Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

tài liệu ôn thi triết sau đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.55 KB, 18 trang )

I. (11-ok) Những hình thức cơ bản của thế giới quan. Chức năng của thế
giới quan triết học.
1) Thế giới quan và thế giới quan khoa học
− Thế giới quan là gì? Là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới.
con người sống trên thế giới dù muốn hay không, họ vẫn phải tìm hiểu về những thứ
xung quanh mình. Bao hàm cả những cái thuộc về thế giới tự nhiên, trong xã hội loài
người, những cái thuộc về con người, thuộc xã hội loài người.
− Nguồn gốc của thế giới quan: là kết quả của quá trình nhận thức của con người, suy cho
đến cùng nó là kết quả của cả những yếu tố chủ quan và những yếu tố khách quan, của cả
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Hình thành thế giới quan là một quá trình tất
yếu mà chủ thế của nó là cá nhân hay cộng đồng xã hội.
− Nội dung: thế giới quan phản ánh thế giới ở 3 góc độ: 1. Các đối tượng bên ngoài chủ
thể; 2. Bản thân chủ thể và 3. Mối quan hệ giữa 2 chủ thể và bên ngoài chủ thể. Ba góc
độ này vừa thể hiện ý thức con người về thế giới vừa thể hiện ý thức con người về chính
bản thân mình.
− Hình thức: các quan điểm, quan niệm rời rạc, hoặc hệ thống lý luận chặt chẽ.
− Cấu trúc: rất phức tạp, nhưng khái quát có 2 yếu tố cơ bản và quan trọng nhất là: tri thức
và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp của thế giới quan, song nó chỉ gia nhập vào thế
giới quan khi nó đã trở thành niềm tin để hình thành lý tưởng, động cơ thôi thúc con
người hành động. Một thế giới quan hoàn chỉnh, vững chắc là 2 yếu tố tri thức và niềm
tin của con người phải thống nhất với nhau, để con người hoạt động theo niềm tin và tri
thức của mình.
− Chức năng: thế giới quan có rất nhiều chức năng như nhận xét, đánh giá, nhận thức,
nhận định… nhưng chức năng quan trọng nhất là chức năng định hướng cho hoạt động
của con người, định hướng cho toàn bộ cuộc sống của con người. định hướng cho quan
hệ con người, định hướng cho hệ giá trị con người, từ cách đi cách đứng của con người.
2) Những hình thức cơ bản của của thế giới quan
Xét theo lịch sử tức tri thức và niềm tin con người không cố định, luôn phát triển theo
thời gian, phát triển theo hoạt động nhận thức của con người ta có thể phân thành 3 hình thức cơ
bản sau: thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học. Mỗi thế giới
quan biểu hiện niềm tin khác nhau, tri thức khác nhau.


a) Thế giới quan huyền thoại
Là thế giới quan xuất hiện sớm nhất trong XH loài người, khi con người tách khỏi thế giới động
vật, con người đã có tri thức, niềm tin, tức có thế giới quan.
− Hình thức thể hiện: thế giới quan huyền thoại thể hiện qua các câu chuyện thần thoại
của các dân tộc. Dân tộc nào cũng có những câu chuyện thần thoại của mình, đọc truyện
thần thoại các nước sẽ hiểu các quan niệm, quan điểm của các dân tộc đó thời kì đầu như
thế nào.
− Tính chất: Tất cả các sự kiện, tất cả các quá trình, tất cả cái thuộc về quan điểm, quan
niệm cuộc sống, tất cả những cái thuộc về không gian, thời gian, những yếu tố Thần–
Người, Thực-ảo, Gần-Xa, Trước-Sau… không theo một trật tự mà đảo lộn, đảo lộn một
cách không tự giác. Tất cả những điều trên được truyền từ đời này qua đời khác qua
truyền miệng, tri thức và niềm tin truyền từ người này qua người khác từ trí tưởng tượng,
suy luận của người dẫn chuyện dẫn đến những sai lệch.
− Trình độ nhận thức: thế giới quan huyền thoại thể hiện trình độ nhận thức thấp của con
người, chỉ dừng lại ở sự nhận thức theo cảm tính nên những gì hình tượng được con
người hình dung dưới dạng sự vật hữu hình cụ thể.
b) Thế giới quan tôn giáo
Là thế giới quan có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu nhiên đối với thế
giới, thế giới quan tôn giáo có niềm tin cao hơn lý trí, tuyệt đối hóa vai trò niềm tin. Niềm tin này
được thể hiện qua các hoạt động.
− Hình thức thể hiện: thế giới quan tôn giáo thể hiện qua giáo lý của các tôn giáo.
− Tính chất: Niềm tin cao hơn lý trí, yếu tố ảo lấn át thực. Nặng tính hư ảo, tuyệt đối hóa
yếu tố thần thánh, vai trò con người bị hạ thấp.
− Trình độ nhận thức:thế giới quan tôn giáo ra đời khi trình độ nhận thức và khả năng
hoạt động thực tiễn của con người còn rất thấp nên con người bất lực, sợ hãi trước những
lực lượng tự nhiên cũng như những lực lượng xã hội dẫn đến việc họ thần thánh hoá
chúng, quy chúng về sức mạnh siêu tự nhiên và tôn thờ chúng.
c) Thế giới quan triết học
Ra đời khoảng giữa thế kỉ 8 trước công nguyên, khi các học thuyết triết học ra đời. Trong
thế giới quan triết học, các học thuyết triết học là bộ phận quan trọng nhất vì nó chi phối tất cả

những quan điểm, quan niệm còn lại của thế giới quan.
− Hình thức thể hiện: Thể hiện chủ yếu qua các học thuyết triết học. Thế giới quan triết
học thể hiện các quan điểm, quan niệm và chứng minh các quan điểm, quan niệm bằng lý
luận về con người, những vần đề xung quanh con người, mối quan hệ giữa con người và
môi trường xung quanh.
− Tính chất: đề cao vai trò của tri thức lý tính. Tính chất của thế giới quan triết học bị tính
chất của các học thuyết triết học qui định. Có thể chia thành thế giới quan duy tâm hay
thế giới quan duy vật; thế giới quan khoa học hay thế giới quan phản khoa học.
− Trình độ nhận thức: nhận thức lý tính.Thế giới quan triết học ra đời khi nhận thức của
con người đã đạt đến trình độ cao của sự khái quát hoá, trừu tượng hoá và khi các lượng
lượng xã hội đã ý thức được sự cần thiết phải có định hướng về tư tưởng để chỉ đạo cuộc
sống.
3) Lịch sử phát triển thế giới quan duy vật
Thế giới quan duy tâm là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần và
thừa nhận vai trò quyết định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất nói chung, đối với
con người, xã hội loài người nói riêng. Có nhiều cấp độ: thô sơ, tôn giáo, triết học tùy theo trình
độ của nhà triết học duy tâm.
Thế giới quan duy vật là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thừa
nhận vai trò quyết định của vật chất đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị
trí, vai trò của con người trong cuộc sống hiện thực. Thế giới quan duy vật khẳng định sự tồn tại
của con người và vai trò quyết định của vật chất và nhấn mạnh tính năng động, tính tích cực của
con người trong cuộc sống.
Thế giới quan duy vật có 3 hình thức cơ bản:
− Thế giới quan duy vật chất phác: thể hiện trình độ nhận thức ngây thơ, chất phác của
nhà duy vật. Lao động đã chia thành lao động trí óc và lao động chân tay nhưng sản xuất
còn đơn giản, vật chất chỉ là do một hoặc một vài chất đầu tiên sản sinh ra. Hạn chế: nhận
thức phỏng đoán, chưa có căn cứ; đồng nhất vật chất với vật thể; không hiểu các hiện
tượng tinh thần, mối quan hệ tinh thần với vật chất; chỉ giải thích chứ không cải tạo thế
giới.
− Thế giới quan duy vật siêu hình: dựa trên cơ học phát triển nhưng sinh vật học chưa

phát triển, phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích đạt được nhiều thành tích nên
thiếu quan tâm đến cái toàn thể và mối liên hệ giữa các thành phần, vì vậy thế giới được
coi là vố số sự vật cụ thể tồn tại cạnh nhau trong một không gian trống rỗng. Con người
được xem như những cỗ máy. Hạn chế là tư duy máy móc, không hiểu thế giới là một quá
trình với tính cách là lịch sử phát triển của vật chất trong mối liên hệ đa dạng, phức tạp và
trong trạng thái vận động không ngừng, vĩnh viễn.
− Thế giới quan duy vật biện chứng: sử dụng thành tựu vật lý, sinh học, phương pháp
phân tích và tổng hợp, khắc phục tính siêu hình, chứng minh được tính liên hệ tồn tại
trong giới tự nhiên và trở thành một hệ thống nhận thức duy vật về thế giới trong sự vận
động và biến đổi không ngừng. Là hệ thống các quan điểm của con người về thế giới, là
hệ thống các phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ thống các giá trị để con
người đánh giá và điều chỉnh các hành vi trong hoạt động của mình, là khoa học về các
quy luật chung nhất của sự vận động phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy về các quy
luật hệ thống.
4) Chức năng cơ bản của thế giới quan triết học
Thế giới quan triết học là thế giới quan có lõi học thuyết triết học vì vậy tính chất của thế
giới quan này do tính chất của các học thuyết triết học qui định. Chức năng của thế giới quan
được thể hiện qua chức năng của triết học: chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp
luận.
− Chức năng thế giới quan: Triết học trang bị cho con người hệ thống những quan điểm,
quan niệm về thế giới; hệ thống này định hướng cho cuộc sống của con người. Triết học
ra đời với tư cách là hệ thống lý luận chung nhất về thế giới quan , là hạt nhân lý luận của
thế giới quan, đã làm cho thế giới quan phát triển lên 1 trình độ tự giác dựa trên cơ sở
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức khoa học dem lại.
− Chức năng phương pháp luận: phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ
thống các quan điệm, nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận
dụng các phương pháp trong nhận thức và trong thực tiễn. Phương pháp luận của triết học
là phương pháp luận chung nhất, với chức năng này triết học trang bị cho con người hệ
thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo để định hướng con người tìm tòi, xây dựng,
lựa chọn và vận dụng các phương pháp vào nhận thức và cuộc sống.

II. (13-ok-refs) Những hình thức lịch sử của phép biện chứng. Nội dung cơ
bản của phép biện chứng duy vật và những yêu cầu có tính nguyên tắc mà
phép biện chứng duy vật đòi hỏi.
1) Biện chứng là gì? Phép biện chứng là gì?
Trong lịch sử khái niệm biện chứng được hiểu theo nhiều nghĩa “tranh cãi”, “ngụy biện”,
“hùng biện”….
Biện chứng là khái niệm chỉ các mối liên hệ, nói đến bản thân sự vận động phát triển.
Vd: Biện chứng của tự nhiên là các mối liên hệ trong giới tự nhiên.
Phương pháp biện chứng: là phương pháp nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ với
các sự vật hiện tượng khác. Nhận thức đối tượng trong trạng thái động, nằm trong khuynh hướng
chung là phát triển.
Phép biện chứng: Phép biện chứng vừa là lý luận vừa là phương pháp. Ở góc độ lý luận:
phép biện chứng là học thuyết về các mối liên hệ, về các quy luật chi phối sự vận động phát triển
của tự nhiên, xã hội và tư duy… Ở góc độ phương pháp: phép biện chứng là hệ thống những
nguyên tắc, những yêu cầu đòi hỏi con người phải nhận thức đối tượng trong mối liên hệ, trong
sự vận động phát triển và diệt vong của đối tượng.
5) Hình thức lịch sử của phép biện chứng
Phép biện chứng phát triển qua 3 hình thức cơ bản: Phép biện chứng chất phác, Phép biện
chứng duy tâm, Phép biện chứng duy vật.
a) Phép biện chứng chất phác
Biểu hiện rõ nét ở thời cổ đại: phương Đông là quan điểm về Âm Dương, Ngũ hành, về
Dịch ở Trung Quốc; phương Tây là quan điểm của Heraclite ở Hy Lạp.
Các nhà triết học đưa ra quan điểm của mình về các mối liên hệ, về trạng thái vận động
và phát triển dựa trên cơ sở nhận thức trực quan, nặng tính ngây thơ, chất phác.
d) Phép biện chứng duy tâm
Học thuyết về các mối liên hệ, về các quy luật chi phối sự vận động và phát triển của dựa
trên quan điểm duy tâm. Đỉnh cao của phép biện chứng duy tâm được thể hiện trong học thuyết
của nhà triết học cổ điển Đức Hêghen.
e) Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật do C.Mác & Ăngghen xây dựng trên cơ sở kế thừa trực tiếp

những nội dung hợp lý trong phép biện chứng của Hêghen.
Phép biện chứng duy vật là phép biện chứng được xây dựng trên nền tảng của thế giới
quan duy vật khoa học.
Phép biện chứng duy vật không chỉ giải thích về các mối liên hệ, về trạng thái vận động
và phát triển của thế giới mà nó còn là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
6) Nội dung cơ bản của phép duy vật
Nội dung của phép biện chứng duy vật rất phong phú nhưng được khái quát thành 2
nguyên lý. 2 nguyên lý được cụ thể hóa qua các quy luật và các cặp phạm trù.
a) Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
• Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại cô lập, tách rời khỏi những sự vật, hiện tượng
khác mà chúng luôn nằm trong mối liên hệ với nhau.
• Mối liên hệ là sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc nhau, chuyển hóa lẫn nhau của các
sự vật, hiện tượng
• Những tính chất cơ bản của các mối liên hệ: Các mối liên hệ có nhiều tính chất; song có 3
tính chất cơ bản, là:
1. Tính khách quan.
2. Tính phổ biến.
3. Tính đa dạng, phong phú.
• Ý nghĩa phương pháp luận
- Nếu các mối liên hệ có tính khách quan, tính phổ biến thì trong hoạt động của mình,
con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện.
- Nếu các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú thì trong hoạt động của mình, con
người phải tôn trọng quan điểm lịch sử – cụ thể.
f) Nguyên lý về sự phát triển
• Mọi sự vật không ngừng vận động nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Nguồn
gốc của sự vận động và phát triển là mâu thuẫn của sự vật; cách thức của sự vận động và
phát triển là lượng của sự vật đổi dẫn đến chất của sự vật đổi và ngược lại; khuynh hướng
của sự vận động và phát triển diễn ra quanh co, phức tạp được thể hiện bằng đường xoáy
ốc đi lên; đây là quá trình phủ định của phủ định, trong đó cái mới ra đời thay cái cũ và
hết mỗi một chu kỳ sự vật lặp lại dường như cái ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.

• Khái niệm “phát triển”: Phát triển là quá trình vận động theo hướng từ trình độ thấp
đến trình độ cao, từ chưa hoàn thiện cho đến hoàn thiện.
• Tính chất của sự phát triển
1). Tính khách quan.
2). Tính phổ biến.
3). Tính đa dạng, phong phú.
• Ý nghĩa phương pháp luận
Nếu phát triển có tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng phong phú thì trong hoạt
động của mình, con người phải tôn trọng quan điểm phát triển.
g) Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
• Khái niệm quy luật
Quy luật là những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, tương đối ổn định, được lặp đi lặp lại
và tồn tại khách quan (tồn tại bên ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức của con người).
• Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại
Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại là quy
luật về cách thức của sự vận động và phát triển.
Khái niệm “chất”: Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, làm cho nó phân biệt
được với những cái khác
Khái niệm “lượng”: Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính khách quan vốn có về số
lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, tốc độ nhanh hay chậm, trình độ cao hay thấp, v.v. của
sự vật, hiện tượng. Lượng chưa phân biệt được sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng
khác.
Nội dung: Mọi sự vật, hiện tượng đều có chất và lượng. Chất tương đối ổn định, còn
lượng thường xuyên biến đổi. Lượng biến đổi đến một mức độ nhất định và trong những điều
kiện nhất định thì chất sẽ thay đổi. Khi đó sự vật, hiện tượng chuyển hoá. Sự vật, hiện tượng mới
ra đời có chất mới, lượng mới. Lượng vẫn thường xuyên biến đổi, nhưng sự biến đổi của lượng
mới khác sự biến đổi của lượng cũ. Sự khác nhau này do chất quy định. Như vậy, từ những thay
đổi về lượng đã dẫn đến sự thay đổi về chất; và, từ những thay đổi về chất lại đã dẫn đến sự thay

đổi về lượng.
• Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Quy luật này:
+ Được gọi tắt là “Quy luật mâu thuẫn”.
+ Là quy luật về nguồn gốc của sự vận động & phát triển.
+ Được coi là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật.
Khái niệm “mặt đối lập”: Mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng vận động ngược
chiều nhau nhưng là điều kiện, là tiền đề tồn tại của nhau.
Khái niệm “mâu thuẫn”: Mâu thuẫn là mối liên hệ của 2 mặt đối lập.
Nội dung: Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất bao gồm những yếu tố khác
nhau, liên kết với nhau tạo thành; trong đó có những yếu tố vận động ngược chiều nhau, gọi là
những mặt đối lập.
- 2 mặt đối lập tạo nên 1 mâu thuẫn.
- Những mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau.
- Đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một mức độ nhất định thì mâu thuẫn được
giải quyết. Khi đó sự vật, hiện tượng chuyển hóa.
Như vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
• Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định là quy luật về khuynh hướng của sự vận động và phát
triển.
Khái niệm “phủ định”: Phủ định là sự thay thế trạng thái tồn tại này bằng một trạng thái
tồn tại khác trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Nội dung:
Vận động, phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà là quá trình quanh co, phức tạp
được biểu diễn bằng hình xoáy ốc đi lên. Đây là quá trình phủ định của phủ định; trong đó cái
mới ra đời thay thế cái cũ và hết mỗi một chu kỳ sự vật, hiện tượng lặp lại như cái ban đầu
nhưng ở mức độ phát triển hơn.
7) Những yêu cầu có tính nguyên tắc mà phép biện chứng duy vật đòi hỏi
Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn: Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi
chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng với tất cả các mặt, các mối liên hệ; đồng thời phải đánh

giá đúng vai trò, vị trí của từng mặt, từng mối liên hệ; nắm được mối liên hệ chủ yếu có vai trò
quyết định.
Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể đòi hỏi
phải xem xét sự vật hiện tượng trong quá trình vận động phát triển: nó ra đời trong điều kiện như
thế nào? trải qua những giai đoạn phát triển như thế nào? mỗi giai đoạn có tính tất yếu và đặc
điểm như thế nào?
Nguyên tắc lịch sử cụ thể trong nhận thức và thực tiễn: Nguyên tắc phát triển đòi hỏi
khi xem xét sự vật, hiện tượng phải nhìn thấy khuynh hướng biến đổi trong tương lai của chúng:
cái cũ, cái lạc hậu sẽ mất đi; cái mới, cái tiến bộ sẽ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
III. (14-ok) Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn.
Đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn đạt được trong 20
năm đổi mới. Có được những kết quả đó là do Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn,
sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước
ta. Một trong những nguyên tắc lý luận cơ bản mà Đảng ta đã vận dụng là nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn của triết học Mac-Lênin.
Phạm trù Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận nhận thức
Macxít nói riêng, chủ nghĩa Mac-Lênin nói chung.
Trong lịch sử Triết học, các nhà triết học duy vật trước Mác không thấy được vai trò của
hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ mang tính chất trực quan.
Các nhà triết học duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu hoạt
động thực tiễn như là hoạt động tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngoài
con người, nói cách khác, họ gạt bỏ vai trò thực tiễn trong đời sống xã hội.
Mac-Ăngghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mac đã khắc phục những hạn chế trong
quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước và đưa ra quan điểm đúng đắn, khoa học về
thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, Mac- Ăngghen đã thực hiện bước
chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ hoạt động theo

bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người nhờ hoạt động
thực tiễn là hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu
cầu của mình, và để làm chủ thế giới. Trong quá trình hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra
được một “thiên nhiên thứ hai” của mình, một thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những
điều kiện mới cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn không có sẵn trong tự nhiên. Vì vậy,
không có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển
được. Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên,
chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối quan hệ với
nhận thức, vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ, thực tiễn là cơ sở, động lực chủ
yếu và trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng định “chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ
không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực
tiếp của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta cải biến
tự nhiên”.
Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính
từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức của con người được hình
thành, phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế giới buộc thế giới
phải bộ lộ ra những thuộc tính, những tính quy luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực
tiễn, nhận thức đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực nuôi dưỡng nó phát triển vì thế không thể
đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật, sẽ không có khoa học, không có lý
luận.
Trong quá trình hoạt động cải biến thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân
mình, thực tiễn rèn luyện các giác quan của con người làm cho chúng tinh tế hơn, trên cơ sở đó
phát triển tốt hơn. Nhờ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những
bí mật của nó, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra những
nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời của
các ngành khoa học.
Thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo công cụ, phương tiện máy móc mới, hỗ trợ con người
trong quá trình nhận thức, khám phá, chinh phục thế giới. Ăngghen cho rằng, nhu cầu cấp thiết
của thực tiễn, của sản xuất sẽ thúc đẩy nhận thức khoa học phát triển nhanh hơn hàng chục

trường đại học.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn của
chân lý. Theo Mac và Ăngghen thì “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới
chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề của
thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Tất nhiên, nhận thức xã
hội còn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn lôgic nhưng tiêu chuẩn lôgic không thể thay thế cho
tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Đó là tư tưởng cơ bản của Mac-Ăngghen khi đưa phạm trù thực tiễn vào nội dung của lý
luận nhận thức, tư tưởng đó đã được Lênin bảo vệ và phát triển sâu sắc hơn trong tác phẩm “Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, trong đó Lênin nhắc lại luận cương thứ hai
của Mac về Phoi-ơbăc và Người kết luận “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Tư tưởng của Lênin về vai trò của thực tiễn
đối với nhận thức vẫn đang là nguyên tắc phương pháp luận quan trọng hướng dẫn chúng ta
trong hoạt động thực tiễn, trong nghiên cứu khoa học. Nếu không bám sát thực tiễn cuộc sống
chúng ta sẽ không thể có lý luận, không thể có khoa học, không xác định nổi bất kỳ đề tài khoa
học nào với đúng nghĩa của nó.
Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức của sự phản ánh hiện thực khách quan. Trong hệ
thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên lý và các quy luật tạo nên lý luận, quy luật là hạt
nhân của lý luận, là sản phẩm của quá trình nhận thức nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh một cách gần đúng đối tượng nhận thức.
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức khái
quát tri thức kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh
nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá
trình lịch sử”. Lý luận được hình thành trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng không phải mọi
lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi
trước những dữ kiện kinh nghiệm mà vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh
nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó đem lại sự
hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan. Vì vậy,
nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng

về sự vận động bên trong thực sự.
Chủ nghĩa Mac-Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất biện chứng. Thực
tiễn là hoạt động vật chất còn lý luận là hoạt động tinh thần, nên thực tiễn đóng vai trò quyết
định trong quan hệ đối với lý luận. Lênin viết: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) nó có ưu
điểm không những của tính phổ biến mà của tính hiện thực trực tiếp”.
Tính phổ biến của thực tiễn đối với nhận thức (lý luận) thể hiện ở chỗ, thực tiễn là khâu
quyết định đối với hoạt động nhận thức. Một lý luận được áp dụng trong thời gian càng dài,
không gian càng rộng thì hiệu quả đạt được càng cao, càng khẳng định tính chân lý của thực tiễn.
Ngay cả một giả thiết khoa học muốn trở thành lý luận phải thông qua hoạt động thực nghiệm
kiểm tra, xác nhận. Như vậy, chỉ có qua hoạt động thực tiễn thì lý luận mới có giá trị tham gia
vào quá trình biến đổi hiện thực.
Hoạt động lý luận là hoạt động đặc biệt nó thống nhất hữu cơ với hoạt động thực tiễn. Vì
vậy, khi nhấn mạnh vai trò của thực tiễn đối với lý luận, chủ nghĩa Mac-Lênin cũng khẳng định
tính tích cực của sự tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn. Lênin khẳng định: “không có lý
luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động
thực tiễn. Cố nhiên để có thể giải đáp được những vấn đề của cuộc sống, lý luận phải không
ngừng liên hệ bằng những hình thức khác nhau với thực tiễn. Cho nên, thực chất vai trò của lý
luận đối với thực tiễn là ở chỗ lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những
quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan.
Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, chỉ ra những phương
hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học làm cho con người trở nên chủ
động, tự giác, hạn chế tình trạng “mò mẫm”, tự phát. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ví “không có
lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh
hiện thực nên lý luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng. Vì thế, không được
cường điệu vai trò của lý luận, mặt khác không được xem nhẹ thực tiễn và tách rời lý luận với
thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động cách mạng.
Trong Triết học Macxit và trong chủ nghĩa Mac-Lênin, sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn như một thuộc tính vốn có, một đòi hỏi nội tại. Nguyên tắc này có ý nghĩa to lớn trong việc

nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn thống nhất với nhau dưới nhiều hình thức và
trình độ biểu hiện khác nhau. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh (khái quát) những vấn đề
của đời sống sinh động. Nhưng thước đo tính cao thấp của lý luận với thực tiễn biểu hiện trước
hết ở chỗ lý luận đó phải hướng hẳn về đời sống hiện thực, để giải quyết những vấn đề do chính
sự phát triển của thực tiễn đặt ra, và như vậy, lý luận góp phần thúc đẩy thực tiễn phát triển, bởi
vì ở bên ngoài sự thống nhất lý luận và thực tiễn, tự thân lý luận không thể biến đổi được hiện
thực, nói cách khác, hoạt động lý luận không có mục đích tự thân mà vì phục vụ thục tiễn, để cải
tạo thực tiễn.
Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là phải quán triệt được thực tiễn là
cơ sở, là động lực, mục đích của lý luận, của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lý (lý luận). Như
trên đã nói, lý luận đích thực bao giờ cũng bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Thực
tiễn quy định lý luận thể hiện ở nhu cầu, nội dung, phương hướng phát triển của nhận thức, lý
luận. Thực tiễn biến đổi thì lý luận cũng biến đổi theo, nhưng lý luận cũng tác động trở lại thực
tiễn bằng cách soi đường, chỉ đạo, dẫn đắt thực tiễn.
Trên cơ sở nhận thức và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn phải
chống bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Chúng ta coi trọng kinh nghiệm thực tiễn và không
ngừng tích lũy vốn kinh nghiệm quý báu đó.Song chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn
với vốn kinh nghiệm của bản thân, coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hóa kinh nghiệm đồng
thời coi nhẹ lý luận, ngại học tập, nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý luận, không quan tâm tổng
kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận thì sẽ rơi vào lối suy nghĩ giản đơn, tư duy áng chừng, đại
khái, phiến diện thiếu tính lôgic, tính hệ thống, do đó, trong hoạt động thực tiễn thì mò mẫm, tùy
tiện, thiếu tính đồng bộ về lý luận trong tất cả các lĩnh vực do vậy đễ rơi vào bệnh kinh nghiệm
chủ nghĩa.
Mặt khác, thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải ngăn ngừa bệnh giáo điều. Nếu
tuyệt đối hóa lý luận, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên
lý chung chung trừu tượng không chú ý đến những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý
luận thì dễ mắc bệnh giáo điều.
Thực chất những sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều đều là vi phạm nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Để ngăn ngừa, khắc phục có hiệu quả hai căn bệnh trên

phải coi trọng cả lý luận và thực tiễn.
Nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc
nghiên cứu, giải quyết các vấn đề của quá trình phát triển xã hội, nhất là trong thời đại ngày nay
khi thực tế cuộc sống đang đặt ra và đòi hỏi phải giải quyết rất nhiều những vấn đề lý luận và
thực tiễn nảy sinh của việc xây dựng, phát triển dời sống kinh tế, văn hóa của xã hội. Hơn lúc
nào hết lý luận Mac – Lênin trong sự thống nhất cao với thực tiễn phải thể hiện vai trò hướng
dẫn, chỉ đạo trong công việc, giải quyết những vấn đề cấp bách và trọng đại do cuộc sống hiện
thực đặt ra cho chúng ta trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Những thành quả mà chúng ta có được ngày hôm nay là kết quả của sự năng động, sáng tạo của
Đảng, Nhà nước ta trong quá trình vận dụng nguyên tắc thông nhất giữa lý luận và thực tiễn vào
hoàn cảnh lịch sử Việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
IV. (15-refs) Nội dung cơ bản của lý luận Hình thái kinh tế - xã hội và ý
nghĩa của lý luận này đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện
nay.
V. (18-ok) Quan điểm của triết học mác – xít về bản chất của con người và
sự vận dụng nó đối với việc phát huy vai trò nhân tố con người ở Việt Nam
hiện nay.
1) Khái niệm con người
Có nhiều quan điểm trước Mác về con người như quan điểm tôn giáo cho rằng con người
do Thượng đế tạo ra hay theo chủ nghĩa duy tâm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối;
ngay cả các quan điểm duy vật trước Mác cũng chỉ thấy mặt sinh học của con người mà chưa
thấy vai trò quyết định của mặt xã hội và hoạt động thực tiễn của con người. Còn quan điểm Mác
cho rằng con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội:
− Con người tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật, cho dù là động vật cao cấp thì
cũng là sinh vật. Nếu xét ở cấp độ sinh vật thì con người có bản chất tự nhiên của động
vật, thể hiện đa dạng phong phú (con người có nhu cầu bản năng của giới động vật, đói
muốn ăn, khát thì uống nước, …). Nhu cầu sinh tồn là quan trọng nhất. Nếu chỉ dừng xét
ở đây thì con người và con vật chẳng khác gì nhau.
− Con người tồn tại từ động vật mà ra nhưng với tư cách xã hội, chính các hoạt động xã
hội, trước hết và quan trọng nhất là hoạt động lao động sản xuất đã làm con người tách

khỏi động vật; nhờ quá trình lao động tuy rất chậm chạp nhưng cực kỳ chắc chắn, khắc
hẳn về chất so với động vật. Theo C.Mác và Ăng-ghen: “Người là giống vật duy nhất có
thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật”.
− Con người là một thành viên của xã hội, không bao giờ sống tách khỏi xã hội. Mối liên
hệ của người này đối với người khác, xét góc độ thực thể xã hội, con người có bản chất
xã hội của con người (một trong thể hiện rõ nét nhất, trong khi con người thực hiện các
nhu cầu mang tính bản năng thì con người luôn chú ý tính nhu cầu của cộng đồng, xã hội,
khoảng cách giữa người và vật gần hay xa phụ thuộc rất nhiều vào cái này).
− Nhu cầu của con người thành văn hoặc bất thành văn nếu thuần túy xử sự theo bản năng
thì khoảng cách giữa con người và con vật rất gần.
− Hai mặt sinh vật và xã hội ở con người hợp thành một thể thống nhất có quan hệ khắng
khít không thể tách rời nhau; thực thể sinh vật là tiền đề mà trên cơ sở đó thực thể xã hội
tồn tại. Trong đó mặt sinh vật là nền tảng vật chất tự nhiên của con người nhưng không
phải là yếu tố quyết định bản chất con người; mặt xã hội mới mới là mặt giữ vai trò quyết
định bản chất của con người. Do đó, khi đánh giá con người, phải căn cứ vào cả sinh vật
và xã hội.
a) Bản chất con người
Trong khi khẳng định: “Con người là thực thể sinh vật – xã hội” và là chủ thể của lịch sử,
C.Mác đồng thời khẳng định: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội”. Quan điểm của C.Mác cho thấy:
− Bản chất con người hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực. Đấy là những
con người cụ thể, sống trong những điều kiện cụ thể mà ở đó những mặt khác nhau tạo
nên bản chất của con người sẽ được bộc lộ ở những mức độ cụ thể.
− Tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất của con người. Các quan
hệ này không kết hợp với nhau theo phép tính cộng mà chúng tổng hòa, nghĩa là chúng
có vị trí, vai trò khác nhau nhưng chúng không tách rời nhau, mà tác động qua lại lẫn
nhau, thâm nhập lẫn nhau.
Có nhiều cách tiếp cận để tìm hiểu về tổng hòa những mối quan hệ xã hội:
− Nếu xét theo thời gian thì đó là những quan hệ quá khứ, quan niệm hiện tại và quan hệ

tương lai, trong đó suy cho cùng thì những quan hệ hiện tại giữ vai trò quyết định.
− Nếu xét theo các loại quan hệ thì đó là những quan hệ vật chất và những quan hệ tinh
thần, trong đó suy cho đến cùng thì những quan hệ vật chất giữ vai trò quyết định.
− Nếu xét theo tính chất đó là những quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên, ngẫu nhiên, ổn
định, không ổn định, v.v… trong đó suy cho đến cùng thì những quan hệ trực tiếp, tất
nhiên, ổn định giữ vai trò quyết định.
− Nếu cụ thể hóa các quan hệ (quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ kinh tế,
quan hệ chính trị, quan hệ tôn giáo, quan hệ đạo đức,v.v…) thì con người có bao nhiêu
quan hệ sẽ có bấy nhiêu quan hệ góp phần hình thành nên bản chất của con người, trong
đó suy cho đến cùng thì các quan hệ kinh tế hiện tại, trực tiếp, ổn định giữ vai trò quyết
định. Trong quan hệ kinh tế thì quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng hơn cả.
Khi các quan hệ xã hội thay đổi thì sớm hay muộn bản chất con người cũng có sự thay
đổi. Như vậy, bản chất của con người không phải được sinh ra mà được sinh thành, nó hình
thành và thay đổi theo sự hình thành và thay đổi của các quan hệ xã hội; trong đó, trước hết và
quan trọng nhất là các quan hệ thuộc lĩnh vực kinh tế.
h) Định hướng giải phóng con người
− Quan điểm của triết học Mác – Lênin về định hướng giải phóng con người là để con
người có thể phát huy tối ưu khả năng của con người.
− Mỗi người có một khả năng khác nhau, có người bộc lộ được khả năng đó, có người thì
không. Giải phóng con người là tạo điều kiện để con người phát huy tối ưu khả năng của
mình.
− Chính các mối quan hệ xã hội đã mở đường hoặc chặn lối việc giải phóng con người;
trong đó, yếu tố quyết định là mối quan hệ kinh tế. Muốn khả năng con người được phát
huy tối ưu thì phải từng bước phá bỏ tất cả các quan hệ xã hội đang kìm hãm tài năng của
con người, mà suy đến cùng có nghĩa là xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất; bởi vì,
chế độ này sản sinh ra hiện tượng tha hóa con là người, tha hóa lao động.
2) Đối với Việt Nam, việc phát huy nhân tố con người là một lộ trình giải phóng con
người
a) Trong lĩnh vực kinh tế
− Nâng cao vị thế người lao động trong quá trình sản xuất

− Khai thác và phát huy tinh thần tự giác, sáng kiến của người lao động trong việc đóng
góp ý kiến, xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
− Thực hiện dân chủ hoá trong lao động sản xuất, đảm bảo sự công bằng, công khai, bình
đẳng đối với người lao động.
b) Trên lĩnh vực chính trị
− Nâng cao trình độ, nhận thức chính trị xã hội cho cán bộ Đảng viên và nhân dân lao
động, nâng cao năng lực trách nhiệm của mỗi cá nhân trong qua trình xây dựng và phát
triển đất nước.
− Tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động tham gia vào việc quản lý đất nước, xã hội,
nền kinh tế, con người
− Thực hiện dân chủ hoá trong đời sống xã hội, nâng cao vai trò kiểm tra, giám sát của
nhân dân về hoạt động của bộ máy nhà nước, tham gia đấu tranh chống tham nhũng, giáo
dục tinh thần yêu nước, trách nhiệm công dân với đất nước.
c) Trên lĩnh vực xã hội
− Khắc phục, loại bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu
− Giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư, các vùng miền
− Giải quyết vấn đề về việc làm, phân công lại lao động, xoá đói giảm nghèo
− Quan tâm tới những gia đình chính sách, khó khăn, vùng sâu, vùng xa
d) Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo
− Đổi mới công tác giáo dục, đào tạo
− Tạo điều kiện để vận dụng những kiến thức đã học vào việc giải quyết những vấn đề mà
thực tiễn đặt ra
− Tăng cường phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội, các tổ chức, các đoàn thể dưới
sự lãnh đạo của đảng, sự quản lý của nhà nước trong việc thực hen nhiệm vụ giáo dục
đào tạo, đặc biệt là thế hệ trẻ
e) Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật
− Tăng cường nâng cao công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác tuyên truyền.
− Nâng cao công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật ,xây dựng văn hoá
lành mạnh

Đảng ta khẳng định: kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, kết hợp lợi ích vật
chất với lợi ích tinh thần, chăm lo lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của nhân dân, kết hợp hài
hòa các lợi ích, chú ý lợi ích cá nhân người lao động. Nguồn lực con người là cơ bản nhất của sự
nghiệp công nhiệp hóa, hiện đại hóa.
VI. (19-ok) Những mặt tích cực và những mặt hạn chế của con người Việt
Nam trong lịch sử. Vấn đề xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
1) Con người Việt Nam trong lịch sử
a) Điều kiện lịch sử hình thành con người Việt Nam
Con người Việt Nam hình thành dưới sự tác động đa dạng của các điều kiện tự nhiên và
xã hội, song trước hết phải kể đến: sự tác động của môi trường – địa lý; đời sống kinh tế; lịch sử
giữ nước; sự tác động của môi trường văn hóa.
• Sự tác động của môi trường – địa lý
Nơi khai sinh lập nghiệp của tổ tiên người Việt là vùng đất mới được bồi đắp, nằm giữa
một bên là núi và một bên là biển nên hệ thống sông ngòi thoát nước chằng chịt. Nhiều ngàn năm
sống trên vùng đất này, dấu vết sông nước đã in đậm nét trong cách tư duy và văn hóa người
Việt.
Phù sa của sông ngòi, nắng lắm, mưa nhiều của vùng nhiệt đới vừa là điều kiện lý tưởng
cho trồng trọt và chăn nuôi trên những mảnh đất đã bị sông ngòi giới hạn, vừa là những thử thách
đối với con người qua dông, bão, lũ, lụt. Những điều kiện ấy từng bước hình thành cuộc sống
tiểu nông lúa nước với tư duy tiểu nông lúa nước, văn hóa tiểu nông lúa nước cùng những phẩm
chất, năng lực cần có để chống thiên tai, giữ gìn thành quả lao động của người Việt.
Về địa lý, Việt Nam nằm ở Đông Nam châu Á – khu vực vừa có vị trí chiến lược, vừa là
nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa nên người Việt Nam chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa
khác nhau.
• Đời sống kinh tế
Nền kinh tế tiểu nông đã tác động mạnh mẽ đến người Việt trong lịch sử. Thích ứng với
nền sản suất này là những đơn vị sản xuất gia đình và những cộng đồng làng xã để hợp lực chống
thiên tai, giúp nhau trong sản xuất cũng như trong cơn hoạn nạn.
Gắn liền với cộng đồng làng xã là nền dân chủ làng xã biểu thị tập trung qua lệ làng,

hương ước. Mỗi cộng đồng có lệ làng, hương ước riêng để bảo vệ lợi ích và sự ổn định trật tự
của mình.
Nền kinh tế tiểu nông và kết cấu kinh tế, tổ chức hành chính làng xã đã hình thành ở
người Việt Nam nhiều phẩm chất đạo đức, năng lực, quan điểm, quan niệm và tầm nhìn tương
ứng.
• Lịch sử giữ nước
Việt Nam là một trong những quốc gia bị nhiều thế lực lớn, mạnh hơn về tiềm lực kinh tế
và quân sự xâm chiếm, đô hộ, có thời gian sự đô hộ kéo dài liên tục hơn mười thế kỷ.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã hình thành nên những phẩm chất và năng lực của những con
người thường xuyên phải chiến đấu trong thế trận không cân sức để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
và sự sống của mình.
• Môi trường văn hóa
Từ hoàn cảnh địa lý và lịch sử giữ nước, người Việt chịu ảnh hưởng nhiều nền văn hóa
của các dân tộc khác nhau trên thế giới trong đó nổi lên là Trung Quốc, Ấn Độ, Pháp. Có những
hệ tư tưởng của các dân tộc này đã từng là quốc giáo ở Việt Nam như Nho giáo, Phật giáo.
Đầu thế kỷ XX, qua hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, người Việt Nam tiếp cận với chủ
nghĩa Mác-Lênin và từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập thì chủ nghĩa Mác-Lênin đã
trở thành hệ tư tưởng định hướng cho cách mạng Việt Nam.
Môi trường văn hóa đa dạng đã đem đến sự đa dạng trong đời sống tinh thần của người
Việt Nam nói riêng, toàn bộ đời sống của người Việt Nam nói chung trên nền kinh tế - văn hóa
tiểu nông lúa nước.
i) Mặt tích cực và hạn chế của người Việt Nam trong lịch sử
Phẩm chất và năng lực của người Việt Nam hình thành trong môi trường tự nhiên mà
người Việt Nam sinh sống, trong những điều kiện kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội và những
yêu cầu của nó đặt ra trong từng giai đoạn lịch sử. Hiện nay cách mạng Việt Nam có những yêu
cầu mới. Từ những yêu cầu này nhìn lại, người Việt Nam có nhiều mặt tích cực nhưng cũng đã
bộc lộ nhiều hạn chế.
Những mặt tích cực của người Việt Nam trong lịch sử được Đảng Cộng sản Việt Nam coi
là một phần bản sắc của dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.

Đó là: lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn
kết cá nhân – gia đình – làng xã – tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý;
đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống.
Những mặt hạn chế của người Việt Nam trong lịch sử bộc lộ qua:
• Những hạn chế của truyền thống dân chủ làng xã
Truyền thống dân chủ làng xã là sản phẩm tất yếu của cộng đồng làng xã mà cuộc sống
tiểu nông tự cung, tự cấp đã tạo ra.Cùng với việc hình thành tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp
đỡ nhau trong cuộc sống, cộng đồng làng xã đã sản sinh dân chủ làng xã. Đây là hình thức dân
chủ sơ khai thể hiện hình thức tự quản, các thành viên trong cộng đồng giám sát nhau chủ yếu
qua dư luận của cộng đồng. Điều này thường dẫn đến tư tưởng cục bộ dòng họ, làng xã; tư tưởng
bình quân chủ nghĩa; hay can thiệp vào cuộc sống riêng tư, can thiệp vào quá trình phát triển của
cá thể; thiếu tinh thần tự giác khi dư luận cộng đồng không còn được coi trọng nên dễ hành động
tự do, tùy tiện; coi thường luật pháp, bởi “phép vua thua lệ làng”…
• Tập quán sản xuất tiểu nông
Tập quán sản xuất tiểu nông là sản phẩm của nền sản xuất tiểu nông tồn tại lâu dài. Tập
quán này dẫn đễn khả năng hạch toán kinh tế kém cỏi, nặng về lợi ích trước mắt nên dễ bỏ qua
lợi ích lâu dài; thiếu chuẩn xác về thời gian, kỹ thuật; tâm lý cầu an, cầu may; thích bình quân,
không chấp nhận sự phân hóa trong cuộc sống;…
• Đề cao thái quá kinh nghiệm
Đề cao đến mức gần như tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm là sản phẩm của nền sản
xuất nông nghiệp lúa nước, đặc biệt là nền sản xuất nhỏ, manh mún. Nền sản xuất này có quy
trình ổn định và chủ yếu chịu sự chi phối có tính ổn định của tự nhiên nên kinh nghiệm được
đánh giá rất cao. Điều này dẫn đến việc xem thường lý luận; xem thường tuổi trẻ; quyền lực
thuộc về những người lâu năm, nhiều tuổi, “sống lâu lên lão làng”…
• Tính hai mặt của một số truyền thống
Một số truyền thống của người Việt Nam cũng bộc lộ tính hai mặt của nó như sống giản
dị, ghét cầu kỳ, xa hoa là phẩm chất tốt, song dễ dẫn đến sự hạ thấp nhu cầu, trong khi nhu cầu là
một trong những động lực phát triển của xã hội; truyền thống giỏi chịu đựng gian khổ cũng là
phẩm chất tốt nhưng cũng dễ dẫn đến sự cam chịu, thỏa mãn, bằng lòng với cái hiện có…
8) Con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

a) Cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với con
người Việt Nam
Cách mạng Việt Nam đang diễn ra trong những biến đổi sâu sắc, phức tạp của thế giới;
trên những thành tựu lớn lao mà dân tộc Việt Nam đã đạt được và trước những cơ hội và những
thách thức mà người Việt Nam phải năm bắt và phải vượt qua.
Trên thế giới, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ đưa nhân loại vào
nền văn minh trí tuệ với hai đặc trưng cơ bản là xã hội hóa thông tin và kinh tế tri thức đã tạo cơ
sở vật chất cho quá trình toàn cầu hóa dẫn đến xu hướng liên kết, hợp tác ngay cả giữa các quốc
gia có chế độ chính trị khác nhau trong cuộc sống cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Cục diện chính trị thế giới thay đổi bởi sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội; sự phân hóa
của các quốc gia độc lập và khả năng tự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản.
Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, chạy đua vũ trang, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn
giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp.
Khu vực Đông Nam Á – Thái Bình Dương đang phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định.
Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển đang trở thành xu thế lớn của thời đại hiện nay.
Ở trong nước, trải qua quá trình đổi mới, cơ sở vật chất – kỹ thuật của nền kinh tế được
tăng cường. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hòa bình, sự hợp tác, liên kết
quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tạo điều kiện để người Việt Nam tiếp tục phát huy
nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đồng thời bốn nguy cơ (tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; “diễn biến hòa
bình” do các thế lực thù địch gây ra) đối với người Việt Nam đến nay vẫn tồn tại và diễn biễn
phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau. Tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo dức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân.
Việt Nam vẫn còn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp, trong khi đó cuộc
cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt.
Từ tình hình thực tế của dất nước và thế giới, từ mục tiêu chung là “độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, nhiệm vụ

của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện này là “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa”.
Thực tiễn đang đòi hỏi người Việt Nam phải đạt được những yêu cầu mới để thực hiện
nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng trong mục tiêu chung trước những diễn biến đa dạng,
phức tạp của thế giới, trước những cơ hội và thử thách của chính mình.
j) Xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng hiện
nay
Đồng thời với việc kiên trì đấu tranh chống thoái hóa, biến chất, xây dựng con người Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay là hình thành và phát triển ở con người những đức tính cơ bản sau:
− Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân
dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
− Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
− Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn
trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện mội
trường sinh thái.
− Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì
lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
− Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và
thể lực.
Để đạt được điều này người Việt Nam đã và đang tập trung đầu tư vào những lĩnh vực
chủ yếu nhất của xã hội như:
− Trên lĩnh vực kinh tế, thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là vận dụng một trong những quy luật
nền tảng xây dựng con người mới là: xây dựng con người phải qua cơ chế lao động.
Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa không
chỉ tạo công ăn việc làm cho mọi người mà còn thông qua cơ chế thị trường với
những đòn bẩy kinh tế để kích thích năng lực lao động làm việc cho mình và cho xã

hội.
− Trên lĩnh vực chính trị, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên nền tảng
của chủ nghĩa dân tộc nhằm nâng cao tính tích cực chính trị của nhân dân, tạo điều
kiện để nhân dân tham gia nhiều hơn vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
− Trên lĩnh vực xã hội, giải phóng con người khỏi sự thao túng của các quan hệ xã hội
cũ đã lỗi thời, kế thừa truyền thống tốt đẹp, xây dựng hệ thống những chuẩn mực
quan hệ mới.
− Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo – khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo – khoa
học, công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
− Trên lĩnh vực văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được
coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động
của văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái,
khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã
hội.
Có thể nói xây dựng con người Việt Nam đang được người Việt Nam thực hiện trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những lĩnh vực khác nhau có những trọng tâm khác nhau
nhưng đều hỗ trợ nhau để hình thành cuộc sống mới với những con người mới.

×