Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Giải pháp huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ vùng nông thôn trung du và miền núi phía Bắc giai đoạn 2010 – 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.05 KB, 107 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khu vực nông thôn vẫn đang từng ngày, từng giờ đóng góp vào sự
nghiệp phát triển chung của đất nước. Bởi vậy, lời nhận định “Nông nghiệp
và nông thôn đã, đang và một thời gian dài nữa vẫn là một khu vực kinh tế
trọng yếu” là hoàn toàn đúng đắn. Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã
có những chính sách ưu tiên nhằm đổi mới toàn diện bộ mặt nông thôn, đặc
biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo để nhanh chóng vươn tới mục
tiêu “CNH – HĐH nông thôn” của cả nước. Muốn thực hiện mục tiêu trên
trước hết phải phát triển CSHT GTNT mà cụ thể là CSHT GTĐB. Bởi lẽ,
GTĐB là một trong những mắt xích thiết yếu góp phần thúc đẩy mạnh phát
triển sản xuất, trao đổi hàng hóa đảm bảo phát triển kinh tế và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho người dân ở nông thôn. Do vậy, CSHT GTĐB
phải đi trước một bước tạo tiền đề cho các lĩnh vực khác trong vùng nông
thôn phát triển.
Trong bối cảnh hiện nay, vùng nông thôn TD-MNPB còn trong tình
trạng yếu kém toàn diện như: KT-XH nghèo nàn, lạc hậu, đời sống vật chất
tinh thần ngày càng thua xa các vùng lãnh thổ khác trong cả nước, tỷ lệ đói
nghèo cao nhất nước thì việc phát triển GTĐB càng quan trọng. Phát triển
CSHT GTĐB vùng nông thôn TD-MNPB trong điều kiện đất rộng, người
thưa, dân nghèo, địa hình hiểm trở lại bị chia cắt phức tạp là một công cuộc
hết sức khó khăn đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn. Tuy nhiên, trong
thời gian qua, công tác huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển CSHT
GTĐB vùng nông thôn TD-MNPB còn có những vấn đề bất cập như: mức
vốn đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, chưa có chiến lược huy
động vốn đầu tư một cách cụ thể và bền vững, phân bổ vốn đầu tư còn dàn
trải, sử dụng vốn còn thất thoát làm giảm hiệu quả vốn đầu tư. Đặc biệt, cơ
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


cấu vốn đầu tư cho xây dựng và bảo dưỡng hệ thống GTĐB chưa hợp lý.
Phần lớn vốn đầu tư tập trung cho công tác xây dựng, chưa có sự chú ý đến
việc duy tu, bảo dưỡng làm cho chất lượng của các công trình GTĐB ở vùng
nông thôn TD-MNPB ngày càng xuống cấp, chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại
và giao lưu kinh tế, văn hóa của người dân.
Để giải quyết những vướng mắc còn tồn tại trong quá trình đầu tư phát
triển CSHT GTĐB nhằm nâng cao đời sống của người nông thôn vùng TD-
MNPB và rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa miền núi và
đồng bằng cần có những giải pháp đồng bộ trong đó việc huy động và sử
dụng vốn đầu tư là một trong những vấn đề cực kỳ nan giải có tính cấp bách.
Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề này, em đã chọn đề tài: “Giải pháp
huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông
đường bộ vùng nông thôn trung du và miền núi phía Bắc giai đoạn 2010
– 2020” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu bản chất, đặc điểm của CSHT GTĐB
tác động đến quá trình phát triển KT-XH của vùng nông thôn TD-MNPB
đồng thời phân tích, đánh giá tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư cho
CSHT GTĐB tại vùng nông thôn TD-MNPB trong giai đoạn 2000 – 2008. Từ
đó rút ra những thành công, những hạn chế và nguyên nhân của nó kết hợp
với những kinh nghiệm có chọn lọc của các nước trong khu vực để có những
giải pháp sát thực hơn cho việc huy động và sử dụng vốn đầu tư cho CSHT
GTĐB của vùng trong giai đoạn tới (2010 – 2020).
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu của đề tài: các vấn đề lý luận và thực tiễn về
huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển CSHT GTĐB vùng nông thôn TD-
MNPB.
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368

• Phạm vi nghiên cứu của đề tài: đề cập đến việc huy động và sử dụng
vốn đầu tư cho phát triển CSHT GTĐB (bao gồm đường huyện, đường xã,
đường thôn bản…) vùng nông thôn TD-MNPB trong giai đoạn 2000 – 2008.
Các kiến nghị và giải pháp đề xuất được nghiên cứu áp dụng cho giai đoạn
2010 – 2020.
• Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng phương pháp thống kê,
phương pháp phân tích theo mô hình toán, phương pháp đánh giá và phương
pháp tổng hợp.
4. Kết cấu của luận văn
Nội dung của đề tài được kết cấu làm 3 chương:
Chương I - Sự cần thiết phải đầu tư phát triển CSHT GTĐB vùng nông
thôn TD-MNPB.
Chương II – CSHT GTĐB vùng nông thôn TD-MNPB - thực trạng huy
động và sử dụng vốn đầu tư.
Chương III – Phương hướng chung và giải pháp chủ yếu để huy động
và sử dụng vốn đầu tư phát triển CSHT GTĐB vùng nông thôn TD-MNPB.
Do còn nhiều hạn chế về trình độ và thời gian nên luận văn tốt nghiệp
của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ
bảo của các thầy cô giáo để luận văn tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
Trong quá trình hoàn thành đề tài này em đã nhận được sự chỉ bảo hết sức chu
đáo, tận tình của cô giáo GS.TS.VŨ THỊ NGỌC PHÙNG và TS.BÙI ĐỨC
CHÍNH – trưởng phòng Kế hoạch – Viện Khoa học và Công nghệ GTVT –
Bộ GTVT.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CSHT GTĐB VÙNG
NÔNG THÔN TD-MNPB

1. Lý luận chung về CSHT GTĐB vùng nông thôn
1.1. Khái niệm CSHT GTĐB vùng nông thôn
Hệ thống CSHT GTVT được chia thành hai bộ phận: hệ thống CSHT
giao thông đô thị và hệ thống CSHT GTNT. Trong đó, CSHT GTNT lại bao
gồm CSHT GTĐB và CSHT giao thông đường thủy. Như vậy, CSHT GTĐB
vùng nông thôn là một bộ phận trong CSHT GTVT nói chung và CSHT
GTNT nói riêng. Có rất nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau về khái niệm
“CSHT GTĐB vùng nông thôn”. Nhưng xét về mặt nội dung và phạm vi thì
chúng đều có những mặt tương đồng ở mức độ nhất định. Một số chuyên gia
kinh tế thuộc Viện chiến lược và phát triển GTVT đã cho rằng: “GTĐB vùng
nông thôn là sự dịch chuyển của người và hàng hóa trong phạm vi huyện, xã,
thôn xóm”. Nó bao gồm ba thành phần chính: mạng lưới GTĐB, phương tiện
vận tải và người tham gia giao thông, cụ thể là:
• Mạng lưới GTĐB nông thôn bao gồm đường huyện, đường xã,
đường thôn xóm, đường ra đồng ruộng, các công trình cầu cống, bến phà trên
hệ thống GTĐB.
• Phương tiện vận tải gồm các loại phương tiện của người dân ở địa
phương sở hữu như xe máy, xe thồ, xe đạp, xe xúc vật kéo… Ngoài ra, còn có
các phương tiện tham gia dịch vụ vận tải quy mô nhỏ hoạt động trên các
tuyến đường nông thôn.
• Người tham gia giao thông chủ yếu là những người nông dân. Bên
cạnh đó, còn có các chủ phương tiện tham gia vận chuyển trên mạng lưới
đường bộ.
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, CSHT GTĐB vùng nông thôn là mạng lưới giao thông địa
phương, nội vùng, đường vào các khu sản xuất nông nghiệp, nằm ngoài khu
vực đô thị, ngoài các hành lang giao thông quan trọng, được thiết kế theo tiêu
chuẩn lưu lượng nhỏ, tiêu chuẩn thiết kế đường nông thôn Việt Nam. Các

tuyến đường GTĐB được kết nối với các trục đường quốc lộ, tỉnh lộ, trung
tâm hành chính huyện, xã… nối liền giữa vùng này tới vùng khác tạo thành
hệ thống giao thông liên hoàn trong cả nước.
1.2. Phân loại GTĐB vùng nông thôn
Theo quy định hiện hành của Bộ GTVT, GTĐB vùng nông thôn được
phân ra thành các loại như sau:
• Hệ thống đường huyện là các đường nối từ trung tâm hành chính của
huyện với trung tâm hành chính của xã, cụm xã hoặc trung tâm hành chính
của huyện lân cận, đường nối đường tỉnh với trung tâm hành chính của xã
hoặc trung tâm cụm xã.
• Hệ thống đường xã là các đường nối trung tâm hành chính của xã với
các thôn, xóm hoặc đường nối giữa các xã.
• Ngoài ra, hệ thống GTĐB vùng nông thôn còn có đường thôn xóm,
đường ra đồng ruộng, khu trồng cây công nghiệp, khu chế xuất… Tuy nhiên,
những loại đường này hiện nay chưa được phân cấp quản lý.
1.3. Đặc điểm của CSHT GTĐB vùng nông thôn
CSHT GTĐB vùng nông thôn mang đầy đủ những đặc điểm của CSHT
GTNT bao gồm:
• Tính hệ thống, đồng bộ
Mức độ và phạm vi ảnh hưởng của các bộ phận trong CSHT GTĐB tới
sự phát triển KT-XH của toàn bộ khu vực nông thôn là khác nhau. Tuy nhiên,
chúng lại có một mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với nhau trong quá trình hoạt
động, khai thác và sử dụng. Do vậy, quy hoạch tổng thể phát triển CSHT
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
GTĐB vùng nông thôn phải phối hợp với các bộ phận khác trong một hệ
thống đồng bộ. Khi đó, trong quá trình vận hành, sử dụng sẽ giảm được tối đa
chi phí và tăng tối đa công dụng của các công trình GTĐB.
• Tính định hướng

Tại sao CSHT GTĐB vùng nông thôn lại có tính định hướng? Phải
chăng bởi vì “Vốn đầu tư cao, thời gian sử dụng lâu dài, khả năng thu hồi vốn
rất thấp là nguyên nhân khiến việc đầu tư phát triển CSHT GTĐB vùng nông
thôn chủ yếu thuộc về nhà nước. Ngoài ra, hệ thống GTĐB phát triển còn tạo
điều kiện thuận lợi cho các hoạt động KT-XH, nâng cao đời sống vật chất của
người dân, mở rộng giao lưu kinh tế - văn hóa giữa các vùng miền trong cả
nước, nhất là xóa bỏ khoảng cách giữa thành thị và nông thôn”.
Vì vậy, CSHT GTĐB phải được hình thành và phát triển trước một
bước tạo tiền đề cho các hoạt động KT-XH khác. Sự phát triển của CSHT
GTĐB vùng nông thôn về quy mô, chất lượng còn thể hiện rất rõ định hướng
phát triển KT-XH của từng vùng, từng miền, từng địa phương. Điều cơ bản
khi tiến hành đầu tư phát triển CSHT GTĐB vùng nông thôn là phải thực hiện
tốt chiến lược ưu tiên, tập trung xây dựng các công trình, hạng mục cần thiết
trước nhằm nâng cao tính tiên phong định hướng và giảm nhẹ nhu cầu huy
động vốn đầu tư.
• Tính địa phương, tính vùng và khu vực
Xây dựng và phát triển CSHT GTĐB vùng nông thôn mang tính vùng
và địa phương rõ nét. Điều này thể hiện trong quá trình tạo lập, xây dựng
cũng như tổ chức, quản lý và sử dụng chúng. Do địa bàn nông thôn rộng, dân
cư phân bố không đều và điều kiện sản xuất nông nghiệp đa dạng, phức tạp lại
có sự khác biệt giữa các địa phương, các khu vực khác nhau. Xây dựng CSHT
GTĐB phụ thuộc vào nhiều yếu tố như địa lý, địa hình, trình độ phát triển…
Vì thế, trong việc phân bố hệ thống GTĐB, thiết bị, đầu tư và sử dụng nguyên
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vật liệu phải đặt trong hệ thống chung của quốc gia đồng thời phù hợp với đặc
điểm, điều kiện từng địa phương, từng vùng lãnh thổ.
• Tính xã hội và tính công cộng cao
Đặc trưng cơ bản này của các công trình giao thông ở nông thôn thể

hiện trong xây dựng và sử dụng chúng.
 Trong sử dụng, hầu hết các công trình giao thông đều được sử dụng
nhằm phục vụ việc đi lại, buôn bán, giao lưu của người dân với các cơ sở kinh
tế, dịch vụ. Do vậy, các công trình này thường là những công trình công cộng,
phục vụ cho đại đa số người dân, không loại trừ bất kỳ ai.
 Nguồn vốn xây dựng các loại công trình được huy động từ rất nhiều
thành phần trong nền kinh tế trong đó sự đóng góp “sức người, sức của” của
nhân dân là vô cùng quan trọng. Bởi vậy, người dân có quyền tham gia giám
sát từ khâu xây dựng, quản lý, vận hành và bảo dưỡng các hệ thống đường
nông thôn.
Để việc xây dựng, quản lý và sử dụng các tuyến đường nông thôn có
kết quả tốt cần lưu ý:
- Đảm bảo hài hòa giữa nghĩa vụ trong xây dựng và quyền lợi trong sử
dụng đối với các tuyền đường cụ thể. Nguyên tắc cơ bản là gắn quyền lợi và
nghĩa vụ.
- Thực hiện tốt việc phân cấp trong xây dựng và quản lý sử dụng công
trình cho từng cấp chính quyền, từng đối tượng cụ thể để khuyến khích việc
phát triển và sử dụng có hiệu quả CSHT.
Mặt khác, hệ thống CSHT GTĐB vùng nông thôn nước ta còn có một
số đặc điểm riêng như sau:
• Mạng lưới đường bộ nông thôn đa dạng, kết cấu mặt đường phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên của từng vùng, từng miền, của
từng địa phương.
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
• Các công trình đường bộ nông thôn thường được xây dựng với
những tiêu chuẩn thiết kế, độ bền sử dụng và tuổi thọ thấp hơn so với các
công trình đường thuộc hệ thống đường tỉnh và quốc lộ. Cụ thể, theo TCVN –
4054/85, đường bộ nông thôn có thể có cấp V, cấp VI; loại A (loại đường chủ

yếu phục vụ cho các phương tiện giao thông cơ giới, loại trung), loại B (loại
đường phục vụ cho các phương tiện giao thông thô sơ như xe súc vật kéo
hoặc xe cơ giới loại nhẹ); hoặc theo quy định tạm thời của Bộ GTVT có 2 loại
tương ứng với đường bộ nông thôn là AH (đối với địa hình đồng bằng), AH
MN
(đối với địa hình miền núi).
Bảng 1.1 – Phân loại đường bộ nông thôn theo tính chất phục vụ
Tính chất phục vụ của tuyến đường Quy định loại đường áp dụng
Đường từ huyện đến trung tâm xã Loại AH, AH
MN
, loại V
Đường liên xã Loại AH, AH
MN
, loại V, VI, loại A
Đường từ xã xuống thôn, liên thôn Loại A, hoặc B
Đường ra đồng Loại B
Nguồn: Bộ GTVT
• Đa số là những tuyến đường chịu tải trọng khai thác không cao,
dưới 10 tấn, chất lượng đường còn kém (cả về nền và hệ thống cống rãng
thoát nước), chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của các chủng loại
phương tiện vận tải có tải trọng lớn và nhu cầu đi lại ngày càng cao của người
dân.
• Hầu hết là những tuyến đường do huyện, xã, thôn quản lý, có lưu
lượng giao thông tương đối thấp.
Mặt đường chủ yếu là cấp thấp, thường gặp là mặt đường đất, cấp
phối, đá dăm và cũng có thể là mặt đường thấm nhập nhựa, láng nhựa, láng
nhũ tương hoặc bê-tông xi-măng mác thấp và còn một tỷ lệ đường đất lớn.
Biểu đồ 1.2 - Tỷ lệ trải mặt đường bộ nông thôn
(Đường huyện và đường xã)
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A

8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đơn vị: %
Nguồn: Bộ GTVT
2. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển CSHT GTĐB vùng nông thôn TD-
MNPB
2.1. Đặc điểm tự nhiên, KT-XH ở vùng TD-MNPB
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Vùng TD-MNPB là một vùng lãnh thổ có diện tích rộng lớn, một địa
bàn chiến lược có vai trò quan trọng về KT-XH, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại của cả nước. Với diện tích đất đai tự nhiên năm 2007 là 101.559 km
2
,
diện tích đất sử dụng là 49.763,91 km
2
. Trong đó, đất nông nghiệp là
15.233,85 km
2
, đất lâm nghiệp là 25.389,75 km
2
, còn lại là đất chuyên dùng
và đất ở. Vùng TD-MNPB bao gồm 15 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai,
Bắc Kạn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng
Ninh, Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên. Phía Bắc giáp Trung Quốc –
nơi có các cửa khẩu quốc tế giao lưu trao đổi hàng hóa lớn nhất ở nước ta,
phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Lào, Thanh Hóa, phía Nam nằm
liền kề vùng Đồng Bằng Sông Hồng – trung tâm văn hóa, chính trị ở Miền
Bắc.
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
9

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Với 3/4 diện tích là đồi núi, vùng TD-MNPB nằm trên khu vực có địa
hình núi cao dốc dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Phía Tây có dãy Hoàng
Liên Sơn, phía Đông lại có những dãy núi cao chạy theo hình cánh cung.
Đồng thời có nhiều con sông, suối bắt nguồn từ núi cao đổ xuống phía đồng
bằng làm cho địa hình của vùng bị chia cắt phức tạp. Đất đai, thổ nhưỡng
trong vùng được chia ra thành các khu vực khác nhau. Khu vực phía Tây bao
gồm Yên Bái, Sơn La, Lào Cai, Điện Biên, phía Tây tỉnh Hà Giang là vùng
núi cao nhưng chủ yếu là núi đất và xen kẽ ít núi đá. Vùng này do cấu tạo địa
chất kém, đất đá bị phong hóa nên thường hay bị sụt lở trong mùa mưa bão
làm tắc nghẽn giao thông. Khu vực phía Bắc và Đông Bắc bao gồm phía
Đông Hà Giang và các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Tuyên Quang,
Bắc Kạn chủ yếu là núi đá xen kẽ những núi đất. Với điều kiện địa hình như
vậy, rất khó khăn trong việc mở rộng các tuyến đường mới ở vùng này.
Đặc điểm cơ bản của vùng TD-MNPB là vùng có những trung tâm mưa
nhiều nhất nhì cả nước như Tuyên Quang, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, lượng
mưa trung bình của khu vực này là từ 1.400 – 2.500 mm. Mưa chủ yếu tập
trung vào khoảng tháng 5 – tháng 9 hàng năm. Khí hậu của vùng nói chung là
tương đối thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông – lâm nghiệp và phát
triển giao thông phục vụ sản xuất và đời sống.
Bên cạnh đó, đây còn là vùng giàu các loại tài nguyên khoáng sản như
than, quặng sắt, quặng bô-xít, vàng … là thế mạnh lớn, là cơ sở rất quan trọng
để phát triển ngành công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản góp phần
vào sự khởi động và triển khai công cuộc CNH – HĐH của vùng và cả nước.
2.1.2. Đặc điểm KT-XH
 Về mặt xã hội:
• Dân số: Tính đến năm 2007, dân số toàn vùng là 12.065,4 nghìn
người, chiếm tỷ lệ 14,33% so với cả nước (84.155,8 nghìn người). Mật độ dân
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
10

Website: Email : Tel : 0918.775.368
số bình quân cả vùng là 108,5 người/km
2
. Trong đó, cơ cấu dân số giữa nam
và nữ bình quân năm 2007 tương đối cân bằng là 52% nam và 48% nữ. Về cơ
cấu dân số giữa thành thị và nông thôn (2007) là 17,83 % và 82,17% tương
ứng với 2.151 nghìn người và 9.914,4 nghìn người. Chứng tỏ rằng người dân
trong vùng TD-MNPB chủ yếu sống ở nông thôn. So với bình quân cả nước,
tỷ lệ dân số ở thành thị của vùng thấp hơn và tỷ lệ dân sống ở vùng nông thôn
cao hơn.
Lao động: cho đến hết năm 2007, số người trong độ tuổi lao động của
vùng khoảng trên 6.635,97 nghìn người. Số lao động làm việc trong khu vực
Nhà nước khoảng trên 1.729,95 nghìn người, số làm việc trong công nghiệp –
xây dựng là 3.124,22 nghìn người, số lao động trong khu vực dịch vụ khoảng
915,32 nghìn người. Ngoài ra, số lao động còn lại làm việc cho các thành
phần kinh tế khác. Thực tế, những năm vừa qua cho thấy, các tỉnh trong vùng
đã giải quyết được việc làm cho người dân làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở các
khu vực thành thị. Mặt khác, do thu hút lao động trong các ngành Nông –
Lâm – Ngư nghiệp bằng cách phổ biến kỹ thuật và công nghệ tạo cơ sở cho tỷ
lệ lao động ở nông thôn tăng lên. Tuy nhiên, tại các vùng nông thôn cũng như
vùng núi việc làm của người dân vẫn trong tình trạng bấp bênh, tỷ lệ thất
nghiệp vẫn ở mức cao.
Bảng 1.3 – Tỷ lệ thời gian lao động và tỷ lệ thất nghiệp
ở vùng nông thôn TD-MNPB
Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Tỷ lệ thời gian lao động được sử
dụng ở khu vực nông thôn (%)
59,63 62,45 68,92
Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng
lao động trong độ tuổi lao động ở

khu vực nông thôn (%)
15,94 14,56 13,45

Nguồn: Tổng cục Thống Kê
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
 Về mặt kinh tế:
Giai đoạn 2004 – 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của toàn
vùng đạt 7,43%, thấp hơn mức trung bình cả nước và so với các vùng khác thì
con số này vẫn ở mức độ khiêm tốn. Kinh tế dựa vào nông nghiệp là chủ yếu,
năng suất lao động thấp. GDP bình quân đầu người của vùng năm 2007 chỉ
đạt 200 USD/người/năm, trong đó khu vực nông thôn chỉ đạt 130 USD/người.
Tỉnh có GDP bình quân đầu người thấp nhất trong vùng là Hà Giang 175,6
USD/người, Bắc Kạn 195,4 USD/người; tỉnh có GDP bình quân đầu người
cao nhất là Quảng Ninh 629,9 USD/người, Lạng Sơn 329,8USD/người. Trong
đó, thu nhập chủ yếu dựa vào nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 41,9%, thu
nhập phi nông nghiệp chiếm 16%, thu nhập từ tiền lương, tiền công chiếm
26,4% và thu nhập khác chiếm tỷ lệ 15,8%.
Vùng TD-MNPB đặc biệt là ở khu vực nông thôn TD-MNPB có tỷ lệ
đói nghèo cao nhất cả nước 38% năm 2007, trong đó 14,1% là hộ đói nghèo
lương thực, thực phẩm. Thêm vào đó, số lượng học sinh đến lớp đúng độ tuổi
chiếm tỷ lệ thấp chỉ có 14%/ tổng số trẻ em đến tuổi nhập học. Số lượng giáo
viên Đại học và Cao đẳng chiếm chỉ 5,5%, giáo viên trung học chuyên nghiệp
chiếm 12% so với cả nước. Học sinh Đại học và Cao đẳng chiếm chỉ có 4,2%.
Chứng tỏ rằng nguồn nhân lực được qua đào tạo làm động lực cho phát triển
KT-XH của các tỉnh cũng như toàn vùng còn rất nhiều hạn chế.
• Đánh giá tình hình KT-XH của vùng TD-MNPB
Những năm vừa qua, nền kinh tế của vùng TD-MNPB đặc biệt là khu
vực nông thôn TD-MNPB đã có những bước phát triển khá toàn diện mặc dù

vẫn ở mức thấp thời kỳ 2004 – 2008 đạt 7,43%. Cơ cấu ngành nông nghiệp
vẫn ở mức cao nhưng bắt đầu có sự chuyển dịch theo hướng tích cực và đúng
hướng. Xuất khẩu tăng nhanh, từng bước ổn định được đời sống người dân
trong vùng. Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng đáng kể. Thành công lớn
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhất của vùng là sản xuất đã đáp ứng đủ lương thực tại chỗ, đã chấm dứt được
nạn đói giáp hạt hàng năm trước đây. Đã hình thành một số vùng cây công
nghiệp tập trung gắn với công nghiệp chế biến (mía đường, chè, nguyên liệu
giấy…) và vùng trồng cây ăn quả. Lâm nghiệp đang chuyển đổi theo hướng
xã hội hóa, đã giao đất khoán cho các hộ gia đình quản lý và sử dụng. Sản
xuất công nghiệp tăng bình quân 14,74%/năm. Công nghiệp quốc doanh TW
tập trung vào các ngành chủ đạo như khai thác và chế biến khoáng sản, luyện
cán thép, thuỷ điện và vật liệu xây dựng. Đã dần dần hình thành ở một số tỉnh
các khu công nghiệp, chế xuất như ở Quảng Ninh, Phú Thọ, Thái Nguyên,
Hòa Bình nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp trong vùng và tạo công ăn
việc làm cho người lao động. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và dịch
vụ xã hội trên địa bàn tăng 20 – 30% năm. Hệ thống chợ đã được đầu tư nâng
cấp và xây dựng mới ở các đô thị và nông thôn và đã phát huy được vai trò
lưu thông hàng hoá đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho nhân dân, nhất là
đồng bào các dân tộc vùng cao.
Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, vùng TD-MNPB đã đạt được
những kết quả xuất sắc trong xóa đói giảm nghèo (tỷ lệ nghèo chung giai
đoạn 2000 – 2005 là 41,2% nhưng trong giai đoạn 2006 – 2008 đã giảm
xuống còn 37,56%). Qua đó đã thực hiện tốt chủ trương của Chính phủ ưu
tiên phát triển nông nghiệp và nông thôn, vùng sâu vùng xa, góp phần quan
trọng vào việc xóa đói giảm nghèo tăng thu nhập, cải thiện đời sống của nông
thôn.
• Khó khăn và hạn chế

Ngoài những thành tựu đã đạt được trong những năm qua, vùng TD-
MNPB nói chung và khu vực nông thôn TD-MNPB nói riêng có những hạn
chế sau:
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trước hết, nền kinh tế còn ở điểm xuất phát rất thấp, vẫn là nền kinh tế
chậm phát triển và nghèo nhất so với cả nước. Nhiều chỉ tiêu tổng hợp của
vùng còn thấp hơn mức trung bình cả nước. Cơ cấu kinh tế nặng về nông lâm
nghiệp và chuyển dịch chậm. Tác động của công nghiệp còn kém, tỷ lệ nông
lâm sản đưa vào chế biến mới được khoảng 3%. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp
của vùng đến nay vẫn chiếm tới trên 40,9%, công nghiệp và xây dựng
31,99%, dịch vụ 27,11%.
Thứ hai, sản phẩm hàng hóa trong vùng còn ít về chủng loại, khối
lượng nhỏ, chất lượng không cao và khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm
còn thấp. Trình độ canh tác trong sản xuất nông nghiệp ở nhiều nơi còn thô
sơ, phụ thuộc lớn vào điều kiện tự nhiên, năng suất của nhiều loại cây trồng
thấp. Công nghiệp chủ yếu là công nghiệp khai khoáng, chế biến nông – lâm
sản. Trình độ trang thiết bị kỹ thuật thấp, sản phẩm công nghiệp mới rất ít.
Thứ ba, các dịch vụ nhất là dịch vụ ở khu vực nông thôn chưa phát triển
và hiệu quả còn thấp. Thương nghiệp còn nhỏ, hoạt động trên phạm vi chưa
rộng, giao lưu liên vùng, liên tỉnh còn ít. Đặc biệt, chưa phát triển dịch vụ
chuyển giao công nghệ gây ra những bất cập so với nhu cầu ngày càng cao
của sản xuất và đời sống.
Thứ tư, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm nhiều nhưng vẫn cao hơn mức trung
bình cả nước. Dẫn đến, công tác xóa đói giảm nghèo đặc biệt ở khu vực nông
thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa sẽ vẫn tiếp tục là vấn đề nổi cộm trong thời
gian tới.
Thứ năm, chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị trong
từng địa phương và giữa các tỉnh trong vùng ở mức cao. Điều này được thể

hiện một phần thông qua khả năng tiếp cận với các dich vụ công như y tế,
giáo dục, văn hóa, thể thao… của người dân ở vùng nông thôn TD-MNPB
còn rất thấp.
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.2. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển CSHT GTĐB vùng nông thôn TD-
MNPB
Để có thể đưa ra những lập luận thích đáng và sát thực về sự cần thiết
phải đầu tư phát triển CSHT GTĐB vùng nông thôn TD-MNPB, chúng ta hãy
cùng phân tích vai trò của hạ tầng GTĐB tới quá trình phát triển KT-XH cũng
như công cuộc xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn.
2.2.1. Vai trò của CSHT GTĐB đối với phát triển KT-XH ở vùng nông
thôn
Hệ thống CSHT GTĐB vùng nông thôn được kết nối với các trục
đường quốc lộ, đường tỉnh, trung tâm hành chính huyện, xã … tạo thành hệ
thống giao thông liên hoàn được xem như là một đầu vào cơ bản để kích thích
phát triển kinh tế nông thôn, tạo công ăn việc làm và cung ứng tốt hơn công
tác giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Nó tạo ra sự tiếp cận tới các dịch vụ như
tín dụng, công nghệ, truyền thông và thông tin dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn
với chi phí thấp hơn. Vậy, vai trò của CSHT GTĐB đối với vùng nông thôn
được xem xét duới 2 góc độ phát triển kinh tế và phát triển xã hội là như thế
nào?
 Đối với phát triển kinh tế nông thôn
Vai trò cụ thể của CSHT GTĐB trong công cuộc phát triển kinh tế
nông thôn được nhìn nhận trên các nội dung sau:
Thứ nhất, CSHT GTĐB tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thị
trường nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa phát
triển. Thật vậy, đường bộ nông thôn phát triển tạo điều kiện cho việc vận
chuyển máy móc, thiết bị, vật tư kỹ thuật, phân bón về nông thôn để phục vụ

sản xuất nông nghiệp và thực hiện cơ giới hóa trong sản xuất nhằm giảm nhẹ
lao động chân tay một cách dễ dàng hơn, tạo ra những mùa vụ bội thu. Thêm
vào đó, hệ thống đường xá đi lại thuận tiện, người nông dân có điều kiện tiếp
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
xúc và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đẩy nhanh quá
trình tái sản xuất kịp thời vụ. Mặt khác, khi có đường giao thông tốt, các lái
buôn mang ô tô đến mua nông sản ngay tại cánh đồng hay trang trại lúc mùa
vụ. Điều này làm cho nông dân yên tâm về khâu tiêu thụ, giảm được chi phí
đi lại cũng như nông sản đảm bảo được chất lượng từ nơi thu hoạch đến nơi
chế biến.
Sự phát triển của CSHT GTĐB tạo điều kiện thuận lợi cho thương
nghiệp phát triển, làm tăng đáng kể khối lượng hàng hóa và khả năng trao đổi
giữa vùng nông thôn với thành thị. Điều đó cho thấy những tác động có tính
lan tỏa của CSHT GTĐB đóng vai trò tích cực. CSHT GTĐB vùng nông thôn
không chỉ thể hiện vai trò cầu nối giữa các giai đoạn và nền tảng cho sản xuất
mà còn góp phần làm chuyển hóa và thay đổi tính chất nền kinh tế nông
nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển sản xuất kinh doanh hàng hóa và
kinh tế thị trường.
Thứ hai, hệ thống CSHT GTĐB phát triển hợp lý tạo ra sự thay đổi căn
bản trong cơ cấu sản xuất và chuyển dịch cơ cấu KT-XH nông thôn.
Trước hết, việc mở rộng hệ thống GTĐB nông thôn không chỉ tạo điều
kiện cho việc thâm canh mở rộng sản xuất và tăng năng suất cây trồng mà còn
dẫn tới quá trình đa dạng hóa nền nông nghiệp, với những thay đổi lớn về cơ
cấu sử dụng đất đai, mùa vụ, cơ cấu về các loại cây trồng cũng như cơ cấu lao
động và sự phân bố các nguồn lực khác trong nông nghiệp, nông thôn. Hơn
nữa, CSHT GTĐB phát triển tạo điều kiện và kích thích các ngành, các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh khác ngoài nông nghiệp ở nông thôn như: công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, vận tải, xây dựng… Đường xá và các công trình

công cộng đi tới đâu thì các lĩnh vực này hoạt động và phát triển tới đó. Do
đó, nguồn vốn, lao động đầu tư vào lĩnh vực phi nông nghiệp cũng như thu
nhập từ các hoạt động này ngày càng tăng. Tất cả các tác động đó dẫn tới sự
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế của từng vùng cũng như toàn bộ nền
kinh tế nông nghiệp. Từ đó, sự chuyển dịch theo hướng nông – công nghiệp
(hay công nghiệp hóa) thể hiện ngày càng rõ nét và phổ biến. Thêm vào đó,
CSHT GTNT nói chung và CSHT GTĐB nông thôn nói riêng phát triển là
tiền đề cơ bản cho quá trình phân bố lại dân cư, lao động và lực lượng sản
xuất trong nông nghiệp và các ngành khác ở nông thôn cũng như trong nền
kinh tế quốc dân.
 Đối với phát triển văn hóa – xã hội
Các hoạt động văn hóa xã hội là yếu tố tác động trực tiếp đến đời sống
tinh thần của người dân, góp phần không nhỏ vào sự phồn vinh của quốc gia.
Tuy nhiên do các yếu tố lịch sử, địa lý … đời sống văn hóa tinh thần của
người dân các vùng không đồng đều, đặc biệt là giữa thành thị, nông thôn,
những vùng xa xôi hẻo lánh. Khoảng cách đó chỉ được xóa dần khi sự giao
lưu giữa các vùng, các khu vực thông qua hệ thống giao thông được mở rộng.
 Về y tế: hệ thống đường xá thuận tiện giúp cho người dân dễ dàng
tiếp xúc với các dịch vụ y tế và các nhân viên y tế sẽ đến phục vụ được nhiều
hơn, sức khỏe của người dân ngày càng được đảm bảo. Ngoài ra, việc áp dụng
và tuyên truyền các biện pháp kế hoạch hóa gia đình sẽ được nâng cao hơn,
làm giảm mức độ tăng dân số, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và nâng
cao sức khỏe cho người già ở khu vực nông thôn.
 Về giáo dục: hệ thống đường xá được mở rộng sẽ khuyến khích các
trẻ em tới lớp, làm giảm tỷ lệ thất học ở trẻ em nông thôn. Thu hút được đội
ngũ giáo viên giỏi có trình độ từ thành thị về dạy tại các trường học ở vùng
sâu, vùng xa, vùng nông thôn nghèo, tránh được sự ngại ngần khi phải đi lại

khó khăn và tạo điều kiện ban đầu để họ yên tâm làm việc.
 Hơn nữa, giao thông thuận lợi còn góp phần giải phóng phụ nữ,
khuyến khích họ thường xuyên tham gia vào các hoạt động tập thể, thể dục,
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thể thao … ở địa phương. Từ đó có thể thay đổi được những tập tục lạc hậu
trói buộc người phụ nữ nông thôn từ bao đời nay, không biết gì ngoài việc
đồng áng, bếp núc. Ngoài ra, CSHT GTNT phát triển còn góp phần thúc đẩy
hoạt động văn hóa, xã hội, tôn tạo và phát triển những công trình và giá trị
văn hóa truyền thống, nâng cao dân trí đời sống tinh thần của người nông dân.
Có thể nói, sự phát triển CSHT GTĐB vùng nông thôn sẽ góp phần
quan trọng vào việc cải tạo điều kiện lao động, điều kiện sinh hoạt, làm tăng
phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn. Từ đó, làm
giảm bớt chênh lệch, khác biệt về thu nhập và hưởng thụ vật chất, văn hóa
giữa các tầng lớp, các nhóm dân cư trong nông thôn cũng như giữa nông thôn
và thành thị.
2.2.2. Ý nghĩa quan trọng của việc phát triển CSHT GTĐB đối với vùng
nông thôn TD-MNPB
TD-MNPB là vùng có tỷ lệ người dân sống ở khu vực nông thôn thậm
chí là vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi khá cao chiếm 81% dân số toàn vùng
trong đó 79% lực lượng lao động của vùng đang làm việc và sinh sống nhờ
vào các hoạt động nông – lâm – ngư nghiệp. Thực tế tại các khu vực nông
thôn vùng TD-MNPB cho thấy, mức sống của người dân còn rất thấp, tỷ lệ
đói nghèo cao. Thêm vào đó, khả năng tiếp cận với các dịch vụ công của
người dân còn rất hạn chế. Do đó, nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu đối với sự
nghiệp CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn của vùng là phát triển kinh tế
nông thôn, xây dựng nông thôn với diện mạo mới. Như phân tích ở trên,
CSHT GTĐB có một vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình phát triển
kinh tế nông thôn. Và thực tiễn nhiều năm vừa qua tại vùng nông thôn TD-

MNPB cũng cho thấy, hệ thống CSHT GTĐB phát triển đến đâu thì hàng rào
đóng kín của kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc bị trọc thủng đến đó. Hệ thống
GTĐB phát triển sẽ giúp giảm giá thành sản xuất, giảm rủi ro, thúc đẩy lưu
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thông hàng hóa trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp và các ngành liên
quan trực tiếp đến nông nghiệp – khu vực phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Nhờ
vậy, thị trường nông nghiệp của vùng nông thôn TD-MNPB được mở rộng,
kích thích hộ nông dân tăng gia sản xuất. Từ đó, nâng cao thu nhập cũng như
đời sống của người nông dân, góp phần thực hiện mục tiêu xói đói, giảm
nghèo, giảm dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Bởi vậy, phát triển
CSHT GTĐB vùng nông thôn TD-MNPB là một xu thế tất yếu, khách quan
không thể thiếu được trong sự nghiệp CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn
của nước ta hiện nay.
3. Vốn đầu tư trong việc phát triển CSHT GTĐB vùng nông thôn TD-
MNPB
Có thể thấy, Đảng và Nhà nước luôn nhận thức được tầm quan trọng
của vốn đầu tư trong chiến lược phát triển CSHT GTĐB vùng nông thôn.
Thật vậy, vốn đầu tư tạo điều kiện để tiến hành xây dựng các công trình, hạng
mục giao thông, các công trình kinh tế trọng điểm, biến những dự án đầu tư từ
nghiên cứu chuyển thành thực tiễn. Vậy, nguồn vốn đầu tư cho phát triển
CSHT GTNT nói chung và CSHT GTĐB vùng nông thôn TD-MNPB nói
riêng chủ yếu là từ đâu?
3.1. Phân cấp quản lý và cấp vốn đầu tư cho GTĐB
Theo quy định của Chính phủ về nguồn tài chính và quản lý, sử dụng
nguồn tài chính cho quản lý, bảo trì đường bộ thì vốn đầu tư đường bộ nói
chung được chia ra như sau:
• Vốn đầu tư xây dựng mới, khôi phục, cải tạo và nâng cấp đường bộ.
• Vốn quản lý và sửa chữa đường bộ.

Trong đó, nguồn đầu tư xây dựng mới, khôi phục, cải tạo và nâng cấp
đường bộ:
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
• Đối với đường huyện chủ yếu bố trí từ nguồn NSĐP và từ các nguồn
vốn khác.
• Đối với đường xã chủ yếu huy động từ sự đóng góp tài, lực của nhân
dân địa phương, của ngân sách xã và một phần hỗ trợ của ngân sách cấp trên
và các nguồn vốn khác.
• Không quy định cấp phát vốn cho loại đường cấp thấp như đường
mòn, đường xóm, đường ra đồng ruộng. Việc xây dựng mới, quản lý, duy tu
đường cấp thấp do dân địa phương đóng góp xây dựng và quản lý hoặc bằng
nguồn tài trợ khác.
Vốn cho quản lý và sửa chữa đường bộ: Nguồn vốn này được sử dụng
vào các công việc quản lý và bảo dưỡng thường xuyên, bảo dưỡng định kỳ và
sửa chữa đột xuất. Nguồn tài chính cho quản lý, bảo trì đường hệ thống đường
huyện, đường xã và một phần hỗ trợ từ NSĐP và từ các nguồn vốn khác theo
quy định của pháp luật.
3.2. Nguồn vốn đầu tư để phát triển CSHT GTĐB vùng nông thôn TD-
MNPB
Nguồn vốn huy động đầu tư phát triển CSHT GTNT nói chung và
CSHT GTĐB vùng nông thôn TD-MNPB nói riêng chủ yếu từ hai nguồn là
nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
 Nguồn vốn đầu tư trong nước: bao gồm nguồn hỗ trợ từ ngân sách
TW, nguồn đối ứng trong nước, nguồn vốn lồng ghép trong các chương trình
phát triển kinh tế (như các chương trình xóa đói giảm nghèo, thủy lợi nông
nghiệp, nước sạch nông thôn, phát triển kinh tế vùng…), nguồn NSĐP (tỉnh)
và nguồn đóng góp của các tổ chức kinh tế, nhân dân địa phương và cả nước.
Nguồn vốn trong nước để đầu tư cho phát triển CSHT GTĐB vùng

nông thôn, chủ yếu là cầu và đường, xuất phát từ 3 nguồn chính:
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
• Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách TW: vốn đầu tư cho CSHT GTĐB
vùng nông thôn từ nguồn lực trong nước do TW quản lý rất hạn chế, được cấp
(hỗ trợ) dưới 3 hình thức:
 Hình thức 1: Bộ GTVT có một nguồn ngân sách nhỏ hỗ trợ đầu tư
hàng năm cho GTĐB vùng nông thôn. Ngân sách này được phân bổ theo kế
hoạch đầu tư cụ thể do các địa phương đề nghị. Một số địa phương được cấp
vật tư, thiết bị để phát triển GTNT, đặc biệt là cho các địa phương nghèo, các
địa phương có phong trào quần chúng phát triển GTNT tốt cũng được thưởng
hiện vật, vật tư. Ngoài ra, các công trình cầu đường GTNT do thiên tai phá
hủy, Bộ GTVT cũng dành phần hỗ trợ để khắc phục những hậu quả đó.
Đối với hình thức hỗ trợ của Bộ GTVT cho đầu tư phát triển GTĐB
cho các tỉnh vùng nông thôn TD-MNPB chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với tổng
vốn đầu tư cho GTNT (khoảng 0,6% - 1,2%) và không đông đều cho các năm,
giữa các tỉnh trong vùng. Chẳng hạn như những tỉnh thuộc vùng sâu, vùng xa,
vùng căn cứ cách mạng, vùng kinh tế quá khó khăn như Hà Giang, Cao Bằng,
Tuyên Quang, Lạng Sơn, Điện Biên…thì nhân dân đóng góp ngày công, nhà
nước hỗ trợ vật tư, kỹ thuật 100%.
 Hình thức 2: vốn đối ứng của chính phủ VN trong các chương trình,
dự án ODA nước ngoài. Bộ GTVT quản lý các vốn đối ứng đối với các dự án
do Bộ quản lý, như dự án GTNT1 và dự án GTNT2. Ngoài ra, còn có vốn đối
ứng do các Bộ khác quản lý như Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn…
cũng thực hiện các khoản mục đầu tư GTĐB nông thôn.
Tuy nhiên, lượng vốn đối ứng này không nhiều, tùy thuộc theo yêu cầu
của từng dự án và nhà tài trợ quy định tỷ lệ đối ứng khác nhau.
 Hình thức 3: nguồn đầu tư phát triển CSHT GTĐB nông thôn được
lồng ghép trong các chương trình mục tiêu như:

Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương trình xóa đói giảm nghèo 135/1998/QĐ-TTg, chương trình
phát triển kinh tế dành nguồn đầu tư của TW cho các xã xa xôi hẻo lánh, khó
khăn và nghèo khổ. Khoản vốn này được đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp địa
phương trong đó có hạng mục về cầu và đường nông thôn.
Chương trình phát triển kinh tế vùng theo quyết định của Chính phủ
như chương trình xây dựng trung tâm xã vùng núi, vùng cao (QĐ35/TTg ngày
13/1/1997, QĐ 197/QĐ ngày 30/9/1999), chương trình phát triển kinh tế xã
hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc (chỉ thị số 65/HĐBT ngày 12/6/1989).
• Nguồn vốn đầu tư GTĐB nông thôn từ NSĐP: NSĐP đầu tư phát
triển GTĐB nông thôn bao gồm ngân sách tỉnh và huyện, cụ thể như sau:
 Hàng năm mỗi tỉnh có một khoản ngân sách nhất định hỗ trợ để phát
triển GTĐB nông thôn trong địa phương mình.
 Mỗi huyện cũng có một khoản ngân sách hàng năm để đầu tư vào
các đường huyện và một khoản ngân sách sự nghiệp để bảo trì, được cấp phát
từ các khoản thu được để lại, cộng với vốn ủy thác của tỉnh dành cho các kế
hoạch cụ thể. Nguồn vốn này được chi cho một loạt các dự án xây dựng, nâng
cấp, khôi phục nhỏ, sửa chữa và bảo trì.
 Ngoài ra, mỗi xã có một khoản ngân sách nhỏ hàng năm dành cho
đường bộ, được cấp phát từ các nguồn thu để lại, cộng với bất kỳ khoản vốn
ủy thác nào của tỉnh hoặc huyện. Một số UBND xã đã thu phí đường bộ địa
phương như là một phương sách tạo ra doanh thu.
Tỷ trọng đầu tư cho GTNT giữa các tỉnh trong vùng rất khác nhau. Một
số tỉnh đầu tư tương đối lớn cho GTNT trong đó chủ yếu là GTĐB từ nguồn
NSĐP như Phú Thọ, Quảng Ninh với tỷ trọng khoảng 60 – 70 % tổng nguồn
vốn cho GTNT, các tỉnh có mức đầu tư thấp hơn, trung bình dao động ở mức
16 – 205% như Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Giang…Một số tỉnh đầu tư
rất ít như Hà Giang (9,77% năm 2004, Yên Bái 9 – 11 % năm 2006).

Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
• Sự đóng góp của nhân dân, các tổ chức, cá nhân:
 Theo quy định chung, đường xã chủ yếu huy động từ sự đóng góp
tài, lực của nhân dân địa phương, hỗ trợ một phần từ ngân sách cấp trên và
các nguồn vốn khác. Với phương châm này, TW cũng như các tỉnh ở từng địa
phương đã phát phong trào làm GTNT “dân làm là chính, nhà nước hỗ trợ,
hướng dẫn”.
 Huy động lao động nghĩa vụ để thực hiện các công trình công cộng
tại địa phương như làm thủy lợi, làm giao thông, các công trình phúc lợi, bệnh
viện, trường học… Lao động công ích cũng có thể đóng góp bằng ngày công
hoặc bằng tiền.
 Đóng góp vốn của các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các tổ chức, cá
nhân đầu tư phát triển GTĐB nông thôn.
 Đóng góp từ các phong trào, đoàn thể trong nước như lực lượng vũ
trang, quân đội (giúp các xã nghèo xây dựng đường bộ), Đoàn thanh niên
(chương trình xóa bỏ đường đất ở các xã vùng núi, vùng đặc biệt khó khăn).
Trong những năm gần đây, tỷ trọng đóng góp của người dân trong tổng
vốn đầu tư phát triển GTNT ở hầu hết các tỉnh trong vùng tương đối cao,
chiếm khoảng 30 – 75%, như Bắc Giang (75% năm 2006, 87% năm 2007),
Phú Thọ (69,6% năm 2006, 75,24% năm 2007), Yên Bái (45,21% năm 2006,
42,18% - 2007). Một số tỉnh, huyện vùng sâu vùng xa, tỷ lệ đóng góp của
người dân còn thấp như Bắc Kạn (2,09% - 2006, 0,26% - 2007, 0,51% năm
2008), Quảng Ninh (6,19% - 8,52% - 12,73% vào các năm 2006, 2007, 2008),
Hà Giang (2,03% năm 2006, 1,31% năm 2007).
 Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài:
Đầu tư của các nhà tài trợ vào đường GTNT nói chung và GTĐB nông
thôn nói riêng tập trung chủ yếu từ nguồn vốn của Ngân hàng thế giới (WB),
Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản

Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
(JBIC), từ Liên minh Châu Âu (EU), các nhà tài trợ song phương, các tổ chức
cơ quan của Liên Hiệp Quốc. Vốn đầu tư của các nhà tài trợ được chuyển qua
các Bộ và các cơ chế dự án khác nhau như dự án GTNT1, GTNT2, các
chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, các chương trình giảm đói
nghèo…
Việc cấp vốn tài trợ (vốn ODA) đầu tư GTNT một số dự án chính theo
các cách thức sau:
 Đầu tư mang tính quốc gia lớn bằng việc vay của các tổ chức tiền tệ
quốc tế đầu tư vào cầu đường bộ nông thôn do bộ GTVT thực hiện, như dự án
GTNT1 do WB cấp vốn, dự án GTNT2 do WB và DFID đồng tài trợ và một
số phần DFID viện trợ không hoàn lại.
 Đầu tư CSHT GTNT trong một số dự án thuộc các Bộ NN & PTNT.
 Chương trình giảm nghèo, phát triển CSHT nông thôn, trong đó có
CSHT GTĐB vùng nông thôn của các tổ chức quốc tế, Liên hợp quốc.
 Các dự án viện trợ không hoàn lại của nhiều tổ chức và phi Chính
phủ xây dựng phát triển GTNT như làm cầu và đường bộ.
Biểu đồ 1. 4 - Cơ cấu vốn xây dựng GTĐB vùng nông thôn phân theo
nguồn – giai đoạn 2003 – 2008
Đơn vị: %
Nguồn: Bộ GTVT
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4. Kinh nghiệm của một số nước trong việc huy động và sử dụng vốn đầu
tư phát triển CSHT GTĐB vùng nông thôn
4.1. Trung Quốc
Trung Quốc là một nước nông nghiệp có truyền thống lâu đời, đất rộng

người đông với dân số trên 1,2 tỷ người, phần lớn dân cư sống ở khu vực
nông thôn. Vì thế, ngay từ đầu những năm 1980, Chính phủ Trung Quốc đã
quan tâm đến việc phát triển nông nghiệp nông thôn. Hệ thống nông hộ đã
thay thế các công xã nhân dân, sức lao động được giải phóng, khuyến khích
nông dân làm giàu, các mô hình phát triển nông thôn rầm rộ diễn ra khắp mọi
nơi. Sự phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp nông thôn đã đòi hỏi mạng
lưới GTNT phải phát triển tương xứng với nó. Tuy nhiên, nhu cầu này lại
mâu thuẫn với mức đầu tư cho GTNT. Bởi vậy, để thu hút nguồn vốn cho
việc xây dựng CSHT GTNT trong đó đặc biệt quan tâm đến CSHT GTĐB,
Chính phủ TQ đã đưa ra hàng loạt những ưu đãi nhằm phát triển kinh tế nông
thôn, từ đó tạo đà cho phát triển GTNT.
Nhà nước TQ thực hiện chính sách ưu đãi với tất cả các chủ đầu tư
trong và ngoài nước khi bỏ vốn đầu tư vào vùng núi, vùng sâu, vùng xa nhất
là đầu tư vào CSHT. Chẳng hạn về chính sách thuế, đối với các dự án đầu tư
vào lĩnh vực ngoại thương thì trong hai năm đầu kinh doanh được miễn thuế,
những năm tiếp theo cho đến năm thứ 5 được giảm 50%. Với các dự án đầu tư
trong các lĩnh vực sản xuất, xây dựng và giao thông được miễn giảm trong 5
năm đầu, những năm sau đó cho đến năm thứ 10 được giảm 50%.
Để huy động được nhiều vốn và sử dụng vốn có hiệu quả hơn, Chính
phủ TQ đã có quy định rõ ràng về thưởng kinh tế đối với những người có
công mời được hạng mục, vốn đầu tư, nhân tài đến hợp tác. Trường hợp mời
được hạng mục sau khi bỏ vốn cho hạng mục và hạng mục đi vào sử dụng sẽ
được tài chính địa phương cấp 5% bằng tiền đầu tư cố định để trả một lần cho
Sinh viên: Nguyễn Thu Hương Lớp: Kinh tế phát triển 47A
25

×