Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Sử dụng hệ thống bài tập định tính vào chương chất rắn và chất lỏng sự chuyển thể vật lý lớp 10 nâng cao nhằm bồi dưỡng tư duy logic cho học sinh trong dạy học vật lý ở trường trung học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.24 MB, 147 trang )






Sử dụng hệ thống bài tập định tính vào
chương "Chất rắn và chất lỏng. Sự chuyển
thể" vật lý lớp 10 nâng cao nhằm bồi dưỡng
tư duy logic cho học sinh trong dạy học vật lý
ở trường trung học phổ thông


LÊ TRẦN THẢO TRANG
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố bất kì trong công trình nào khác.






Tác giả
Lê Trần Thảo Trang

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành công trình nghiên cứu của mình, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được
rất nhiều sự ủng hộ, động viên và giúp đỡ của người thân, thầy cô và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn:


 Ban giám hiệu, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau đại học đã tạo điều kiện cho các học
viên khóa 17 chúng tôi hoàn thành luận văn của mình.
 Ban giám hiệu, quý thầy cô trường THPT Ngô Gia Tự đã tạo điều kiện cho tôi vừa học
tập vừa nghiên cứu, thực hiện đề tài.
 Gia đình, những người thân yêu, bạn hữu đã động viên và giúp đỡ tôi trong thời gian
qua.
Đặc biệt, tôi xin gởi lời cảm ơn sâu sắc đến cô hướng dẫn, PGS.TS. Phạm Thị Phú, với lòng tận
tụy, người đã tận tình chỉ bảo, đưa ra những phê bình đúng đắn, đã thắp lên trong tôi ngọn lửa nhiệt
tình với lời động viên đơn giản “Hãy cố gắng hoàn thành luận văn của mình”.
Với tất cả lòng biết ơn, tôi xin chúc mọi người luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2009



Lê Trần Thảo Trang



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTĐT : Bài tập định tính
BTVL : Bài tập vật lý
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
THPT : Trung học phổ thông
BT : Bài tập
SGK : Sách giáo khoa

MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ II (khóa VIII) đã xác định
một trong những mục tiêu giáo dục của nước ta trong giai đoạn hiện nay là phải đào tạo thế hệ trẻ có
ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ
hiện đại. Có tư duy sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức
và kỉ luật.
Đối với dạy học môn vật lý ở trường phổ thông, mục tiêu đó được cụ thể trong bốn nhiệm vụ:
giáo dưỡng, giáo dục, phát triển và giáo dục kĩ thuật tổng hợp. Trong đó phát triển tư duy học sinh
(HS) là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là động lực giúp cho việc thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ
còn lại, đồng thời suy cho cùng là mục đích cuối cùng của dạy học: dạy học phải kéo theo sự phát
triển trí tuệ học sinh (Vư-gốt-xki). Nội dung phát triển năng lực tư duy cho HS bao gồm: rèn luyện
những thao tác, hành động, phương pháp nhận thức cơ bản, công cụ để HS chiếm lĩnh kiến thức,
vận dụng sáng tạo kiến thức giải quyết vấn đề trong học tập và hoạt động thực tiễn. Trong dạy học,
việc bồi dưỡng tư duy logic là một bộ phận quan trọng của nhiệm vụ phát triển tư duy bởi tư duy
logic cần thiết cho mọi hoạt động, là cơ sở của tư duy sáng tạo. Những kỹ năng cần thiết của người
lao động mới trong xã hội toàn cầu hóa, cạnh tranh và hợp tác như: trình bày vấn đề, thuyết phục,
đàm phán … có cơ sở từ năng lực tư duy logic, và năng lực này cần phải được quan tâm bồi dưỡng
từ khi HS còn ngồi trên ghế nhà trường.
Làm thế nào để bồi dưỡng tư duy logic cho HS trong dạy học môn vật lý ở trường phổ thông?
Đây là câu hỏi từ lâu được nhiều giáo viên (GV) vật lý quan tâm bởi thực tế năng lực tư duy logic,
suy luận logic, diễn đạt tư tưởng, ý kiến của HS, sinh viên và cả GV còn nhiều bất cập hạn chế.
Trong dạy học vật lý, bài tập vật lý (BTVL) từ trước đến nay vẫn giữ một vị trí quan trọng bởi vì
có thể sử dụng BTVL như một phương tiện để ôn tập, củng cố kiến thức, lí thuyết đã học một cách
sinh động và có hiệu quả. BTVL còn giúp rèn luyện cho HS khả năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn và đời sống, rèn luyện cho HS tinh thần tự lập, tính cẩn thận, tính kiên trì và tinh thần vượt
khó…Ngoài ra ta còn có thể dùng nó như một phương tiện để kiểm tra đánh giá kiến thức, kỹ năng
của HS.
Do đó, để quá trình dạy học vật lý ở trường THPT đạt hiệu quả cao thì ngoài việc dạy kiến thức
mới còn phải chú trọng đến việc dạy BTVL. BTVL đa dạng, theo dấu hiệu phương thức, công cụ

chính để giải, BTVL gồm bài tập định tính (BTĐT), bài tập định lượng. Thực tế giảng dạy cho thấy
GV thường tập trung vào các bài tập định lượng mà chưa chú trọng đến các BTĐT mặc dù BTĐT
có những ưu điểm vượt trội đặc biệt trong việc bồi dưỡng tư duy logic, năng lực lập luận logic.
Trong những trường hợp dạy học các nội dung không có các công thức toán học thì việc sử dụng
BTĐT trong dạy học là rất cần thiết. Ngoài ra, còn một vấn đề khá quan trọng mang tính thời sự là
hiện nay hình thức trắc nghiệm khách quan được sử dụng cho thi tốt nghiệp và tuyển sinh đại học
môn vật lý. Mặc dù có những ưu điểm như tính khách quan trong đánh giá, ngăn ngừa được tình
trạng học tủ, học lệch do đề thi phủ kín toàn bộ chương trình, nhưng do không phải viết câu trả lời
nên kiểu kiểm tra đánh giá này rất hạn chế việc rèn luyện kỹ năng lập luận logic, phát triển ngôn
ngữ cho HS. Nếu trong quá trình dạy học môn vật lý, bài tập trắc nghiệm khách quan bị tuyệt đối
hóa sẽ dẫn đến tình trạng tư duy lôgic, năng lực lập luận lôgic, ngôn ngữ nói, viết của HS rất hạn
chế.
Vậy, vấn đề đặt ra là cần thiết phải xây dựng một hệ thống BTĐT hiện còn rất khiêm tốn bên
cạnh hệ thống bài tập định lượng đã khá phong phú. (và hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan
đang ồ ạt ra đời trong ba năm gần đây).
Trước hết cần ưu tiên cho những nội dung dạy học nặng về mặt định tính trong chương trình
THPT. Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ, tôi chọn đề tài: “Sử dụng hệ thống bài tập
định tính vào chương “Chất rắn và chất lỏng. Sự chuyển thể” vật lý lớp 10 nâng cao nhằm bồi
dưỡng tư duy lôgic cho học sinh trong dạy học vật lý ở trường trung học phổ thông”.

2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xây dựng được hệ thống BTĐT chương “Chất rắn và chất lỏng. Sự chuyển thể” Vật lý 10
chương trình Nâng cao làm phương tiện bồi dưỡng tư duy logic cho HS.
- Thiết kế các phương án dạy học với hệ thống BTĐT đã soạn nhằm bồi dưỡng tư duy logic cho
HS.
3. Giả thuyết khoa học
- Có thể xây dựng được hệ thống BTĐT đảm bảo các yêu cầu về vật lý học, về logic học, về tâm
lý học và lý luận dạy học nhằm mục tiêu bồi dưỡng tư duy logic cho HS, thuộc chương “Chất rắn và
chất lỏng. Sự chuyển thể” Vật lý 10 chương trình Nâng cao.
- Việc sử dụng BTĐT theo các phương án dạy học hợp lý sẽ góp phần bồi dưỡng tư duy logic

cho HS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Tư duy logic
- BTVL nói chung và BTĐT nói riêng trong dạy học vật lý: vai trò và đặc điểm của chúng.
- Việc dạy BTVL nói chung và BTĐT nói riêng trong chương “Chất rắn và chất lỏng. Sự chuyển
thể”.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu BTĐT và chương “Chất rắn và chất lỏng. Sự chuyển thể” trong chương trình vật lý
lớp 10 Nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc bồi dưỡng tư duy logic trong dạy học.
5.2. Nghiên cứu cơ sở lý luận về BTĐT trong dạy học vật lý, mối liên hệ giữa hoạt động giải
BTĐT và việc thực hành các thao tác tư duy, các hành động suy luận logic. Xây dựng tiêu chí đánh
giá năng lực tư duy logic trong dạy học vật lý.
5.3. Tìm hiểu thực trạng dạy BTĐT và vấn đề quan tâm bồi dưỡng tư duy logic cho HS trong dạy
học vật lý ở trường THPT. Điều tra kỹ năng giải BTĐT của HS lớp 10 để đánh giá năng lực tư duy
logic của HS.
5.4. Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, chuẩn kiến thức kỹ năng vật lý 10 Nâng cao,
chương “Chất rắn và chất lỏng. Sự chuyển thể” nhằm tạo cơ sở xây dựng hệ thống BTĐT.
5.5. Xây dựng hệ thống BTĐT chương “Chất rắn và chất lỏng. Sự chuyển thể” theo định hướng
nghiên cứu.
5.6. Thiết kế các phương án dạy học với hệ thống BTĐT đã xây dựng nhằm bồi dưỡng tư duy
logic cho HS.
5.7. Thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi, hiệu quả của các phương án đã thiết kế, điều
chỉnh, hoàn thiện. Quay phim tiết dạy thực nghiệm làm tư liệu cho bảo vệ đề tài.

6. Phương pháp nghiên cứu
 Nghiên cứu lý luận: đọc các sách, tài liệu về những vấn đề liên quan đến việc giải quyết các
nhiệm vụ đã đề ra trong luận án.

 Nghiên cứu thực tiễn: điều tra sơ bộ về việc giảng dạy BTĐT ở một số trường THPT áp dụng
cụ thể cho chương “Chất rắn và chất lỏng. Sự chuyển thể”.
 Thực nghiệm sư phạm ở một số trường THPT để đánh giá các biện pháp đã đề xuất trong
luận án.
7. Đóng góp mới của luận văn
 Về mặt lý luận: góp phần hoàn thiện lý luận về dạy học BTĐT với chức năng là phương tiện
hữu hiệu bồi dưỡng tư duy logic.
 Về nghiên cứu ứng dụng:
 Mô tả được thực trạng khái quát và chi tiết về dạy học BTĐT theo hướng bồi dưỡng tư duy
logic ở một số trường THPT Thành phố Hồ Chí Minh.
 Xây dựng hệ thống BTĐT chương “Chất rắn và chất lỏng. Sự chuyển thể” đảm bảo tính
khoa học sư phạm và khả thi dùng cho dạy học bồi dưỡng tư duy logic.
 Thiết kế các phương án dạy học có sử dụng BTĐT đã soạn nhằm bồi dưỡng tư duy logic.
Các giáo án đã thiết kế đảm bảo tính khả thi và có tác dụng bồi dưỡng tư duy logic cho HS.
8. Cấu trúc luận văn
Phần nội dung gồm 3 chương:
 Chương 1. Bài tập định tính với việc bồi dưỡng tư duy logic trong dạy học vật lý. Được trình
bày từ trang 12 đến trang 45.
 Chương 2. Xây dựng vào sử dụng hệ thống bài tập định tính nhằm bồi dưỡng tư duy logic
cho HS qua dạy học chương “Chất rắn và chất lỏng. Sự chuyển thể” Vật lý 10 chương trình nâng
cao. Được trình bày từ trang 46 đến trang 93.
 Chương 3. Thực nghiệm sư phạm. Được trình bày từ trang 94 đến trang 104.



Chương 1. BÀI TẬP ĐỊNH TÍNH VỚI VIỆC BỒI DƯỠNG TƯ DUY LOGIC TRONG
DẠY HỌC VẬT LÝ

1.1. Bồi dưỡng tư duy logic cho HS trong dạy học vật lý
1.1.1. Tư duy. Các loại tư duy

a. Tư duy
Có nhiều cách định nghĩa về tư duy, nhưng nói chung ta có thể hiểu là tư duy là sự phản ánh gián
tiếp, trừu tượng, khái quát bản chất của sự vật hiện tượng, những liên hệ, quan hệ có tính chất quy
luật của sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan mà ta chưa biết.
Một số đặc điểm của tư duy: [7]
 Tư duy bắt đầu từ một tình huống có vấn đề.
 Có tính trừu tượng và khái quát.
 Tư duy có tính gián tiếp.
 Tư duy có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ: mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ được thể
hiện bằng sơ đồ 1.1: [4]

Tư duy đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố và phát triển ngôn ngữ. Ngược lại, ngôn ngữ
giúp cho việc rèn luyện, phát triển tư duy rõ ràng, mạch lạc, chính xác, đầy đủ.
b. Các loại tư duy
Con người đã đặt ra rất nhiều loại hình tư duy tuy nhiên, trong dạy học vật lý có thể phân loại tư
duy theo các loại hình sau: [19]
 Tư duy kinh nghiệm
Là loại tư duy chủ yếu dự trên kinh nghiệm cảm tính và sử dụng phương pháp “thử và sai”. Chủ
thể phải thực hiện một số thao tác, hành động nào đó, ngẫu nhiên gặp một trường hợp thành công và
sau đó lặp lại đúng như thế mà không biết nguyên nhân vì sao. Kiểu tư duy này đơn giản, không cần
phải rèn luyện nhiều, có ích trong hoạt động hàng ngày để giải quyết một số vấn đề trong một phạm
vi hẹp.

Nhưng, tư duy kinh nghiệm thường gặp khó khăn khi tiếp xúc với những sự vật, sự việc, vấn
đề có nhiều sự khác lạ.
 Tư duy lý luận
Là loại tư duy giải quyết nhiệm vụ đề ra dựa trên những khái niệm trừu tượng, những tri thức lý
luận.
Đặc trưng của loại tư duy này là:
Ngôn ngữ


Tư duy
Nội dung - quyết định
Hình thức – Vỏ vật chất
Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ
 Không dừng lại ở kinh nghiệm rời rạc mà luôn hướng tới xây dựng những quy tắc, những
quy luật chung ngày một sâu rộng hơn.
 Tự định hướng hành động suy nghĩ về cách thức hành động trước khi hành động.
 Luôn sử dụng những tri thức khái quát đã có để lý giải, dự đoán những sự vật hiện tượng cụ
thể.
 Luôn lật đi, lật lại vấn đề để đạt đến sự nhất quán về mặt lý luận, xác định phạm vi ứng dụng
của mỗi lý thuyết.
Tư duy lý luận rất cần thiết cho hoạt động nhận thức và phải rèn luyện lâu dài mới có được.
 Tư duy logic
Tư duy logic là tư duy tuân theo các quy tắc và quy luật của logic học một cách chặt chẽ, chính
xác, không phạm phải sai lầm trong cách lập luận, biết phát hiện ra các mâu thuẫn nhờ đó mà nhận
thức được đúng đắn chân lý khách quan.
Các đặc trưng của tư duy này là:
 Tính chặt chẽ. Đây là đặc trưng thể hiện sự liên kết, gắn bó không thể tách rời giữa các yếu
tố, các bộ phận trong một nội dung của tư duy.
 Tính hệ thống phản ánh sự sắp xếp các nội dung lập luận theo một trình tự nhất định.
 Tính tất yếu. Tính tất yếu của tư duy là tính tuân thủ các quy luật và quy tắc của logic học.
 Tính chính xác. Tính chính xác phản ánh đúng đắn những đặc điểm bản chất của các đối
tượng vào trong các dấu hiệu cơ bản của khái niệm, là sự xác định được giá trị của tư tưởng ở trong
phán đoán, suy luận, chứng minh, bác bỏ.
Tư duy logic được sử dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động, là cơ sở, nền tảng cho các loại tư duy
khác nên cần phải rèn luyện cho HS loại tư duy này.
 Tư duy vật lý
Tư duy vật lý là sự quan sát các hiện tượng vật lý, phân tích một hiện tượng phức tạp thành
những bộ phận đơn giản và xác lập giữa chúng những mối quan hệ và những sự phụ thuộc xác định,

tìm ra mối quan hệ giữa mặt định tính và mặt định lượng của các hiện tượng và các đại lượng vật lý,
dự đoán các hệ quả mới từ các lý thuyết và áp dụng những kiến thức khái quát thu được vào thực
tiễn.
Việc phân loại các hình thức tư duy thật ra cũng không có một ranh giới thật rõ rệt, chúng chỉ thể
hiện một khía cạnh nào đó của quá trình tư duy. Nhưng chắc chắn rằng để quá trình tư duy được
đúng đắn, rõ ràng, không mâu thuẫn thì phải có một trình độ tư duy logic nào đó. Do vậy, vấn đề bồi
dưỡng tư duy logic cho HS phải được quan tâm đúng mức, và phải được rèn luyện thường xuyên ở
cấp trung học.
Theo định hướng nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đi sâu tìm hiểu về tư duy logic.
1.1.2. Vai trò của tư duy logic trong các loại tư duy
Vai trò của tư duy logic có thể được thể hiện bằng sơ đồ 1.2:



Theo sơ đồ 1.2 chúng tôi muốn chỉ ra rằng tư duy kinh nghiệm có thể xem là cơ sở của tư duy
logic. Trong quá trình nhận thức thế giới khách quan, con người đã luôn tự mò mẫm, sử dụng
phương pháp “thử và sai” trước khi có thể đúc kết cho mình một quy tắc, một quy luật nào đó. Như
vậy, những quy tắc, quy luật đó không phải do con người tự ý sáng tạo ra một cách vô căn cứ mà là
sự phản ánh những mối liên hệ, quan hệ khách quan của các sự vật hiện tượng quanh ta đúc kết
thành tiền đề cho tư duy logic. Trải qua nhiều thế kỉ, con người đã tổng kết được những quy tắc, quy
luật logic có tính khách quan và đã hình thành nên logic học, một khoa học nghiên cứu những tư
tưởng của con người về mặt hình thức logic của chúng. Đây chính là cơ sở của tư duy logic.
Mặt khác, tư duy logic lại có thể xem là cơ sở của các loại tư duy khác như tư duy lý luận, tư duy
vật lý. Đối với tư duy lý luận, để có thể xây dựng được những quy tắc, những quy luật chung hay để
có thể sử dụng những tri thức đã khái quát được nhằm lý giải, dự đoán những sự vật hiện tượng cụ
thể…chắc chắn phải dùng đến những phán đoán và lập luận. Đối với tư duy vật lý, khi quan sát các
sự vật hiện tượng muốn xác lập mối quan hệ giữa mặt định tính và mặt định lượng giữa các sự vật
hiện tượng, giữa các đại lượng vật lý bắt buộc phải sử dụng những phán đoán và lập luận. Những
phán đoán và những lập luận này phải tuân theo những quy tắc, quy luật của logic học một cách
chặt chẽ có như vậy mới không mắc phải sai lầm trong quá trình lập luận cũng như trong quá trình

tư duy.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong quá trình nhận thức con người thường sử dụng xen kẽ, tổng hợp
nhiều loại hình tư duy. Trong đó có những hình thức tư duy chung như tư duy lý luận, tư duy logic
và hình thức tư duy riêng như tư duy vật lý.
Chẳng hạn khi quan sát thấy hai vật rơi nhanh chậm khác nhau trong không khí thì các HS sẽ phải
tự đặt ra câu hỏi: Tại sao vật này rơi nhanh hơn vật kia? Từ đó HS sẽ đi tìm đáp án cho câu hỏi đưa
ra và đánh giá xem đáp án nào là chính xác nhất. Nhưng để đưa ra các đáp án và đánh giá được đáp
án nào chính xác thì HS phải phân tích được hiện tượng quan sát: hai vật đó có khối lượng, hình
dạng, kích thước giống nhau hay khác nhau, chúng có cùng chịu tác động của môi trường xung
quanh như nhau không. Khi đó HS phải dùng đến tư duy vật lý, HS phải phân tích được hiện tượng
phức tạp thành những bộ phận, những hiện tượng bị chi phối bởi một số ít nguyên nhân, bị tác động
bởi một số ít yếu tố. Từ đó mới có thể đưa ra kết luận về nguyên nhân rơi nhanh chậm của các vật
Tư duy kinh nghi
ệm

Tư duy logic

Tư duy l
ý lu
ận

Tư duy v
ật lý

Cơ s


Cơ s



Sơ đồ 1.2. Vai trò của tư duy logic trong các loại tư duy
khác nhau trong không khí là do: hình dạng, kích thước, khối lượng hay do sức cản của không khí.
Muốn biết kết luận rút ra có chính xác hay không thì phải kiểm tra trong thực tiễn. Để làm việc đó
phải xuất phát từ kết luận đã khái quát suy ra những hệ quả, dự đoán những hiện tượng có thể quan
sát được trong thực tiễn. Nếu thí nghiệm xác nhận hiện tượng mới đúng như dự đoán thì kết luận
ban đầu mới được xác nhận là chân lý. Trong giai đoạn đưa ra hệ quả và kiểm chứng hệ quả đòi hỏi
HS phải đưa ra những phán đoán, những suy luận chặt chẽ, không mâu thuẫn…nói cách khác HS
phải sử dụng tư duy logic. Chẳng hạn khi HS đưa ra kết luận: nguyên nhân làm các vật rơi nhanh
chậm trong không khí là do khối lượng. Như vậy, hệ quả rút ra dựa trên lập luận như sau:
Các vật có khối lượng bằng nhau thì rơi nhanh như nhau bất kể hình dạng và kích thước.
Hai vật này có khối lượng bằng nhau, hình dạng và kích thước khác nhau.
Vậy, chúng rơi nhanh như nhau.
Như vậy, trong quá trình nhận thức HS phải sử dụng nhiều loại hình tư duy, các loại hình tư duy
này không phải theo một trình tự cứng nhắc, mà chúng đan xen, hỗ trợ lẫn nhau giúp cho con người
phản ánh ngày càng đúng bản chất của sự vật hiện tượng, kiến thức do con người khám phá ra ngày
càng tiệm cận với chân lý, ngày càng đúng với hiện thực khách quan.
1.1.3. Cơ sở lý luận của tư duy logic
Tư duy logic là một bộ phận hợp thành của tư duy khoa học nên có vai trò to lớn trong nhận thức
khoa học. Chính vì vậy con người tìm hiểu về nó rất sớm và đã hình thành những nghiên cứu về tư
duy logic, đó là logic học. Tư duy logic là giai đoạn nhận thức lý tính, sử dụng các hình thức cơ bản
như: khái niệm, phán đoán, suy luận cùng với các thao tác logic xác định của chủ thể nhằm tạo ra các
tri thức mới với mục đích phản ánh ngày càng sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về hiện thực khách quan.
Do đó, để nâng cao năng lực tư duy logic cần phải nắm bắt được các khái niệm, các quy luật cơ
bản của logic học.
1.1.3.1. Các khái niệm cơ bản của logic học
Trong phần này chúng ta sẽ đề cập đến những khái niệm rất cơ bản mọi quá trình nhận thức đều
sử dụng đến, đó là: khái niệm, phán đoán, suy luận.
a. Khái niệm
Khái niệm là hình thức tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất, những dấu hiệu cơ bản khác
biệt của các sự vật hiện tượng của hiện thực.

Đặc điểm của khái niệm: [14]
 Khái niệm có tính chất trừu tượng và khái quát hơn biểu tượng. Khái niệm có thể phản ánh cả
những thuộc tính, những mối quan hệ mà ta không thể hình dung dưới dạng hình ảnh trực quan
được.
 Khái niệm liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ.
 Khái niệm có tính biến đổi theo hướng ngày càng chính xác hóa và phân hóa. Mức độ phù
hợp của nội dung khái niệm với nội dung khách quan của sự vật, hiện tượng mà nó phản ánh còn
phụ thuộc vào trình độ phát triển của thực tiễn, trình độ nhận thức của con người.
 Mỗi một khái niệm đều có nội hàm và ngoại diên. Nội hàm của khái niệm là tập hợp những
thuộc tính của đối tượng hay các đối tượng cùng loại được phản ánh trong khái niệm. Ngoại diên
của khái niệm là tập hợp tất cả các đối tượng được khái quát trong khái niệm, có những thuộc tính
xác định của đối tượng ấy. Nội hàm và ngoại diên của khái niệm có quan hệ ngược nhau, khái niệm
mà nội hàm càng nhiều dấu hiệu thì ngoại diên càng hẹp và ngược lại. Nội hàm và ngoại diên có thể
mở rộng hoặc thu hẹp lại.
Vấn đề quan trọng nhất của xây dựng khái niệm là định nghĩa khái niệm. Định nghĩa khái niệm là
nêu lên nội hàm khái niệm hoặc xác lập ý nghĩa của các từ biểu thị khái niệm. Khi định nghĩa một
khái niệm phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ sau: phân biệt sự vật cần định nghĩa với tất cả các
sự vật khác tiếp cận với nó; vạch ra những dấu hiệu bản chất của sự vật cần định nghĩa.
b. Phán đoán
Phán đoán là hình thức cơ bản của tư duy, dưới dạng khẳng định hay phủ định, thể hiện nhận thức
của con người về những đối tượng trong thế giới khách quan.
Đặc điểm của phán đoán:
 Phán đoán có phản ánh:
 Các dấu hiệu hay các thuộc tính thuộc về, hay không thuộc về các sự vật, hiện tượng.
 Các quan hệ giữa các lớp đối tượng.
 Quan hệ cùng tồn tại của các thuộc tính trong cùng một sự vật.
 Các quan hệ không tương thích của các thuộc tính của sự vật.
 Các quan hệ phụ thuộc của hiện tượng này vào hiện tượng khác.
 Trong phán đoán bao giờ cũng chính xác đối tượng của tư tưởng và ngôn ngữ biểu thị phán
đoán là câu. Ví dụ trong phán đoán “Đồng là kim loại” thì đối tượng của tư tưởng là “đồng”.

Phán đoán được phân làm hai loại là phán đoán đơn và phán đoán phức. Phán đoán đơn là phán
đoán được tạo thành từ mối liên hệ giữa hai khái niệm. Phán đoán phức là phán đoán được tạo thành
từ nhiều phán đoán đơn.
Tính chu diên và không chu diên của các thuật ngữ trong phán đoán: trong một phán đoán nếu chủ
ngữ hay vị ngữ chỉ gồm một hay một số đối tượng thuộc ngoại diên của khái niệm thì ta nói chủ ngữ
hay vị ngữ đó không chu diên. Nếu chủ ngữ hay vị ngữ chỉ toàn bộ đối tượng thuộc ngoại diên của
khái niệm thì ta gọi là chu diên.
GV phải khéo léo lồng ghép những kiến thức cơ bản của logic học về khái niệm và phán đoán
vào nội dung dạy học môn học để bồi dưỡng cho HS vì đây là điều kiện cần cho việc thực hiện các
phép suy luận.
c. Suy luận
Suy luận là quá trình nhận thức hiện thực một cách gián tiếp. Đó là quá trình nhận thức trong đó
từ một hay nhiều phán đoán đã được chứng minh để rút ra phán đoán mới (kiến thức mới).
Đặc điểm của suy luận:
 Bất kì một suy luận nào cũng gồm có: tiền đề, kết luận và lập luận. Tiền đề (còn gọi là phán
đoán xuất phát) là phán đoán chân thực đã biết trước. Kết luận là phán đoán mới thu được bằng con
đường lập luận logic từ các tiên đề. Cách thức logic để rút ra kết luận gọi là lập luận.
 Trong quá trình lập luận để có thể rút ra được kết luận (tri thức mới) chân thực phải có hai
điều kiện:
 Các tiền đề của suy luận phải chân thực (điều kiện cần).
 Phải tuân theo các quy tắc logic của lập luận (điều kiện đủ).
Căn cứ vào cách thức suy luận, logic học phân ra làm 2 loại suy luận:
i. Suy luận diễn dịch
Là suy luận trong đó lập luận đi từ cái chung đến cái riêng, cái đơn nhất.
Trong dạy học vật lý ta thường dùng các suy luận diễn dịch sau:
 Luận ba đoạn nhất quyết đơn: Luận ba đoạn là loại suy luận suy diễn có hai tiền đề dưới dạng
phán đoán đơn, trong đó xác lập mối quan hệ giữa các thuật ngữ biên trong kết luận trên cơ sở quan
hệ của chúng đối với các thuật ngữ giữa trong tiền đề.
 Luận ba đoạn rút gọn: Luận ba đoạn bỏ qua một phán đoán gọi là luận hai đoạn hay luận ba
đoạn rút gọn.

 Suy luận có điều kiện thuần túy: suy luận có điều kiện thuần túy là suy luận diễn dịch, trong
đó hai tiên đề và kết luận là những phán đoán có điều kiện.
Mỗi hình thức suy luận đều có các loại hình, và tương ứng với mỗi loại hình đều có các quy tắc
xác định.
ii. Suy luận quy nạp
Là suy luận trong đó kết luận là tri thức chung được khái quát từ các tri thức ít chung hơn hay đi
từ cái riêng đến cái chung.
Tiến trình của suy luận quy nạp diễn ra theo sơ đồ:
A, B, C, D… có thuộc tính P.
A, B, C, D… thuộc lớp S.
Tất cả S có thuộc tính P.
Muốn suy luận quy nạp đạt đến chân lý cần phải tuân theo hai điều kiện sau:
 Kết luận của suy luận quy nạp là tin cậy khi nó được khái quát từ các dấu hiệu bản chất.
 Suy luận quy nạp chỉ được sử dụng khi các đối tượng là cùng loại, tương tự.
Căn cứ vào tính trọn vẹn hay không trọn vẹn của ngoại diên đối tượng của tư tưởng logic học
chia ra làm 2 loại quy nạp:
Quy nạp hoàn toàn là suy luận trong đó kết luận chung về lớp đối tượng nào đó được rút ra trên
cơ sở nghiên cứu tất cả các đối tượng của lớp đó.
Quy nạp không hoàn toàn là suy luận trong đó kết luận chung về lớp đối tượng nào đó được rút ra
trên cơ sở nghiên cứu một bộ phận đối tượng của lớp đó. Trong loại quy nạp này người ta chú ý đến
quy nạp khoa học là quy nạp dựa trên dấu hiệu bản chất của một số đối tượng của lớp mà rút ra khái
niệm chung về bản chất của lớp.
1.1.3.2. Các quy luật cơ bản của logic học
Ở đây ta chỉ chú trọng đến hình thức của tư duy logic do đó, ta sẽ nghiên cứu về các quy luật của
logic hình thức. [22]
i. Quy luật đồng nhất
“Mỗi sự vật luôn đồng nhất với chính nó”.
Quy luật này đảm bảo cho tư duy có tính xác định. Chừng nào sự vật, hiện tượng vẫn là nó chưa
bị biến đổi thành cái khác thì nội hàm của khái niệm về sự vật đó phải được giữ nguyên, phải được
đồng nhất.

Việc nhận thức đầy đủ và vận dụng đúng đắn quy luật đồng nhất tạo điền kiện đầu tiên và cơ bản
quyết định việc hình thành tính nhất quán rõ ràng, chính xác, mạch lạc và khúc chiết trong quá trình
lập trong tư duy.
ii. Quy luật cấm mâu thuẫn
“Trong cùng một quan hệ và cùng một lúc, một sự vật không thể vừa là A, vừa không là A”
Quy luật đảm bảo cho tư duy có tính nhất quán. Hai ý kiến trái ngược nhau về cùng một sự vật,
được xem xét trong cùng một thời gian và cùng một mối quan hệ thì không thể đồng thời là chân
thực. Ít nhất phải có một ý kiến là giả dối.
Việc nắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật cấm mâu thuẫn giúp cho con người tránh được
những mâu thuẫn logic trong quá trình suy nghĩ nhằm hình thành tính hệ thống, rõ ràng, mạch lạc,
chính xác trong lập luận
iii. Quy luật loại trừ cái thứ ba (quy luật bài trung)
“Một sự vật trong cùng một lúc, hoặc tồn tại (nó là A) hoặc không tồn tại (nó không là A) chứ
không còn khả năng thứ ba nào khác”
Điều đó có nghĩa là hai phán đoán có hình thức logic xác định phủ định lẫn nhau, trong cùng một
quan hệ, trong cùng một thời gian thì nhất định phải có phán đoán là chân thực, một phán đoán sai,
chân lý không thể có ý kiến thứ ba.
Việc nắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật loại trừ cái thứ ba sẽ giúp nêu ra cơ sở, cách thức
chắc chắn để lựa chọn một trong hai tư tưởng, phán đoán mâu thuẫn nhau là chân thực.
iiii. Quy luật lý do đầy đủ
“Mỗi luận điểm rút ra trong quá trình lập luận, chỉ được thừa nhận là đúng đắn khi có đầy đủ
các lý do chân thực”.
Quy luật lý do đầy đủ đòi hỏi những luận điểm, quan niệm, tư tưởng…của chúng ta phải được lí
giải, chứng minh một cách chặt chẽ trên một cơ sở đủ để thể hiện sự hợp lí đúng đắn của chúng.
Điều này đảm bảo cho tư duy có tính khoa học, có sức thuyết phục.
Việc nắm vững và vận dụng đúng đắn nội dung của quy luật lý do đầy đủ giúp cho con người
luôn có ý thức về tính chân thực và lập luận có căn cứ khi đưa ra các ý kiến, các quan điểm của
mình để thuyết phục người khác.
Trong bốn quy luật của logic hình thức thì mỗi quy luật có một chức năng logic khác nhau.
Nhưng giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau. Nếu vi phạm một trong

bốn quy luật dó đều dẫn đến sự phá vỡ tư duy logic và tất yếu là dẫn đến sai lầm trong tư duy.
Ngược lại, nếu vận dụng bốn quy luật này một cách có ý thức sẽ là điều kiện cần để nhận thức đúng
thế giới khách quan.
1.1.4. Bồi dưỡng tư duy logic cho HS trong dạy học vật lý
Đối với HS ở trường THPT, logic học không được đưa vào chương trình dạy học như một môn
chính khóa như toán, lý, hóa…Do đó GV không thể dạy cho HS môn logic học trước rồi sau đó HS
mới vận dụng các quy luật logic để suy nghĩ, lập luận. GV phải bồi dưỡng tư duy logic cho HS bằng
cách thông qua việc giải quyết những nhiệm vụ cụ thể để HS tích lũy dần kinh nghiệm đến một lúc
nào đó HS sẽ tự tổng kết thành những quy tắc đơn giản thường dùng.
1.1.4.1. Nội dung bồi dưỡng tư duy logic
a. Rèn luyện thao tác tư duy và kỹ năng suy luận logic
Đối với bộ môn Vật lý để có thể hình thành được các định luật, định lý, các thuyết vật lý đòi hỏi
HS phải nắm vững được các khái niệm vật lý. Như vậy, các thao tác tư duy, các suy luận logic
thường dùng khi HS hình thành các khái niệm vật lý cũng chính là các thao tác tư duy, các phép suy
luận logic cần phải bồi dưỡng cho HS.
 Rèn luyện các thao tác tư duy
“Một trong những hình thức quan trọng của tri thức khoa học vật lý là những khái niệm vật lý.
Việc hình thành các khái niệm và việc thiết lập mối quan hệ giữa chúng được giải quyết trong quá
trình thực hiện các thao tác trí tuệ phân tích, tổng hợp, so sánh, định nghĩa, trừu tượng hóa, khái
quát hóa, hệ thống hóa và cụ thể hóa” [20]
Các thao tác tư duy bao gồm:[17]
 Phân tích là dùng trí óc để tách đối tượng tư duy thành những bộ phận, những thuộc tính,
những mối liên hệ, quan hệ để nhận thức đối tượng sâu sắc hơn.
 Tổng hợp là dùng trí óc đưa những thành phần đã được tách rời nhờ sự phân tích thành một
chỉnh thể.
 So sánh là dùng trí óc để xác định sự giống nhau, khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng.
 Trừu tượng hóa là thao tác trí tuệ trong đó chủ thể dùng trí óc gạt bỏ những thuộc tính, những
bộ phận, những quan hệ…không cần thiết về một phương diện nào đó mà chỉ giữ lại những yếu tố
cần thiết để tư duy.
 Khái quát hóa là thao tác trí tuệ trong đó chủ thể tư duy dùng trí óc để bao quát nhiều đối

tượng khác nhau thành một nhóm, một loại…trên cơ sở chúng có một số thuộc tính chung và bản
chất, những mối quan hệ có tính quy luật.
Trong các thao tác tư duy trên thì sự trừu tượng hóa, khái quát hóa và cụ thể hóa giữ vai trò chủ
yếu. Sự trừu hóa diễn ra trên cơ sở phân tích, so sánh. Kết quả của quá trình này sẽ là dữ liệu tiếp
theo cho quá trình khái quát hóa để từ đó hình thành khái niệm. Sau khi hình thành khái niệm nhờ
sự cụ thể hóa mà HS phát hiện ra những biểu hiện trong thực tế của các trừu tượng khoa học.
Ví dụ để hình thành khái niệm “chuyển động thẳng đều” HS phải quan sát nhiều chuyển động
trong thực tế, từ đó đặt ra câu hỏi: chuyển động thẳng đều có những đặc điểm gì? Quỹ đạo chuyển
động có dạng như thế nào? Tốc độ chuyển động của các vật như thế nào? Bằng cách so sánh các
chuyển động đã quan sát được, phân tích để tìm cái chủ yếu của hiện tượng, trừu xuất những cái
không chủ yếu, không bản chất của hiện tượng, từ đó định nghĩa khái niệm “chuyển động thẳng
đều”. Tiếp theo là sự cụ thể hóa, HS sẽ nhận biết những biểu hiện của khái niệm chuyển động thẳng
đều trong thực tế.
Như vậy, trong dạy học vật lý phải rèn luyện cho HS các thao tác tư duy nêu trên bằng cách tạo
cơ hội cho HS được huy động, thực tập và rèn luyện chúng.
 Rèn luyện kỹ năng suy luận logic
Trong quá trình hình thành khái niệm, xây dựng định luật, lý thuyết, ứng dụng kiến thức, những
suy luận logic như suy luận quy nạp và suy luận diễn dịch luôn được sử dụng, giữa chúng có mối
quan hệ chặt chẽ. Trong bước đầu học tập vật lý, HS đi từ những kiến thức cảm tính, cụ thể của các
sự kiện, bằng phép quy nạp đi đến nhận thức những quy luật của tự nhiên, nghĩa là đi từ cụ thể đến
trừu tượng, giai đoạn này sử dụng suy luận quy nạp. Để ứng dụng những quy luật, những lý thuyết
khái quát đã học vào giải quyết những vấn đề của thực tiễn thì phải áp dụng phép suy luận diễn
dịch. Phép suy luận diễn dịch cho phép chuyển từ trừu tượng đến cụ thể làm cho các khái niệm, các
quy luật có ý nghĩa thực tiễn.
Để cho hoạt động nhận thức đạt kết quả tốt và được thực hiện với tốc độ ngày càng nhanh thì
người GV ngoài việc rèn luyện các thao tác tư duy cần phải rèn luyện thêm cho HS các phép suy
luận logic đã nêu ở trên.
b. Rèn luyện ngôn ngữ
Như đã biết ngôn ngữ là hình thức biểu hiện của tư duy. Mỗi một khái niệm được biểu diễn bằng
một từ hay một cụm từ, mỗi một phán đoán được biểu diễn bằng một câu hay một mệnh đề, mỗi

một suy luận thì bao gồm nhiều phán đoán liên tiếp. Ngoài ra, riêng đối với bộ môn vật lý có một số
khái niệm rất gần gũi với đời sống (khái niệm công, lực, khối lượng, trọng lượng…) dẫn đến việc
HS có thể nhầm lẫn ý nghĩa vật lý của các khái niệm, đại lượng vật lý này với ý nghĩa của chúng
trong cuộc sống. Mặt khác, mỗi đại lượng vật lý thường được quy ước bằng một kí hiệu. Hệ thống
kí hiệu thường dùng là các chữ cái của hệ la tinh. Có những đại lượng có chung kí hiệu, thí dụ nhiệt
độ và thời gian cùng được kí hiệu là t, áp suất với động lượng cùng được kí hiệu là p, tần số và độ
ẩm tỉ đối cùng được kí hiệu là f…do đó HS cần phải biết để tránh nhầm lẫn trong các trường hợp
đó.
Tóm lại, do tư duy có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ. Không có ngôn ngữ làm phương tiện thì
không thể có quá trình tư duy vì ngay từ khâu mở đầu của tư duy là tình huống có vấn đề, đến quá
trình thực hiện các thao tác tư duy và cuối cùng là các sản phẩm của tư duy như khái niệm, phán
đoán, suy luận đều sử dụng ngôn ngữ. Vậy, yêu cầu đặt ra là đi đôi với việc rèn luyện các thao tác tư
duy, các kĩ năng suy luận logic là phải rèn luyện ngôn ngữ khoa học nói chung và ngôn ngữ vật lý
nói riêng cho HS.
1.1.4.2. Phương pháp bồi dưỡng
Trước khi đưa ra phương pháp bồi dưỡng tư duy logic cho HS chúng ta cần phải chú ý một số
vấn đề sau:
 Vì tư duy logic không được đưa vào phân phối chương trình học như một môn chính khóa.
Do đó, không thể dạy cho HS các khái niệm, các quy luật cơ bản của logic học trước rồi sau đó HS
mới áp dụng chúng trong quá trình nhận thức.
 Hoạt động tư duy chỉ bắt đầu từ một vấn đề nên GV cần phải xác định được vấn đề cần giải
quyết của bài học và hoạt động tư duy của HS chỉ tích cực khi vấn đề đặt ra kích thích và làm cho
HS thích thú tìm hiểu vấn đề. Muốn vậy thì người GV phải tổ chức được tình huống có vấn đề.
 Các thao tác tư duy diễn ra trong óc của GV nên HS không thể quan sát GV thực hiện chúng
như thế nào để bắt chước, và GV cũng không thấy HS thực hiện chúng như thế nào để uốn nắn và
giúp đỡ. Tuy nhiên với mục đích chính bồi dưỡng tư duy logic cho HS thì việc chuyển từ suy nghĩ
“thầm” thành suy nghĩ “nói” nghĩa là mô tả lại quá trình suy nghĩ của mình là rất quan trọng. GV
cần phải tường minh chuỗi suy luận của mình, mô tả cách thức tìm câu trả lời: đi từ dữ kiện đến ẩn
số (tư duy tổng hợp) hay đi từ ẩn số (câu hỏi) đến dữ kiện (tư duy phân tích).
Dựa vào những vấn đề đã phân tích ở trên thì việc rèn luyện các thao tác tư duy, kĩ năng suy luận

logic phải được tiến hành bằng con đường kinh nghiệm và làm thật nhiều lần bằng cách giải quyết
các tình huống có vấn đề.
Như vậy, GV có thể rèn luyện các thao tác tư duy, phép suy luận logic cho HS bằng phương
pháp sau: [20]
a. Tổ chức quá trình học tập sao cho trong từng giai đoạn xuất hiện các tình huống bắt buộc
HS phải thực hiện các thao tác tư duy và suy luận logic mới có thể giải quyết vấn đề và hoàn
thành nhiệm vụ học tập.
Muốn được như vậy GV không được cung cấp các kiến thức cho HS và HS thì chỉ ghi chép một
cách thụ động mà HS phải tự lực chiếm lĩnh các kiến thức mới, phải tích cực tham gia vào quá trình
học tập.
Những tình huống phổ biến trong đó HS phải thực hiện các thao tác tư duy là:
 Nhận biết những dấu hiệu biểu thị đặc tính của sự vật, hiện tượng.
 Tìm những yếu tố ảnh hưởng đến diễn biến của hiện tượng hoặc gây ra một biến đổi trong
tính chất của sự vật hiện tượng.
 Xác định yếu tố nào là yếu tố quan trọng nhất tác động đến diễn biến của hiện tượng, của tính
chất sự vật.
 Tìm những dấu hiệu giống nhau và khác nhau trong các sự vật hiện tượng.
 Tìm những dấu hiệu chung, tính chất chung của nhiều sự vật, hiện tượng.
 Rút ra kết luận chung sau khi quan sát nhiều hiện tượng, nhiều thí nghiệm.
 Nhận biết những biểu hiện cụ thể trong thực tế của các khái niệm trừu tượng, những mối
quan hệ thực chất.
 Tìm mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng.
 Dự đoán sự diễn biến của hiện tượng.
 Giải thích một hiện tượng.
 Bố trí một thí nghiệm để đo lường một đại lượng vật lý hay để kiểm tra một giả thuyết.
Để xây dựng tình huống vật lý tốt trước hết GV phải xác định rõ kiến thức cần xây dựng, mức độ
và yêu cầu của kiến thức đó đối với HS. Từ đó xây dựng những câu hỏi cơ bản và dự kiến được
những khó khăn mà HS gặp phải khi trả lời câu hỏi. Muốn như vậy GV phải vừa căn cứ vào tri thức
khoa học cần dạy vừa phải căn cứ vào các quan niệm, kiến thức đã có của HS liên quan đến kiến
thức cần xây dựng. Trên cơ sở của điều kiện thứ nhất, GV phải soạn thảo được một tình huống có

vấn đề giao cho HS. Đồng thời với việc soạn thảo tình huống có vấn đề GV phải chuẩn bị được các
dữ liệu cung cấp và câu hỏi cho HS giúp HS nhận thấy rằng mình có thể giải quyết được nhiệm vụ
được giao.
Các câu hỏi thường dùng trong tình huống vật lý và các thao tác tư duy tương ứng được huy động
khi HS trả lời:
Các câu hỏi thường dùng trong tình huống vật lý
Các thao tác tư duy tương ứng
được huy động
Quan sát thấy hiện tượng diễn biến như thế nào? Qua
những giai đoạn nào?
Phân tích
Quan sát thấy một đại lượng vật lý, một tính chất của sự
vật biến đổi như thế nào trong hiện tượng này, trong thí
nghiệm này?
So sánh, khái quát hóa
Có gì giống nhau, khác nhau trong các thí nghiệm? So sánh
Đối với các hiện tượng quan sát được có thể chỉ ra nguyên
nhân chung nào không?
Trừu tượng hóa khái quát hóa
Có thể rút ra kết luận gì chung sau khi khảo sát các trường
hợp nói trên?
Khái quát hóa
Trong những điều kiện cụ thể đã cho, ta có thể dự đoán
hiện tượng sẽ xảy ra như thế nào? Căn cứ vào đâu mà dự
đoán được như vậy?
Phân tích, so sánh, trừu tượng
hóa, cụ thể hóa
Hiện tượng đang xem xét tuân theo định luật nào, quy tắc
nào?
So sánh, phân tích

Giải thích vì sao hiện tượng lại xảy ra như thế? Phân tích, so sánh
Cần phải bố trí thí nghiệm như thế nào để tạo ra hiện tượng
mong muốn?
Phân tích, so sánh, cụ thể hóa
Giữa đại lượng A và đại lượng B có mối quan hệ như thế
nào trong hiện tượng này?
Phân tích, so sánh, trừu tượng
hóa, khái quát hóa
Trên cơ sở của hai điều kiện trên GV dự định tiến trình định hướng giúp đỡ HS một cách hợp lí,
phù hợp, đảm bảo cho HS giải quyết thành công từng bước một, điều này sẽ tạo cho HS một tâm trạng
phấn khởi, kích thích cho HS giải quyết các nhiệm vụ khác cao hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
việc phát triển tư duy của HS.
Ngoài các điều kiện cơ bản trên GV cần lưu ý rằng một tình huống thích hợp là một tình huống
có thể định hướng cho HS tự tìm tòi. Do đó, GV phải luôn có sự linh hoạt, luôn dựa vào đối tượng
HS để có thể tổ chức, tìm ra được tình huống phù hợp với các đối tượng đó. Trong quá trình thảo
luận, hợp tác giữa GV và HS, giữa HS với nhau phải luôn tạo không khí thoải mái, dân chủ, thuận
lợi cho HS bày tỏ ý kiến của mình. GV phải làm cho HS tin tưởng vào bản thân họ, khích lệ mỗi
thành công dù là nhỏ của HS. Đồng thời phải có những thông tin phản hồi chính xác để giúp HS uốn
nắn, sửa chữa những sai lầm của mình.
b. GV phân tích các câu trả lời của HS để chỉ ra được chỗ sai trong khi thực hiện các thao
tác tư duy, suy luận logic và hướng dẫn HS cách sửa chữa
Những sai lầm HS thường gặp là do các nguyên nhân sau đây:
 Không nhận ra những dấu hiệu đặc trưng của sự vật, hiện tượng;
 Không phát hiện ra những biến đổi bên ngoài của các sự vật, hiện tượng;
 Không nhận biết được những dấu hiệu bên ngoài của sự vật, hiện tượng có quan hệ với các
khái niệm trừu tượng nào của vật lý;
 Không phân biệt những biến đổi có tính ngẫu nhiên và những biến đổi có tính quy luật;
 Không nắm được những khái niệm, những định luật vật lý cần thiết phải biết trước khi xây
dựng một phán đoán hay một suy luận;
 Không thực hiện phép suy luận phù hợp với các quy tắc, quy luật của logic học.

Để sửa chữa những sai lầm đó của HS thì GV phải thực hiện một cách công phu, tỉ mỉ theo ba
hướng:
 Bổ sung, ôn tập lại cho HS những kiến thức cần có đã được học;
 Tổ chức cho HS quan sát lại hiện tượng sau khi đã định hướng rõ hơn mục đích quan sát và
kế hoạch quan sát;
 Yêu cầu HS phát biểu rõ từng giai đoạn của suy luận để phát hiện chỗ đúng, chỗ sai trong
từng giai đoạn.
c. GV có thể rèn luyện tư duy logic cho HS bằng cách hướng dẫn HS khái quát hóa kinh
nghiệm thực hiện những phép suy luận logic dưới dạng một số quy tắc đơn giản
Như đã nói trong quá trình tư duy HS phải sử dụng các suy luận, mà các suy luận này phải tuân
theo các quy tắc, quy luật của logic học. Mặc dù ta không dạy tường minh các khái niệm và quy tắc
của logic học nhưng thông qua việc dạy học vật lý ta vẫn có thể cho HS làm quen dần với các quy
tắc, quy luật đặc thù của logic học dưới dạng đơn giản và được lặp đi, lặp lại nhiều lần đến một lúc
nào đó HS sẽ tự thực hiện được các phép suy luận đó.
Ví dụ như luận hai đoạn thường được dùng để:
 Dự đoán hiện tượng: dựa vào quy tắc hay định luật đã biết ta có thể dự đoán được là “Nếu có
điều kiện A thì sẽ xảy ra hiện tượng B”. Ví dụ: nếu có lực tác dụng lên vật thì vật sẽ biến đổi chuyển
động.
 Giải thích hiện tượng: giải thích hiện tượng trong vật lý là nói rõ hiện tượng đó xảy ra theo
định luật nào, do tính chất nào của sự vật hiện tượng chi phối. Dựa vào định luật, quy tắc đã biết ta
đưa ra phán đoán “A chính là nguyên nhân duy nhất gây ra hiện tượng B”. Ví dụ: Vật biến đổi
chuyển động vì chịu tác dụng của lực.
Hoặc suy luận quy nạp thường dùng để:
 Tìm nguyên nhân của hiện tượng: khi có hiện tượng A thì luôn có hiện tượng B, khi không
có A thì không có B, vậy A là nguyên nhân của B.
 Tìm mối quan hệ hàm số giữa hai đại lượng vật lý: cho một đại lượng tăng hoặc giảm hai, ba,
bốn lần rồi quan sát xem đại lượng kia biến đổi như thế nào.
d. Rèn luyện ngôn ngữ vật lý cho HS
Rèn luyện ngôn ngữ cho HS nhất là ngôn ngữ của các khái niệm, các đại lượng, các định luật vật
lý là một nội dung cơ bản của bồi dưỡng tư duy logic.

Để làm được điều này trước hết đòi hỏi các khái niệm, đại lượng, định luật vật lý phải được giảng
dạy chính xác, đầy đủ và có hệ thống. Việc nắm vững các khái niệm, các đại lượng, các định luật
vật lý không phải chỉ diễn ra đầu HS mà phải được HS phát biểu thành lời thông qua việc mô tả các
hiện tượng vật lý, giải thích chúng, tìm trong các hiện tượng đang nghiên cứu những đại lượng đặc
trưng và các định luật chi phối các hiện tượng.
Ngoài việc yêu cầu HS phát biểu thành lời có thể yêu cầu HS viết ra giấy. Cần tránh việc chỉ yêu
cầu HS phát biểu lại nguyên văn các định nghĩa, định luật đơn thuần. Trong BTVL thì có thể yêu
cầu HS phân tích hiện tượng, phân tích dữ kiện, phân tích kết quả đạt được. Trong thí nghiệm cho
HS phát biểu mục đích, cách tiến hành, sơ đồ thí nghiệm, nhận xét kết quả làm được. Trong giờ ôn
tập, củng cố cho HS hệ thống hóa các kiến thức đã học theo một trình tự logic, chặt chẽ với cách
trình bày ngắn gọn, chính xác…
Rõ ràng với mục đích này thì các câu hỏi bài tập trắc nghiệm khách quan dưới dạng đúng/ sai hay
nhiều lựa chọn là không thể phát huy tác dụng.
Tóm lại, để rèn luyện ngôn ngữ cho HS thì GV phải tìm cách sao cho HS phát biểu thành lời hay
viết ra giấy càng nhiều càng tốt. Vì dựa vào những phát biểu và những bài viết này GV mới có thể
uốn nắn, chỉnh sửa những sai lầm của HS trong quá trình tư duy từ đó góp phần bồi dưỡng tư duy
logic cho HS.
1.2. Bài tập định tính (BTĐT) về vật lý
1.2.1. Khái niệm về BTĐT
BTĐT là loại bài tập khi giải HS không cần phải thực hiện những phép tính phức tạp mà HS phải
sử dụng những suy luận logic, dựa trên những định luật vật lý, hoặc dùng phương pháp đồ thị, thí
nghiệm, nếu cần có thể sử dụng những phép tính đơn giản có thể nhẩm được. [19]
1.2.2. Vị trí, vai trò của BTĐT trong việc thực hiện các nhiệm vụ của dạy học vật lý ở trường
THPT
Xuất phát từ mục tiêu và nhiệm vụ chung của đất nước đồng thời dựa vào đặc điểm nội dung mà
bộ môn vật lý ở THPT có những nhiệm vụ sau:
 Nhiệm vụ giáo dưỡng: trang bị cho HS kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có hệ thống về
vật lý.
 Nhiệm vụ phát triển: phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề ở HS,
rèn luyện những thao tác tư duy, những hành động, phương pháp nhận thức cơ bản nhằm giúp HS

chiếm lĩnh kiến thức vật lý, vận dụng sáng tạo để giải quyết vấn đề trong học tập và hoạt động thực
tiễn sau này.
 Nhiệm vụ giáo dục: bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng, giáo dục lòng yêu nước,
thái độ đối với lao động, đối với cộng đồng và những đức tính khác đối với người lao động.
 Nhiệm vụ giáo dục kĩ thuật tổng hợp và hướng nghiệp: góp phần giáo dục kĩ thuật tổng hợp
và hướng nghiệp cho HS.
Những nhiệm vụ trên không tách rời nhau mà luôn gắn liền nhau, hỗ trợ nhau. Tuy nhiên, trong
những nhiệm vụ đó thì hai nhiệm vụ quan trọng nhất là trang bị kiến thức và phát triển tư duy khoa
học cho HS, vì hai nhiệm vụ này sẽ là cơ sở cho việc thực hiện các nhiệm vụ còn lại, nhiệm vụ phát
triển là động lực đồng thời là mục đích cuối cùng của quá trình dạy học.
Muốn bồi dưỡng tư duy khoa học thì trước tiên phải bồi dưỡng tư duy logic vì đây là một trong
hai bộ phận hợp thành của tư duy khoa học. Và một trong những cách để bồi dưỡng tư duy logic
cho HS là cho HS luyện tập với các BTĐT. Vì bản thân các BTĐT rất có ưu thế trong việc bồi
dưỡng các thao tác tư duy, các phương pháp suy luận logic cho HS (vấn đề này sẽ được trình bày kĩ
hơn ở phần 1.3.2 và 1.3.3). Mặt khác, BTĐT do không có những phép biến đổi toán học phức tạp,
không bị mặt toán học làm lu mờ bản chất vật lý của hiện tượng nên còn giúp cho HS khắc sâu các
kiến thức và hiện tượng vật lý đã học. Khi xây dựng kiến thức HS đã nắm được cái chung, cái khái
quát của các khái niệm, định luật và cũng là cái trừu tượng thì khi giải bài tập HS sẽ nắm bắt được
những biểu hiện cụ thể của chúng.
Như vậy, vị trí và vai trò của BTĐT trong việc thực hiện các nhiệm vụ của dạy học vật lý ở
trường THPT có thể được thể hiện bằng sơ đồ 1.3:

Theo sơ đồ 1.3 chúng tôi muốn chỉ ra rằng có thể nói BTĐT giữ một vai trò rất quan trọng trong
việc thực hiện các nhiệm vụ của dạy học vật lý ở trường phổ thông. Nếu sử dụng BTĐT bồi dưỡng
tư duy logic cho HS, giúp trình độ tư duy của HS phát triển thì HS có thể thu nhận kiến thức một
cách sâu sắc, vững chắc. Khi hai nhiệm vụ phát triển tư duy và cung cấp kiến thức phổ thông cho
HS được thực hiện tốt thì nó sẽ góp phần to lớn vào việc thực hiện hai nhiệm vụ còn lại. Bởi vì thế
giới quan khoa học chỉ có thể hình thành và phát triển trên cơ sở vốn kiến thức khoa học của mỗi cá
nhân. Thế giới quan là sự khái quát hóa cao những hiểu biết của con người về những đặc tính, quy
luật vận động của thế giới vật chất. Sự khái quát ấy chỉ có thể thực hiện được khi HS có một trình

độ tư duy phát triển và sự khái quát ấy cũng chỉ có thể trở thành niềm tin sâu sắc khi ta thực sự tin ở
những quy luật cụ thể của vật lý học, của khoa học mà ta nghiên cứu.
Vật lý học ở trường phổ thông là vật lý thực nghiệm và những phát minh của vật lý được ứng
dụng rất nhiều trong đời sống và trong kĩ thuật. Việc rèn luyện tư duy cho HS là vô cùng cần thiết
để giúp HS có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa quan sát, thí nghiệm và suy luận lý thuyết để đạt sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
1.2.3. Các loại BTĐT
1.2.3.1. Phân loại BTĐT
Theo logic học việc phân loại cần xác định dấu hiệu phân loại. Với đối tượng là BTVL nếu dựa
vào phương tiện giải có thể phân chia bài tập thành các dạng: BTĐT, bài tập định lượng, bài tập thí
nghiệm, bài tập đồ thị, nếu dựa vào mức độ khó khăn của bài tập đối với HS thì có thể chia BTVL
thành bài tập tập dượt, bài tập tổng hợp và bài tập sáng tạo.
Theo ý kiến riêng, chúng tôi cho rằng có thể phân loại bài tập dựa vào vấn đề mà bài tập đó đang
đề cập và hình thức trình bày bài giải. Nghĩa là bài tập đó đang đề cập về mặt định tính hay định
lượng của sự vật, hiện tượng mà ta đang giải quyết, khi giải phải viết lời giải ra hay chỉ chọn đáp án
hoặc điền khuyết. Với cách phân loại trên ta có thể phân loại BTVL như sơ đồ 1.4:
Tư duy khoa học
Tư duy logic
BTĐT
Ki
ến thức phổ thông

Thế giới quan duy vật
biện chứng
Giáo d
ục kĩ thuật tổng hợp
và hướng nghiệp cho HS.

Sơ đồ 1.3. Vị trí, vai trò của BTĐT trong việc thực hiện các nhiệm vụ của dạy
học vật lý ở trường THPT


Với mỗi dạng bài tập có thể sắp xếp theo mức độ tăng dần về độ khó, về thao tác tư duy. Ta lại có
thể phân loại BTĐT thành các loại: BTĐT tập dượt, BTĐT tổng hợp và BTĐT sáng tạo.
 BTĐT tập dượt: là bài tập mà học sinh chỉ cần áp dụng một định luật, một qui tắc hoặc một
phép tính suy luận là có thể giải được. Ví dụ: Tại sao khi xe thắng gấp, người ngồi trên xe bị chúi về
phía trước?
 BTĐT tổng hợp: là loại bài tập mà phải áp dụng một chuỗi các phép suy luận logic dựa trên
cơ sở các định lý, định luật, qui tắc vật lý có liên quan mới có thể giải được. Ví dụ: tại sao 2 dây dẫn
điện song song có dòng điện chạy qua chúng cùng chiều thì chúng hút nhau?
 BTĐT sáng tạo: là loại bài tập khi giải không chỉ dựa vào vốn kiến thức của mình về các qui
tắc, định luật đã biết mà bắt buộc học sinh phải có những ý kiến độc lập mới mẻ, không thể suy ra
một cách logic từ những kiến thức đã học. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm cách đo đường
kính của một sợi chỉ, cho phép HS được chọn thêm tối đa hai dụng cụ khác.
Trong mỗi dạng BTĐT tập dượt, BTĐT tổng hợp, BTĐT sáng tạo lại hàm chứa hai dạng cơ bản
nữa đó là BTĐT giải thích hiện tượng và BTĐT dự đoán hiện tượng xảy ra.
1.2.3.2. Hình thức thể hiện
 BTĐT dưới dạng câu hỏi bằng lời:
Ví dụ: hãy giải thích tại sao khi chẻ than chì thì chẻ theo bề dọc dễ hơn là chẻ theo bề ngang?
Ví dụ: Tại sao cá có thể sống được ở những hồ nước đã bị đóng băng trên bề mặt.
 BTĐT dưới dạng đồ thị, hình ảnh hay sơ đồ:
Ví dụ: Dựa vào hình chụp bên hãy cho biết hình này mô tả hiện tượng dính ướt
hay không dính ướt?

Ví dụ: Dựa vào đồ thị sau, hãy cho biết hướng chuyển động của các xe. So sánh vận tốc của xe 1
và xe 2.
BTVL

Bài tập tự luận

Bài tập trắc nghiệm khách quan

BTĐT

Sơ đồ 1.4. Phân loại BTVL
Bài tập
luy
ện tập
Bài tập
t
ổng hợp
Bài tập
sáng t
ạo
Bài tập định lượng

×