năng của ngành điện các nước
trên toàn thế giới. Điều kiện hình thành TTĐL không những chỉ phụ thuộc vào
chính sách về kinh tế, xã hội của Nhà nước mà còn được quyết định bởi điều kiện
kỹ thuật, công nghệ của hệ thống điện. Có nhiều điểm khác nhau về TTĐL tuy
nhiên về cơ bản TTĐL là việc hộ tiêu thụ cuối tiêu thụ điện năng từ các nhà máy
sản xuất điện thông qua hệ thống truyền tải điện (được xem như độc quyền tự
nhiên) hình thành nên thị trường điện bán buôn giữa các nhà máy điện và thị trường
điện bán lẻ cho các hộ tiêu thụ điện năng.
Ngành điện hiện đang nằm trong xu thế đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham
gia hoạt động điện lực cùng với nhu cầu về liên kết và hội nhập khu vực trong đó có
nguồn phát điện. Phương thức quản lý độc quyền nhà nước của hoạt động sản xuất
kinh doanh điện hiện nay còn nhiều bất cập.Việc nghiên cứu đưa ra mô hình quản lý
thị trường phát điện nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong đầu tư, phát triển, quản
lý và vận hành hệ thống điện, đồng thời xem xét vấn đề giảm giá điện và tăng chất
lượng dịch vụ điện cũng như huy động các nguồn tài chính mới cho nhu cầu phát
triển điện lực là rất cần thiết và phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế thị
trường Việt Nam.
2
Hiện nay việc áp dụng công nghệ thông tin vào nghành điện cũng có mặc giới hạn
nên luận văn này cũng nghiên cứu thiết kế phần mềm mô phỏng đấu thầu thị trường
phát điện trực tuyến dựa trên mô hình đề xuất thị trường phát điện Việt Nam.
0.2. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG ĐIỆN
CẠNH TRANH KHU VỰC NGUỒN PHÁT VÀ ĐỊNH HƯỚNG ÁP DỤNG
TẠI VIỆT NAM.
Tính đến nay, trong đa số các ngành trong nền kinh tế Việt Nam đã chuyển đổi
sang kinh tế thị trường, ngành điện vẫn ở thế độc quyền, đang vận hành theo mô
hình liên kết dọc truyền thống. Sự cần thiết phát triển thị trường điện cạnh tranh ở
Việt Nam.Đồng thời áp dụng công nghệ thông tin vào việc đấu thầu online thị
trường phát điện theo xu thế phát triển tiên tiến của các nước trên thế giới. Đó là lý
do mà Tôi quyết định chọn đề tài”Nghiên cứu thị trường điện cạnh tranh khu vực
nguồn phát.Định hướng áp dụng tại Việt Nam”.
Nhu cầu tiêu thụ điện
Theo bản Dự thảo về Tổng sơ đồ phát triển Điện lực quốc gia (Tổng sơ đồ VII), nhu
cầu tiêu thụ điện năng toàn quốc sẽ tăng từ 14%-16%/năm cho giai đoạn 2011-
2015, khoảng 11,5% cho giai đoạn 2016-2020 và khoảng 7,4%-8,4% cho giai đoạn
2021-
Phát triển thị trường điện cạnh tranh là xu hướng phát triển chung của các nước trên
thế giới, là động lực cho hoạt động hiệu quả trong sản xuất kinh doanh điện và phát
triển kinh tế xã hội. Ngành điện Việt Nam không có con đường nào khác, phải nhìn
thẳng vào sự thật để tìm mọi giải pháp hữu hiệu đẩy nhanh phát triển thị trường
điện canh tranh.
0.3. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Mục tiêu của đề tài là giúp hiểu rõ và đề ra cách vận hành của Tập Đoàn Điện Lực
Khu vực nguồn phát của việc Vận hành thị trường phát điện cạnh tranh(VCGM) và
3
thiết kế phần mềm mô phỏng đấu thầu thị trường phát điện trực tuyến . Đồng thời
tạo ra sự nhanh chóng ,tiện lợi và cạnh tranh trong việc đấu thầu nguồn phát điện
online.Phù hợp cách vận hành trong thời đại công nghệ thông tin phát triển là góp
phần đảm bảo cho khách hàng được sử dụng điện với chất lượng cao nhất và giá cả
phù hợp nhất.
Theo đó, VCGM sẽ vận hành theo mô hình thị trường điện chào giá, công suất theo
chi phí để đảm bảo các mục tiêu ổn định cung cấp điện, ổn định giá điện, tăng tính
công khai minh bạch trong vận hành các khâu trong ngành điện, tạo cơ chế thu hút
đầu tư vào nguồn điện.
Trong VCGM, các đơn vị phát điện sẽ được quyền chủ động chào bán điện trên thị
trường, việc điều độ các nhà máy điện sẽ hoàn toàn căn cứ theo bản chào giá của
nhà máy theo nguyên tác huy động các mức công suất của các nhà máy có giá chào
từ thấp nhất đến cao đến khi đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ điện của cả hệ thống.
Thanh toán tiền mua điện cho các nhà máy điện sẽ được thực hiện theo hai cơ chế:
95% sản lượng điện năng được thanh toán theo hợp đồng mua bán điện giữa các
nhà máy điện với Công ty Mua bán điện, 5% sản lượng còn lại sẽ thanh toán theo
giá thị trường từng giờ. Tỷ lệ sản lượng điện năng thanh toán theo hợp đồng sẽ
được xem xét, điều chỉnh hàng năm trên cơ sở đánh giá hiệu quả vận hành của thị
trường và nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường phát điện.
Cũng trong VCGM, giá thị trường được xác định theo các bản chào giá của các đơn
vị phát điện, phản ánh đúng cân bằng “cung - cầu” của hệ thống điện trong từng
thời điểm trong ngày, trong mùa. Mức giá thị trường được áp dụng trong thị trường
giao ngay của khâu phát điện, còn biểu giá bán lẻ điện cho các khách hàng vẫn tiếp
tục do Nhà nước quản lý nhằm đảm bảo các mục tiêu kinh tế cũng như an sinh xã
hội.
0.4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 0: Mở đầu
4
Chương 1: Tổng quan về thị trường điện
Chương 2: Chủ Trương quy định về việc thị trường hóa thị trường điện nguồn phát
tại Việt Nam
Chương 3: Xây dựng thị trường điện nguồn phát cho hệ thống điện
Chương 4: Thanh toán và hợp đồng
Chương 5 : Vận hành thị trường phát điện cạnh tranh, hệ thống thông tin và xây
dựng phần mềm mô phỏng đấu thầu trực tuyến (online)
Kết luận
0.5. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NHIÊN CỨU
0.5.1. Phương pháp luận
Phương pháp nghiên cứu là những nguyên tắc và cách thức hoạt động khoa học nhằm
đạt tới chân lý khách quan dựa trên cơ sở của sự chứng minh khoa học. Điều này có
nghĩa rằng, các nghiên cứu khoa học cần phải có những nguyên tắc và phương pháp
cụ thể, mà dựa theo đó các vấn đề sẽ được giải quyết.Việc nghiên cứu thị trường điện
cạnh tranh khu vực nguồn phát định hướng áp dụng tại Việt Nam sẽ thực hiện các
bước sau.
0.5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp sẽ thực hiện để đạt được những mục tiêu và nội dung trên:
Phương pháp thu thập thông tin
• Thu thập các tài liệu tổng quan về việc thị trường điện cạnh tranh .
• Thu thập thông tin về một số thị trường điện cạnh tranh trên thế giới.
• Thu thập tài liệu trong và ngoài nước về việc vận hành thị trường điện cạnh tranh
khu vực nguồn phát hiện nay cũng như áp dụng các mô hình vận hành.
Thu thập tài liệu chủ yếu qua sách báo,luật điện lực,nghị định,thông tư và văn bản của
Chính Phủ,Bộ Công Thương,Cục Điều Tiết Điện Lực, EVN.
5
Thu nhập tài liệu qua mạng Internet,qua các chuyên đề,bài báo khoa học, các tiểu luận
hay luận văn tốt nghiệp.Tài liệu của giáo viên cung cấp
Phương pháp phân tích
• Phân tích từ các tài liệu có được
• Phân tích các số liệu từ các nhà máy điện,Tập Đoàn Điện Lực Việt
nam(EVN),Cục điều tiết điện lực Việt Nam.
Phương pháp so sánh
•
So sánh các số liệu có được
Phương pháp thống kê và xử lý số liệu
• Sau khi thu thập các tài liệu tiến hành thống kê dữ liệu. So sánh và đưa ra phương
án vận hành tối ưu cũng như phương án đấu thầu giá bán điện nguồn phát tối ưu.
Phương pháp chuyên gia
•
Tham vấn từ các chuyên gia các giáo viên hướng dẫn và dạy học cũng như các
cán bộ công nhân viên nghành điện để đưa ra phương án tối ưu nhất cho thị
trường điện cạnh tranh nguồn phát.
0.5.3. Thiết kế phần mềm mô phỏng đấu thầu trực tuyến (online)
Đưa ra giải thuật
mô hình đấu thầu thị trường phát điện online dựa trên các tài liệu
nghiên cứu.Đồng thời viết phần
mềm mô phỏng theo giải thuật này.
6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG ĐIỆN
1.1. KHÁI NIỆM THỊ TRƯỜNG ĐIỆN CẠNH TRANH
[6]
[25]
−
Thị
trường
là
gì:
thị
trường
là
một
tập
hợp
người
mua
và
người
bán
tác
động qua
lại
lẫn
nhau,
dẫn
đến
khả
năng
trao
đổi.
−
Cơ
chế
cung
cầu
trong
thị
trường
điện:
phân
tích
cung
cầu
là
một
biện
pháp
căn bản
và
đầy
hiệu
quả,
có
thể
áp
dụng
cho
rất
nhiều
vấn
đề
quan
trọng
và
thú
vị.
Có
thể nêu
ra
một
ví
dụ
như
là
dự
đoán
được
tính
hình
kinh
tế
thế
giới
đang
thay
đổi
tác
động lên
giá
cả
thị
trường
và
nền
sản
xuất
như
thế
nào.
−
Trong
thị
trường
điện:
Cầu
là
sản
lượng
điện
năng
cần
thiết
cung
cấp
cho
các
nhà
truyền
tải
(cấp
1),
phân
phối
(cấp
2)
và
các
nhà
tiêu
thụ.
Cung
là
tổng
năng
lượng
điện
mà
nhà
sản
xuất
cung
ứng
cho
thị
trường.
−
Quy
luật
hoạt
động
của
nền
kinh
tế
thị
trường:
Theo
kinh
tế
học
đặc
tuyến
cầu và
cung
cắt
nhau
tại
một
điểm
gọi
là
điểm
cân
bằng
giữa
giá
cả
và
số
lượng.
Điểm
này gọi
là
điểm
thăng
bằng
thị
trường.
Cơ
chế
thị
trường
là
xu
hướng
để
cho
giá
cả
thay
đổi cho
đến
khi
thị
trường
thăng
bằng
(có
nghĩa
là
cho
đến
khi
lượng
cung
cân
bằng
với lượng
cầu).
−
Hoạt
động
giao
dịch
buôn
bán
trong
thị
trường
điện:
Hoạt
động
mua
bán
trong
thị
trường
điện
cạnh
tranh
thông
qua
Trung
tâm
mua
bán
điện
(công
ty
môi
giới). Trung
tâm
mua
bán
điện
sẽ
nhận
các
đồ
thị
phụ
tải
của
khách
hàng
mua
điện
và
các
hồ sơ
thầu
của
các
nhà
cung
ứng
năng
lượng
và
thực
hiện
giao
dịch
đấu
thầu.
Khi
hoạt động
đấu
thầu
hoàn
tất,
Trung
tâm
sẽ
lên
kế
hoạch
cho
các
nhà
cung
ứng
kết
nối
theo như
các
hợp
đồng
đã
thắng
thầu.
−
Thị trường phát điện cạnh tranh :Hoạt động mua bán điện của nhà máy
phát điện thông qua công ty mua bán điện dựa trên giá đấu thầu và phụ tải yêu cầu
−
Các nhà máy điện tham gia cạnh tranh trên thị trường (trừ các nhà máy điện
BOT, các nhà máy thuỷ điện chiến lược đa mục tiêu): ký hợp đồng mua bán điện
7
(PPA) dưới dạng hợp đồng sai khác (CfD) với Đơn vị mua buôn duy nhất. Giá hợp
đồng được quy đổi từ giá công suất và giá điện năng do hai bên thoả thuận nhưng
không vượt quá khung giá cho nhà máy điện chuẩn do Bộ Công Thương ban hành.
Sản lượng hợp đồng hàng năm được xác định trước khi bắt đầu năm vận hành theo
kết quả tính toán tối ưu hệ thống điện của năm tiếp theo. Tỷ lệ sản lượng thanh toán
theo giá hợp đồng do Cục Điều tiết điện lực quy định hàng năm. Sản lượng thanh
toán theo giá hợp đồng của từng chu kỳ giao dịch được tính toán phân bổ từ sản
lượng hợp đồng hang năm;
- Các nhà máy điện BOT: do Đơn vị mua buôn duy nhất chào giá thay trong thị
trường để thực hiện nghĩa vụ bao tiêu trong các hợp đồng PPA và tối ưu chí phí mua
điện của Đơn vị mua buôn duy nhất;
- Các nhà máy thuỷ điện chiến lược đa mục tiêu: ký hợp đồng mua bán điện với
Đơn vị mua buôn duy nhất theo mẫu do Bộ Công Thương ban hành, đảm bảo cho
các nhà máy thu hồi đủ chi phí thực tế;
- Các nhà máy điện cung cấp các dịch vụ phụ trợ (dự phòng khởi động nhanh, dự
phòng nguội và dự phòng vận hành phải phát do ràng buộc an ninh hệ thống điện):
ký hợp đồng hàng năm với Đơn vị vận hành hệ thống điện và thị trường điện theo
mẫu do Bộ Công Thương ban hành.
1.2 TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG HỆ THỐNG ĐIỆN THEO CƠ CHẾ KÍN
VÀ MỞ
[25]
[28]
1.2.1.Hệ thống điện kín:
Là
hệ
thống
điện
được
điều
khiển
với
hàm
mục
tiêu
là
tối
ưu hóa
cả
quá
trình
từ
sản
xuất,
truyền
tải,
phân
phối
đến
tiêu
thụ.
Cách
điều
khiển
này
cóthể
tập
trung
hay
phân
quyền,
nhưng
các
hệ
con
phải
phối
hợp
chặt
chẽ
với
nhau
nhằmđạt
được
mục
tiêu
chung.
Nói
cách
khác,
trong
hệ
thống
điều
khiển
kín,
không
có
khái
niệm
lợi
nhuận
riêng
cho
các
hệ
con
của
một
quá
trình,
mà
ngược
lại
các
hệ
con
cùng phối
hợp
nhằm
tối
ưu
lợi
nhuận
chung
cho
cả
hệ
thống
lớn.
Theo
cơ
chế
này
sẽ
không có
sự
cạnh
tranh
giữa
các
hệ
con
trong
cùng
một
hệ
lớn.
8
Nhà máy
phát điện
Bộ phận
Truyền tải điện
Nhà máy
phát điện
Khối điều khiển trung tâm
( Trung tâm điều độ )
Bộ phận
phân phối
Bộ phận
phân phối
Bộ phận
Truyền tải điện
Trong
hệ
thống
điện
kín,
bộ
phận
sản
xuất,
truyền
tải
và
phân
phối
hoạt
động
theo
quan
hệ
hàng
dọc.
Mọi
hoạt
động
đều
thông
qua
Trung
tâm
Điều
độ.
Các
bộ
phận chức
năng
theo
mối
quan
hệ
hàng
dọc
sẽ
thực
hiện
tốt
chức
năng
của
mình.
Yếu
tố cạnh
tranh
trong
thị
trường
không
xảy
ra.
Mô
hình
hệ
thống
điện
kín
giới
thiệu
như
ở hình
1.1
Hình
1.1:
Mô
hình
hệ
thống
điện
kín
Đây
là
một
thị
trường
độc
quyền.
Điều
này
dẫn
đến
người
tiêu
dùng
sẽ
phải
ký
hợp
đồng
mua
điện
với
mức
giá
được
công
ty
độc
quyền
qui
định.
Hiện
nay
nước
ta vận
hành
với
cơ
chế
kín.
Nhà
nước
đầu
tư
nguồn
phát,
mạng
truyền
tải,
mạng
phân phối
và
gọi
là
công
ty
điện
lực.
Các
công
ty
điện
lực
sản
xuất
và
cung
cấp
cho
những nơi
tiêu
thụ.
Trong
giai
đoạn
nào
đó,
phải
thừa
nhận
rằng,
ngành
điện
cần
phải
có
cơ
chế
độc
quyền
này
vì
chỉ
có
cơ
quan
nhà
nước
mới
đủ
khả
năng
xây
dựng
cơ
sở
hạ
tầng
ngành điện.
Tuy
nhiên,
ngày
nay
cùng
với
sự
phát
triển
rất
phức
tạp
về
cấu
trúc
hệ
thống điện,
sự
đòi
hỏi
phải
đa
dạng
về
các
nguồn
đầu
tư,
dẫn
tới
quyền
lợi
của
các
phần
tử trong
hệ
thống
dần
dần
tách
biệt
làm
cơ
chế
điều
khiển
hệ
thống
kín
xuất
hiện
nhiều khiếm
khuyết.
Một
cơ
chế
điều
khiển
hệ
thống
điện
9
Công ty
phát điện
Công ty
Truy
ền tải điện
Công ty
phát điện
Trung tâm mua bán điện năng
( Công ty môi giới -Powerpool )
Công ty
phân phối
Công ty
phân phối
Công ty
Truyền tải điện
mới
dần
dần
hình
thành
và
có
tác dụng
hết
sức
tích
cực
cho
việc
tăng
trưởng
hệ
thống
điện:
hệ
thống
điện
mở
(
hình
1.2
) ra
đời
trong
bối
cảnh
đó.
Hình
1.2:
Mô
hình
hệ
thống
điện
mở
(thị
trường
điện
cạnh
tranh)
1.2.2. Hệ thống điện mở:
Là
hệ
thống
điện
được
điều
khiển
theo
kiểu
phân
tán
mà
theo đó
một
quá
trình
sản
xuất
được
phân
ra
làm
nhiều
công
đoạn
là
một
công
ty,
một
tập đoàn
riêng
biệt
đảm
nhiệm,
nên
có
những
mục
tiêu
và
lợi
nhuận
riêng.
Các
hệ
con
chỉ việc
điều
khiển
sao
cho
tối
ưu
hóa
hàm
mục
tiêu
của
chính
mình.
Ngoài
ra,
các
hệ
con
còn
tuân
thủ
theo
những
luật
lệ
ràng
buộc
khi
tham
gia
vào
hệ
thống
lớn.
Chính
những luật
lệ
và
sách
lược
mà
hệ
lớn
đưa
ra
sẽ
buộc
các
hệ
con
vận
hành
sao
cho
tối
ưu
hệ con
của
mình,
điều
này
dẫn
đến
tối
ưu
cho
toàn
hệ.
Lợi
ích
của
mô
hình
hệ
thống
mở:
việc
tư
nhân
hóa
ngành
điện
tại
nhiều
quốc
gia
mang
lại
sự
tiến
bộ
rất
lớn
cho
ngành
điện,
cò
thể
kể
ra
vài
nét
chính
như
sau:
-
Do
cạnh
tranh,
giá
thành
sản
xuất
điện
và
truyền
tải
giảm,
dẫn
đến
người
tiêu
thụ
được
hưởng
lợi:
các
dịch
vụ
cung
cấp
điện
cho
khách
hàng
tốt
hơn,
chất
lượng điện
năng
tốt
hơn,
độ
tin
cậy
được
nâng
cao.
-
Nhà
nước
không
phải
bù
lỗ
cũng
như
bỏ
vốn
vào
các
công
trình
điện,
vì
thế
10
nguồn
vốn
sẽ
được
đầu
tư
vào
những
lĩnh
vực
mà
tư
nhân
không
sẵn
sàng
đầu
tư.
1.3. THỊ TRƯỜNG ĐIỆN TRÊN THẾ GIỚI
[20]
1.3.1. Sự tái thiết ngành điện theo cơ chế thị trường cạnh tranh:
Tái
thiết
ngành
điện
theo
cơ
chế
mở
là
xu
thế
toàn
cầu.
Xu
thế
này
tạo
được
bước
tiến
rất
rõ
rệt
trong
ngành
điện.
Sự
hình
thành
thị
trường
điện
cạnh
tranh
mang
mục đích
gia
tăng
hiệu
quả
phục
vụ
của
ngành
và
giảm
giá
thành
điện
năng
(
có
thể
thấy qua
kinh
nghiệm
của
các
ngành
có
tính
đặc
thù
tương
tự
như
ngành
bưu
chính
viễn thông,
giao
thông
vận
tải,
phát
thanh
truyền
hình…).
Điện
năng
là
một
dạng
hàng
hóa, nhưng
là
một
dạng
đặc
biệt,
điện
khó
có
thể
được
tích
trữ,
việc
sản
xuất
và
truyền
tải điện
bị
ràng
buộc
bởi
nhiều
đặc
tính
kỹ
thuật.
Việc
đòi
hỏi
sự
cung
cấp
điện
liên
tục với
độ
ổn
định
là
nguyên
nhân
làm
giá
điện
gia
tăng
đối
với
khách
hàng.
Do
đó
tính phân
nhóm
và
cạnh
tranh
trong
ngành
điện
tạo
ra
những
lợi
thế
rõ
ràng:
tạo
những mức
giá
minh
bạch,
và
như
thế
giảm
thiểu
sự
bù
lỗ
cũng
như
các
trợ
cấp
không
mang lợi
ích
kinh
tế,
hướng
tới
một
sân
chơi
công
bằng
cho
các
nhà
đầu
tư
bằng
qui
tắc thưởng
phạt:
thưởng
cho
những
bộ
phận
hoạt
động
tốt
và
phạt
những
tổ
chức
hoạt động
kém
hiệu
quả,
tạo
nhiều
cơ
hội
cho
những
sáng
kiến
mới
và
tạo
nhiều
sự
chọn lựa
thuận
lợi
cho
khách
hàng…
1.3.2. Hoạt động thị trường điện cạnh tranh trên thế giới
[20]
:
1.3.2.1. Thị trường điện tại Úc
a/ Quá trình cải tổ và phát triển thị trường điện
Quá trình tái cơ cấu ngành điện Úc bắt đầu được tiến hành từ năm 1991, bằng việc
chia tách các khâu phát điện, truyền tải và phân phối. Khi chưa thực hiện quá trình
tái cơ cấu, tài sản các đơn vị trong ngành điện Úc đều thuộc sở hữu của nhà nước.
Do nguồn than dồi dào nên nhiệt điện than chiếm một tỷ lệ lớn trong khâu phát điện
tại Úc. Quá trình tái cơ cấu ở Úc được tiến hành đồng thời từ cấp bang và cấp Quốc
gia. Năm 1995 ngành điện Úc bắt đầu quá trình chuyển dịch theo mô hình tập đoàn
và tư nhân hóa. Các đơn vị truyền tải thuộc sở hữu nhà nước được hợp nhất thành
11
Công ty truyền tải quốc gia duy nhất cùng với 1 Ủy ban quản lý lưới điện Quốc gia
được thành lập. Năm 1994, Ủy ban quản lý lưới điện Quốc gia ban hành quy định
“Tái cơ cấu ngành điện Úc”, quy định này đặt ra mục tiêu cho phát triển thị trường
điện Úc sau này.
Cơ cấu tổ chức cho hoạt động thị trường điện của Úc bao gồm: i) Hội đồng về năng
lượng (cấp Bộ); ii) Uỷ ban Thị trường năng lượng; iii) Cơ quan Điều tiết năng
lượng.
Thị trường điện quốc gia Úc bắt đầu vận hành từ tháng 12 năm 1998 với các mục
tiêu: tạo sự cạnh tranh, cho phép các khách hàng lựa chọn nhà cung cấp, cho phép
tham gia nối lưới Các đơn vị tham gia NEM gồm có:
- Công ty quản lý thị trường điện (NEMMCO): có vai trò điều độ hệ thống và điều
hành thị trường điện (SMO).
- Các công ty phát điện (Generators), có 15 công ty công ty phát điện sở hữu trên
260 đơn vị phát điện. Các nhà máy điện công suất đặt ≥ 30 MW đều phải tham gia
thị trường.
- Các công ty cung cấp dịch vụ lưới truyền tải (TNSP): có 5 công ty.
- Các công ty cung cấp dịch vụ lưới phân phối (DNSP).
- Các khách hàng mua điện trên thị trường: bao gồm các công ty bán lẻ điện và các
khách hàng sử dụng điện lớn.
b/ Mô hình và cấu trúc thị trường điện
Thị trường NEM là thị trường thời gian thực vận hành theo mô hình điều độ tập
trung - chào giá tự do (price-based pool) có kèm theo hợp đồng tài chính (CfD) giữa
các công ty phát điện và khách hàng mua điện để quản lý rủi ro biến động giá. Các
12
hợp đồng song phương được thực hiện độc lập bởi hai bên mua và bán. Thị trường
Úc được chia theo vùng, bao gồm 6 vùng là các bang của Úc.
Với đặc điểm của thị trường Úc có độ dự phòng công suất lớn khoảng 25% và tốc
độ tăng trưởng phụ tải thấp khoảng 3% năm, cơ cấu nguồn năng lượng đa dạng. Cở
sở hạ tầng của hệ thống điện phát triển ở mức cao (hệ thống SCADA, hệ thống đo
đếm) đại đã giúp dễ dàng xây dựng thị trường thời gian thực (5 phút), giúp phát
triển thị trường nhanh chóng. Từ năm 1998 đến nay Úc đã phát triển đến giai đoạn
bán lẻ cạnh tranh.
Tham gia thị trường có 15 công ty phát điện, các công ty này thường sở hữu đa
dạng các nhà máy phát điện có công nghệ khác nhau như nhiệt điện, thuỷ nhiệt,
thuỷ điện tích năng, năng lượng gió v.v. để có thể chào giá đảm bảo tối ưu khả năng
phát toàn công ty.
c/ Nguyên tắc vận hành thị trường
Hàng ngày, các công ty phát điện nộp bản chào giá cho các mức công suất phát theo
chu kỳ 5 phút. Từ tất cả các bản chào được tổng hợp, Công ty quản lý thị trường
(NEMMCO) xác định phương thức huy động các nhà máy điện để đáp ứng nhu cầu
phụ tải theo nguyên tắc chi phí tối thiểu. NEMMCO sau đó sẽ điều độ các nhà máy
điện theo phương thức được lập theo các bản chào này. Giá thị trường được xác
định theo chu kỳ 30 phút, là giá bình quân của 6 chu kỳ điều độ liên tục (5 phút 1
chu kỳ điều độ). Giá thị trường này được NEMMCO sử dụng để thanh toán tiền
điện với các bên mua và bán trong thị trường giao ngay và giá này là như nhau
trong tất cả các vùng.
d/ Thực tế vận hành và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Thị trường toàn phần (Price Based) tạo nên xu hướng giá điện ngày càng tăng mà
không tạo ra được động lực cho đầu tư bổ sung để phát triển công suất phát.Về mặt
13
vận hành các nhà máy không muốn chào tối đa công suất sẵn có (để nâng giá bán);
Về mặt đầu tư, các công ty phát điện không muốn đầu tư bổ sung để nâng công suất
phát (cũng để tạo nên tình trạng thiếu cung, nâng giá bán tăng lợi nhuận). Như vậy,
mô hình thị trường chào giá toàn phần có xu hướng hạn chế phát triển công suất
nguồn mới cả về ngắn hạn (trong vận hành) và dài hạn (trong đầu tư mới), vì động
lực duy nhất của các công ty phát điện là đạt được giá bán điện cao nhất để có được
lợi nhuận cao bù đắp những rủi ro thị trường. Thực tế, với tốc độ tăng trưởng nhu
cầu điện tại Úc ở mức 3%/năm thì trong vòng 7 năm trở lại đây không có một
nguồn mới nào được đầu tư thêm trong khi đó giá điện bán buôn đã tăng xấp xỉ
80%.
1.3.2.2.Thị trường điện tại Singapore:
tiến hành từ năm 1995, qua nhiều bước
phát triển. Tới 7/2001 đã hoàn tất thị trường điện cạnh tranh phát điện, bán buôn và
bán lẽ
a/ Mô hình thị trường điện NEMS
Hình
1.3:
Mô
hình
thị trường điện NEMS- Singapore
14
b/
Cơ chế vận hành thị trường NEMS
NEMS là thị trường toàn phần (Gross pool), chào giá ngày tới với chu kỳ giao dịch
là nửa giờ. Trong thị trường NEMS, các đơn vị phát điện cạnh tranh chào giá để bán
điện vào thị trường. Các khách hàng tiêu thụ lớn có quyền mua điện từ thị trường
hoặc mua điện từ đơn vị bán lẻ điện thông qua hợp đồng.
Hàng ngày, căn cứ vào bản chào giá điện năng và dịch vụ, dự báo phụ tải của PSO,
EMC có trách nhiệm lập lịch huy động điện năng và dịch vụ điều tần, dự phòng
quay cho cho các tổ máy trong mỗi chu kỳ giao dịch dựa trên phương pháp đồng tối
ưu điện năng và dịch vụ phụ có xét đến các ràng buộc hệ thống điện.
Năm phút trước mỗi chu kỳ giao dịch, EMC có trách nhiệm công bố giá thị trường,
lịch huy động điện năng và dịch vụ phụ làm căn cứ cho đơn vị vận hành hệ thống
PSO điều độ các tổ máy.
c/ Thực tế vận hành và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Các đơn vị khách hàng mua điện lớn có thể mua trực tiếp từ thị trường điện hoặc
thong qua đơn vị bán lẽ
1.3.2.3.Thị trường điện tại Hàn Quốc
Với dân số khoảng 48 triệu người và là nền kinh tế lớn thứ 10 thế giới, ngành điện
lực Hàn Quốc có quy mô tương đối lớn. Tính đến cuối năm 2008, tổng công suất
đặt toàn hệ thống điện của Hàn Quốc khoảng 70.000 MW. Hàn Quốc mô hình thị
trường điện ban đầu được lựa chọn theo mô hình thị trường điện của Vương quốc
Anh, nhưng do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 và một số
nguyên nhân khác, mô hình thị trường phát điện chào giá theo chi phí (Cost Based)
được lựa chọn. Lộ trình tái cơ cấu ngành điện để tiến tới thị trường bán buôn điện
cạnh tranh cũng được xây dựng và được Quốc hội thông qua năm 2000
15
a/ Các đặc trưng cơ bản của thị trường điện Hàn Quốc
Thị trường điện Hàn Quốc có một số nét đặc trưng cơ bản sau đây:
- Toàn bộ sản lượng điện năng được giao dịch trên thị trường giao ngay. Không áp
dụng cơ chế mua bán điện qua hợp đồng PPA.
- Thị trường giao ngay được thiết kế theo mô hình thị trường tập trung, chào giá
theo chi phí biến đổi (CBP). Tất cả các nhà máy điện có công suất đặt lớn 20 MW
phải tham gia thị trường điện.
- Các đơn vị phát điện chỉ chào mức công suất sẵn sàng của mỗi nhà máy điện trong
từng giờ giao dịch của ngày tới. Giá chào được tính bằng mức chi phí biến đổi của
nhà máy điện được Hội đồng thẩm định giá phát điện (GCEC - Generation Cost
Evaluation Committee) phê duyệt.
- Lịch huy động được xây dựng dựa trên công suất chào - chi phí biến đổi của các
nhà máy điện, phụ tải dự báo và các thông số kỹ thuật khác của hệ thống điện.
- Giá thị trường được tính theo phương pháp lập lịch không xét đến các ràng buộc
lưới điện truyền tải và không xét ràng buộc nhiên liệu sơ cấp của các nhà máy điện.
- Áp dụng cơ chế thanh toán công suất cho các nhà máy điện. Giá công suất được
xác định theo chi phí cố định của nhà máy điện chạy biên, và được áp dụng để
thanh toán cho lượng công suất sẵn sàng của các nhà máy điện.
- Áp dụng cơ chế điều tiết doanh thu của các công ty phát điện thuộc KEPCO để
đảm bảo cân bằng tài chính cho KEPCO.
b/ Vận hành thị trường điện
Hàng tháng, Hội đồng thẩm định giá phát điện (GCEC) sẽ dựa trên các số liệu do
các nhà máy nhiệt điện cung cấp (chi phí nhiên liệu, chi phí khởi động, đặc tính kỹ
16
thuật tổ máy…) để xác định, công bố chi phí phát điện biến đổi của nhà máy phát
nhiệt điện trong tháng tới. Chi phí biến đổi của các nhà máy thủy điện (kể cả thủy
điện tích năng) được tính mặc định bằng 0.
Trước 10h00 ngày D-1, các công ty phát điện nộp bản chào để chào lượng công suất
sẵn sàng của từng nhà máy điện trong từng giờ giao dịch của ngày D.
Dựa vào bản chào, chi phí biến đổi của các nhà máy điện, phụ tải hệ thống dự báo,
KPX sẽ lập lịch tính giá thị trường ( SMP) cho từng giờ giao dịch của ngày D. Lịch
tính giá SMP được lập theo nguyên tắc tối thiểu hóa chi phí toàn hệ thống, không
xét đến các ràng buộc lưới truyền tải và ràng buộc về dự phòng hệ thống, cũng như
không xét đến ràng buộc nhiên liệu sơ cấp của các nhà máy điện. Giá thị trường
được tính bằng chi phí biến đổi của tổ máy đắt nhất được xếp lịch. Trước 15h00
ngày D-1, KPX công bố giá thị trường SMP cho từng giờ giao dịch của ngày D.
Sau khi giá thị trường được công bố, các nhà máy thủy điện tích năng có thể sửa đổi
và nộp lại bản chào trước 16h00 ngày D-1.
Trước 18h00 ngày D - 1, KPX lập và công bố lịch huy động ngày tới phục vụ công
tác vận hành hệ thống trong ngày D. Lịch huy động ngày tới được lập, dựa trên các
bản chào, chi phí biến đổi, phụ tải dự báo và có xét đến tất cả ràng buộc kỹ thuật
của nhà máy điện và của lưới điện truyền tải.
Trong ngày D, KPX chịu trách nhiệm vận hành hệ thống điện dựa trên lịch huy
động đã lập, đồng thời đảm bảo cân bằng cung cầu và đảm bảo an ninh hệ thống
trong thời gian thực.
c/ Thực tế vận hành và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Mặc dù hoàn toàn là nhiệt điện, song Hàn Quốc theo một vài khía cạnh là một
ví dụ tốt của một thị trường được phát triển ở mức độ nhẹ hơn Việt Nam, với
một thị trường tương tự như thị trường đã đề xuất
17
1.3.2.4.Thị trường điện tại New Zealand
Quá trình tái cơ cấu bắt đầu bằng đạo luật về các công ty cung cấp năng lượng
(Energy Companies Act) và Luật điện lực (Electricity Act) vào năm 1992. Đầu tiên
là các công ty phân phối điện được phân tách độc lập về tài chính đối với các công
ty sở hữu lưới điện và xóa bỏ sự phân chia phạm vi hoạt động theo vùng địa lý.
a/ Mô hình và cấu trúc thị trường điện
Năm 2003 Thị trường điện New Zealand – NZEM là thị trường chào giá toàn phần
(price based), cạnh tranh trong cả 3 khâu: phát điện, bán buôn và bán lẻ
Để đảm bảo tránh được các rủi ro do giá cả trên thị trường thay đổi quá lớn, thị
trường điện New Zealand cho phép các bên mua và bán điện được mua bán điện
qua các hợp đồng với giá được thỏa thuận trước. Các hợp đồng này đơn thuần chỉ là
các hợp đồng tài chính, không cần phải thỏa thuận cho mức công suất hoặc năng
lượng mua bán sau này.
Việc áp dụng hợp đồng tài chính giúp bên bán điện đảm bảo được doanh thu khi giá
thị trường tụt thấp, khi đó các nhà máy không cần thiết phải ngừng phát điện mà có
thể tiếp tục phát điện để bán theo các hợp đồng với giá điện đã được thỏa thuận
trước.
Đối với bên mua điện là người dùng cuối cùng, việc mua điện qua các hợp đồng sẽ
tránh được các rủi ro khi giá điện trên thị trường tăng quá cao. Tuy vậy, người sử
dụng điện sẽ không được lợi khi giá thị trường thấp.
b/ Nguyên tắc vận hành thị trường
NZEM là thị trường chào giá tự do (price based), các nhà máy điện cạnh tranh với
nhau theo giá các bản chào. Các bản chào được gửi tới SO theo đường internet và
được SO xử lý bằng phần mềm SPD (Scheduling, Pricing and Dispatch Model).
18
Phần mềm sẽ tính toán trên nguyên tắc chi phí phát điện nhỏ nhất tới nơi tiêu thụ
theo mỗi chu kỳ giao dịch của thị trường. Kết quả của phần mềm này là lịch điều độ
cho từng tổ máy, giá điện trên từng nút đấu nối vào lưới truyền tải,và nút bán điện
cho mỗi chu kỳ giao dịch – 1/2 giờ.Tham số cho phần mềm bao gồm giá của các
bản chào,kết quả dự báo phụ tải,nghẽn mạch của lưới truyền tải ,tổn thất đường dây.
c/ Thực tế vận hành và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Những bình luận của chúng tôi đối với cơ chế tính giá nút/vùng phần lớn dựa
trên các vấn đề cạnh tranh ở New Zealand.
1.3.3. Thu hoạch từ những mô hình trên thế giới:
Mỗi
một
khu
vực
trên
thế
giới
sẽ
có
mô
hình
cấu
trúc
ngành
riêng,
phụ
thuộc
vào
thể
chế
kinh
tế
-
chính
trị
-
xã
hội
của
khu
vực
đó.
Mặc
dù
có
sự
khác
nhau
về
cấu
trúc tại
mỗi
khu
vực,
nhưng
đều
có
một
số
yếu
tố
chung
như
sau:
Sự
tái
lập
cơ
cấu
tổ
chức
ngành
điện
dẫn
đến
những
công
ty
có
cơ
cấu
ngành
dọc
được
tổ
chức
lại
thành
3
công
ty
độc
lập
quan
hệ
hàng
ngang
là:
nguồn
phát-
truyền
tải và
phân
phối
gọi
là
việc
tái
lập
cơ
cấu
chức
năng.
Điều
này
bao
hàm
việc
loại
trừ
phần nguồn
phát
ra
khỏi
định
hướng
hoạt
động
của
hệ
truyền
tải
để
sự
cạnh
tranh
được
phát huy
dễ
dàng.
Thứ
hai,
do
cơ
cấu
của
quá
trình
cạnh
tranh
có
thể
quá
đa
dạng
nên chúng
ta
sẽ
tách
sự
cạnh
tranh
nguồn
phát
thành
một
cấp
riêng
để
xem
xét.
Cuối
cùng, yếu
tố
tư
nhân
hóa
thường
xuyên
được
kết
hợp
với
việc
tái
lập
cơ
cấu.
Sự
quan
trọng của
sở
hữu
tư
nhân
làm
cho
quá
trình
tái
lập
cơ
cấu
chức
năng
càng
thêm
phức
tạp
ở những
lĩnh
vực
buộc
phải
có
sự
quản
lý
của
nhà
nước.
Có
khá
nhiều
ràng
buộc
có
thể cản
trở
tiến
trình
này.
Khi
yếu
tố
kỹ
thuật
bị
môi
trường
hay
những
tác
động
kinh
tế
xã hội
bên
ngoài
ràng
buộc,
như
khu
vực
nhà
máy
thủy
điện
hay
hạt
nhân,
thì
cơ
chế
công hữu
vẫn
được
khuyến
khích
do
thị
trường
tư
nhân
không
thể
dễ
dàng
dung
hòa
được tất
cả
các
yếu
tố
đó.
Những
trường
hợp
như
vậy,
luôn
có
một
chướng
ngại
cho
việc
tư nhân
hóa.
Những
ràng
buộc
quan
trọng khác
bao
gồm
tính
khách
quan
của
thị
trường
19
nhiên
liệu
và
khả
năng
của
mạng
truyền tải.
Những
thị
trường
điện
cạnh
tranh
sẽ
được
hưởng
lợi
từ
những
thị
trường
nhiên
liệu cạnh
tranh.
1.3.4. Kết quả thu được từ thị trường điện ở các nước là:
Cạnh
tranh
làm
giảm
giá
bán
ở
khâu
phát
điện.
Các
quyết
định
đầu
tư
được
căn
cứ
trên
lợi
ích
kinh
tế.
Công
nghệ
sản
xuất
và
phân
phối
được
các
nước
phát
triển
chuyển
giao,
cải thiện
được
dịch
vụ
phục
vụ
khách
hàng.
Thị
trường
điện
có
thể
mở
rộng
qua
các
quốc
gia
trong
khu
vực
mà
không
tổn thất
đến
lợi
ích
của
các
thành
viên
tham
gia,
không
phân
biệt
quyền
sở
hữu
nhà
nước hay
tư
nhân.
Hiệu
quả
cung
cấp
điện
gia
tăng.
Gia
tăng
nguồn
vốn
vào
ngành
năng
lượng
điện
mà
Chính
phủ
không
có
được.
- Tóm
lại,
quá
trình
cấu
trúc
lại
ngành
điện
đòi
hỏi
có
thời
gian
và
không
phải
là
dễ dàng
đối
với
tất
cả
các
quốc
gia.
Tuy
nhiên,
lợi
ích
do
cơ
chế
thị
trường
đem
lại
là
rất to
lớn,
điện
sẽ
rẻ
hơn
cho
người
tiêu
dùng,
nhà
nước
không
phải
cấp
nhiều
vốn
đầu
tư mà
vẫn
đảm
bảo
nhu
cầu
năng
lượng
cho
sự
phát
triển
nền
kinh
tế
,
nên
nhiều
quốc
gia vẫn
theo
đuổi
tiến
trình
tái
thiết
này.
1.4. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG ĐIỆN CỦA VIỆT NAM
[19]
1.4.1. Lịch Sử hình thành và phát triển nghành điện Việt Nam
-Ngày 21/12/1954, hơn hai tháng sau ngày tiếp quản Thủ đô, Bác Hồ đã đến thăm
Nhà máy điện Yên Phụ và Nhà máy đèn Bờ Hồ. Từ đó, ngày 21/12 hằng năm được
coi là ngày Truyền thống của ngành Điện lực Việt Nam.
-
Ngày 21/7/1955, Bộ trưởng Bộ Công Thương ra Quyết định số 169-BCT/ND/KB
(Thứ trưởng Đặng Viết Châu ký) thành lập Cục Điện lực trực thuộc Bộ Công
Thương
20
-Tháng 1/1958, tuyến đường dây 35 kV đầu tiên (Hà Nội – Phố Nối) được khởi
công xây dựng và trong quý III cùng năm đã khánh thành.
-Ngày 19/5/1961, Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí với công suất 48 MW được khởi
công xây dựng. Sau đó, Nhà máy được nâng công suất lên 153 MW. Tháng 5/2002,
dự án Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí mở rộng công suất 300 MW (1 tổ máy).
-Quý III/1962, tuyến đường dây 110 kV đầu tiên của miền Bắc (Đông Anh-Việt Trì,
Uông Bí-Hải Phòng) được khởi công xây dựng và đến quý IV/1963 hoàn thành
đóng điện. Thời gian tiếp theo, nhiều nhà máy điện, tuyến đường dây và TBA 110
kV, 35 kV đã ra đời. 9 trong số 12 nhà máy điện đã được nối liền bằng đường dây
110 kV, tạo thành một hệ thống điện hoàn chỉnh của miền Bắc.
-Ngày 19/8/1964, khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác Bà (Yên Bái) công
suất 108 MW, vận hành ngày 5/10/1971 công suất lớn nhất miền Bắc.
-Ngày 7/10/1975, Công ty Điện lực miền Trung (nay là Công ty Điện lực 3) được
thành lập, địa bàn hoạt động tại 13 tỉnh, thành phố miền Trung, Tây Nguyên.
-Ngày 7/8/1976, Bộ trưởng Bộ Điện và Than ra Quyết định số 1592/QĐ-TCCB.3 về
việc đổi tên Tổng cục Điện lực (thành lập ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng) thành Công ty Điện lực miền Nam (Công ty Điện lực 2).
-Tháng 3/1979, tuyến đường dây 220 kV Hà Đông – Hòa Bình được khởi công xây
dựng và đến tháng 5/1981 đưa vào vận hành
-Ngày 6/11/1979 khởi công công trình Thủy điện Hòa Bình. Thời điểm đó, đây là
công trình thủy điện lớn nhất Việt Nam có tổng công suất 1.920 MW.Ngày
20/12/1994, công trình Thủy điện Hòa Bình đã được khánh thành.
21
-Ngày 5/4/1992, đường dây siêu cao áp 500 kV Bắc-Nam (mạch 1) dài 1.487 km
được khởi công xây dựng và ngày 27/5/1994 đã khánh thành, đóng điện vận hành.
Sự kiện này đánh dấu bước trưởng thành mang tính đột phá của Điện lực Việt Nam.
-Ngày 11/4/1994, Bộ trưởng Bộ Năng lượng Thái Phụng Nê ký Quyết định số
180/NL/TCCB-LĐ về việc thành lập Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia
(Ao)
-
Tổng công ty Điện lực Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 562/QĐ-
TTg ngày 10/10/1994 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở sắp xếp lại các đơn vị
thuộc Bộ Năng lượng; tổ chức và hoạt động theo Điều lệ ban hành kèm theo Nghị
định số 14/CP ngày 27/1/1995 của Chính phủ.
-Ngày 22/6/2006, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 147/QĐ-TTg về việc phê
duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Điện lực Việt Nam.Ngày 25/6/2010, Thủ
tướng Chính phủ ban hành quyết định số 975/QĐ-TTg về việc chuyển Công ty mẹ -
Tập đoàn Điện lực Việt Nam thành công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm
chủ sở hữu.
-
Ngày 4/7/2008, Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia (NPT) được thành lập với
mô hình công ty TNHH MTV, do EVN sở hữu 100% vốn, gồm 4 công ty truyền tải
1, 2, 3, 4 và 3 Ban quản lý dự án các công trình điện miền Bắc, Trung, Nam.
-Ngày 25/11/2009, nhà máy ĐHN đầu tiên của Việt Nam đã được Quốc hội khóa
XII kỳ họp thứ 6 thông qua. Theo đó, dự án ĐHN Ninh Thuận bao gồm 2 nhà máy
có tổng công suất 4000 MW
-Tháng 4/2010, 5 Tổng công ty Điện lực đã ra mắt và chính thức đi vào hoạt động.
Đó là: Tổng công ty Điện lực miền Bắc (EVN NPC); Tổng công ty Điện lực miền
Nam (EVN SPC); Tổng công ty Điện lực miền Trung (EVN CPC); Tổng công ty
Điện lực thành phố Hà Nội (EVN HANOI); Tổng công ty Điện lực thành phố Hồ
Chí Minh (EVN HCMC).
22
1.4.2. Sản lượng điện sản xuất
[26]
[32]
Nước
ta,
trong
sự
nghiệp
công
nghiệp
hóa
hiện
đại
hóa,
ngành
điện
trở
thành
một
ngành
mũi
nhọn.
Ý
thức
được
điều
đó
EVN
đã
phấn
đấu
và
đạt
được
những
mục
tiêu phát
triển
nguồn
rất
tốt:
từ
tổng
công
suất
nguồn
4549,7
MW
(năm
1995)
lên
6300 MW
(năm
2000),
8860
MW
(năm
2002),
11340
MW
(năm
2006),
193789 MW (năm 2009) và kế hoạch .
Sản
lượng
điện từ
14,636
tỷ kWh
(1995)
lên
26.575
tỷ
kWh
(2000)
,
51.296
tỷ
kWh
(2006)
, 91.722
tỷ
KWh (năm
2010) và 22.029
MW
(năm 2011)
với
tốc độ
tăng
trưởng
bình
quân
12,7%.
Bình quân khoảng 981 KWh/người/năm.
Bảng
1.1
-
Sản
lượng
điện
2011
[32]
Hiện
nay,
về
cơ
bản
EVN
đã
đáp
ứng
đủ
nhu
cầu
điện
cho
các
ngành
kinh
tế
quốc
dân
và
sinh
hoạt
của
nhân
dân.
Nhưng
trong
tương
lai,
nhu
cầu
về
điện
tăng
lên
rất cao,
như
dự
báo
theo
phương
án
của
các
cơ
sở
dùng
điện
sản
xuất:
52,050
tỷ
kWh (2005),
khoảng
88
đến
93
tỷ
kWh
(2010)
và
năm
2020
đạt
sản
lượng
từ
201
đến
250
tỷ kWh.
Trên
cơ
sở
đó
tổng
công
suất
phát
sẽ
là:
11.340
MW
(2005),
22.029
MW
(năm 2011)
và
26.854
MW
(2020).
Để
đáp
ứng
nhu
cầu
về
điện
của
nền
kinh
tế
quốc
dân,
trong
giai
đoạn
2001-2020,
bình
quân
mỗi
năm
EVN
phải
đầu
tư
2
tỷ
USD.
Tuy
nhiên
vấn
đề
nguồn
vốn
23
đang
gặp nhiều
khó
khăn.
Tương
lai
đến
năm
2010,
do
tốc
độ
phát
triển
của
nhu
cầu
cao
hơn
sản lượng
điện
nên
cần
có
đầu
tư
lớn
cho
việc
phát
triển
nguồn.
Nhằm
làm
nhẹ
bớt
gánh nặng
đối
với
vốn
đầu
tư
cho
Chính
phủ,
có
hai
phương
án
khả
thi
là
mua
điện
từ
nhà máy
công
suất
nhỏ
tư
nhân
hay
từ
nguồn
BOT.
1.5. GIÁ BÁN ĐIỆN
Thủ
tướng
Nguyễn
Tấn
Dũng
đã
ký
Quyết
định
số
276/20006/QĐ-TTg
phê
duyệt
lộ
trình
điều
chỉnh
giá
điện
giai
đoạn
2007-2010. Theo
đó,
từ
ngày
1/1/2007,
giá
bán
lẻ
điện
bình
quân
là
842
đồng
/kWh;
từ
ngày 1/7/2008,
giá
bàn
lẻ
điện
bình
quân
là
890
đồng
/kWh;
theo quyết định 21/2009/QĐ-TTg ngày 12/02/2009 của
Thủ Tường chính phủ quy định từ năm 2010
giá
bán
lẻ
điện
sẽ thực
hiện
trên
cơ
sở
giá
thị
trường.
Theo
quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ số 24/2011/QĐ-TTg ngày
15/04/2011 quyết định về điều chỉnh giá theo cơ chế thị trường.Ta có
biểu
giá
mới thông tư số 17/2012/TT-BCT ngày 29/06/2012 của Bộ Công
Thương
[31]
:+Giá
bán
điện
sinh
hoạt
bình quân là 1.369
đồng/kWh(chưa bao
gồm thuế VAT) ,giá điện bậc thang đầu tiên không
thay
đổi
cho
100
kWh
đầu
tiên
(1.284
đồng/kWh),
các
kWh
tiêu
thụ
tiếp
theo
được
tính
lũy
tiến
theo
bậc
thang.
+
Giá điện cho bậc thang đầu tiên (0 - 50 kWh) chỉ áp dụng cho hộ nghèo và hộ thu
nhập thấp, thường xuyên có mức sử dụng điện không quá 50kWh/tháng và có đăng
ký với bên bán điện. Các hộ nghèo, hộ thu nhập thấp để được mua điện theo giá của
bậc thang đầu tiên đăng ký theo hướng dẫn của bên bán điện
993
đồng
/kWh
.
+Biểu giá từ bậc thang thứ hai trở đi được áp dụng cho các hộ thông thường và cho
các hộ nghèo, hộ thu nhập thấp có đăng ký cho sản lượng điện sử dụng từ kWh thứ
51 trở lên.
+Giá bán lẻ điện cho mục đích sinh hoạt cho các đối tượng mua điện tạm thời và
mua điện ngắn hạn theo hình thức sử dụng thẻ trả trước là: 1.807 đồng/kWh (giá
chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng VAT).
24
+Giá bán điện được quy định theo thời gian sử dụng điện trong ngày (sau đây gọi là
hình thức ba giá), như sau:
1.5.1. Giờ bình thường
a) Gồm các ngày từ thứ Hai đến thứ Bảy
- Từ 04 giờ 00 đến 9 giờ 30 (05 giờ và 30 phút);Từ 11 giờ 30 đến 17 giờ 00 (05 giờ
và 30 phút);Từ 20 giờ 00 đến 22 giờ 00 (02 giờ).
b) Ngày Chủ nhật
Từ 04 giờ 00 đến 22 giờ 00 (18 giờ).
1.5.2. Giờ cao điểm
a) Gồm các ngày từ thứ Hai đến thứ Bảy
- Từ 09 giờ 30 đến 11 giờ 30 (02 giờ);Từ 17 giờ 00 đến 20 giờ 00 (03 giờ).
b) Ngày Chủ nhật: không có giờ cao điểm.
1.5.3. Giờ thấp điểm
Tất cả các ngày trong tuần: từ 22 giờ 00 đến 04 giờ 00 sáng ngày hôm sau (06 giờ).
1.5.4. Biểu giá điện
Bảng
1.2
-
Biểu
giá
bán lẻ
điện
áp
dụng
từ
01
tháng
07
năm
20012
[31]
Giá bán lẻ điện cho các ngành sản xuất như sau:
STT Đối tượng áp dụng giá Giá bán điện (đồng/kWh)
1 Cấp điện áp từ 110 kV trở lên
a) Giờ bình thường
1.158
b) Giờ thấp điểm 718
c) Giờ cao điểm
2.074
2 Cấp điện áp từ 22 kV đến dưới 110 kV
a) Giờ bình thường 1.184
b) Giờ thấp điểm
746
c) Giờ cao điểm 2.156
3 Cấp điện áp từ 6 kV đến dưới 22 kV
25
STT Đối tượng áp dụng giá Giá bán điện (đồng/kWh)
a) Giờ bình thường
1.225
b) Giờ thấp điểm
773
c) Giờ cao điểm
2.224
4 Cấp điện áp dưới 6 kV
a) Giờ bình thường 1.278
b) Giờ thấp điểm
814
c) Giờ cao điểm 2.306
Khách hàng mua điện tại cấp điện áp 20kV được tính theo giá tại cấp điện áp
từ 22kV đến dưới 110kV.
Giá bán lẻ điện cho bơm nước tưới tiêu như sau:
STT Cấp điện áp Giá bán điện (đồng/kWh)
1 Từ 6 kV trở lên
a) Giờ bình thường
1.088
b) Giờ thấp điểm 568
c) Giờ cao điểm
1.581
2 Dưới 6 kV
a) Giờ bình thường 1.142
b) Giờ thấp điểm
595
c) Giờ cao điểm 1.635
Giá bán lẻ điện cho các đối tượng hành chính, sự nghiệp như sau:
STT Đối tượng áp dụng giá
Giá bán điện
(đồng/kWh)
1 Bệnh viện, nhà trẻ, mẫu giáo, trường phổ thông
a) Cấp điện áp từ 6 kV trở lên 1.252
b) Cấp điện áp dưới 6 kV 1.334
2 Chiếu sáng công cộng
a) Cấp điện áp từ 6 kV trở lên 1.362
b) Cấp điện áp dưới 6 kV 1.443
3 Đơn vị hành chính, sự nghiệp
a) Cấp điện áp từ 6 kV trở lên 1.389
b) Cấp điện áp dưới 6 kV 1.444
Giá bán lẻ điện cho kinh doanh như sau: