Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Mở đầu
Trải qua hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa của Đảng và
Nhà nước, nền kinh tế ta đang chuyển mạnh mẽ từ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp sang cơ chế thị trường theo địch hướng xã hội chủ nghĩa và đã đạt được
những thành tựu có ý nghĩa quan trọng trên nhiều lĩnh vực.
Bước vào giai đoạn mới, giai đoạn phát triển kinh tế theo hướng công ngiệp
hóa và hiện đại hóa với những yêu cầu mới, vấn đề tài chính tiền tệ không chỉ là
mối quan tâm của các nhà hoạch định chính sách mà còn là mối quan tâm của
các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các nhà tín dụng…
Một thực tế cho thấy trong điều kiện hiện nay có rất nhiều nhà quản lý kinh
tế, chủ doanh nghiệp giỏi đạt được nhiều thành công qua sự hiểu biết, phân tích
hoạt động kinh tế ngành. Bên cạnh đó không ít các nhà đầu tư, các chủ doanh
nghiệp bị phá sản, các ngân hàng, các tổ chức tín dụng bị thua lỗ bởi không hiểu
sâu sắc tình hình tài chính của ngành nghề, của lĩnh vực mà mình đang hoạt
động, nói khác đi là không nhận thức đầy đủ công tác phân tích tình hình tài
chính của ngành cũng như của doanh nghiệp.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn đó ta có thể thấy rằng hoàn thiện phân
tích tài chính doanh nghiệp nói chung và hoàn thiện phương pháp xây dựng bộ
chỉ số ngành nói riêng để làm một thước đo cho các doanh nghiệp có thể tự đánh
giá trong điều kiện hiện nay là một yêu cầu, một đòi hỏi của các nhà quản lý
kinh tế, các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp và những người quan tâm. Với ý
nghĩa đó em đã chọn đề tài “Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành
Ngân hàng ở Việt Nam”
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Ở những thị trường mà thị trường chứng khoán đã phát triển như:Mỹ, Nhật,
Úc, hay Singapore, nhà đầu tư có thể dễ dàng tìm thông tin liên quan đến chứng
khoán, đến công ty mà mình quan tâm. Tiêu chuẩn ngành được xem như là các
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
1
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
tiêu chuẩn mà các công ty phải duy trì hoạt động theo, hay ít nhất là phải đảm
bảo đủ khả năng đạt được. Với các nhà đầu tư, họ có thể nhìn vào các chỉ số tài
chính của công ty đang xem xét, so sánh nó với số bình quân ngành, nếu hệ số
tài chính của công ty đang xem xét bằng hoặc cao hơn chỉ số ngành thì các công
ty đó đang hoạt động tốt và điều đó có thể là một sự lựa chọn để đưa vào giỏ đầu
tư của mình. Tuy nhiên, nếu họ cảm thấy chỉ số này đang nằm dưới chỉ số ngành
thì điều đó có nghĩa là công ty đang hoạt động không tốt hoặc gặp vấn đề khó
khăn.
Phải thừa nhận rằng, các chỉ số ngành đóng một vai trò quan trọng trong
việc ra các quyết định đầu tư. Nhưng ở Việt Nam, ý tưởng về một bộ chỉ số
ngành nhất định còn là một điều mới mẻ, số đông các nhà đầu tư còn không
nhận thức được vấn đề đó.
Tuy nhiên, trong 2 năm trở lại đây, sự nhận thức về chứng khoán và tài
chính doanh nghiệp đã được các nhà đầu tư nâng cao lên một cách rõ nét. Các
nhà đầu tư hiện nay đã quan tâm tới phân tích công ty, cũng như phân tích đặc
điểm của từng ngành nghề kinh doanh trước khi đưa ra quyết định đầu tư của
mình.
Đề tài nghiên cứu khoa học này đóng một vai trò quan trọng trong việc
cung cấp phương pháp, cách tư duy một cách logic về các cách phân loại ngành
nói chung và ngành ngân hàng như là một ví dụ điển hình nói riêng. Đồng thời
cung cấp cách thức đưa ra chỉ số ngành căn bản khi các số liệu luôn được cập
nhật một cách liên tục.
2. Mục đích nghiên cứu
Một vấn đề phải thừa nhận hiện nay đó là những nhà đầu tư Việt Nam
không để tâm nhiều đến hoạt động của công ty mà thường ra quyết định chủ yếu
dựa vào cảm tính, tin đồn, vào xu hướng của các nhà đầu tư, tổ chức nước ngoài,
và theo “tâm lý đám đông”.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
2
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Một lời khuyên cho các nhà đầu tư đó là phải xét đến giá trị thật của công
ty. Nhưng một vấn đề rất lớn nảy sinh đó là hiện nay các công ty cổ phần Việt
Nam nói chung và các công ty đang niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán nói
riêng đều hoạt động đa phương diện, đa lĩnh vực. Vậy làm sao để phân loại
ngành nghề kinh doanh chính của công ty và đầu là thước đo để đánh giá một
công ty trong ngành nghề đó.
Trên thực tế, trong quá trình tìm hiểu và thu thập tài liệu để viết nên đề tài
này, chỉ có một số ít các công ty chứng khoán như: công ty chứng khoán Biển
Việt, công ty chứng khoán VNDirect, công ty chứng khoán ngân hàng thương
mại cổ phần Á Châu, công ty chứng khoán Biển Việt là liệt kê danh sách các
công ty theo ngành nghề kinh doanh để cung cấp cho các nhà đầu tư những
quyết định mang tính chuyên nghiệp. Còn lại hầu hết thì chưa cập nhật thông tin
này. Nhưng các chỉ số ngành trên các trang web của các công ty này đều đều là
số liệu trong quá khứ và cách tính, cũng như cách phân loại còn chưa được đề
cập đến một cách rõ ràng.
Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu khoa học này trọng tâm là cung cấp cơ sở
các cách phân loại ngành đang được áp dụng tại Việt Nam và trên thị trường thế
giới, cũng như là cách tiếp cận để tính các chỉ số này. Áp dụng vào thực tế phân
tích ngành ngân hàng tại Việt Nam hiện nay, từ đó xây dựng một cơ sở để áp
dụng vào các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với định hướng của đề tài như đã nêu ở mục 1.1, hệ thống chỉ số ngành có
nghĩa với từng bộ phận trong nền kinh tế :
Đối tượng của đề tài sẽ là các chỉ số tài chính căn bản, từ các chỉ số của
riêng lẻ từng công ty, bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, sẽ tìm ra được
công ty áp dụng tính toán ra bộ chỉ số ngành căn bản của ngành đó.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
3
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Với toàn bộ dữ liệu thu thập được, phạm vi đề tài sẽ áp dụng vào tính toán
ra bộ số liệu ngành Ngân Hàng Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh cũng như phân tích hoạt động
tài chính người ta không dùng riêng lẻ một phương pháp phân tích nào mà sử
dụng kết hợp các phương pháp phân tích vói nhau để đánh giá tình hình doanh
nghiệp một cách xác thực nhất, nhanh nhất.
Phương pháp phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp là hệ thống các
phương pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, quan hệ, các
luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính trong hoạt động của doanh nghiệp, xong
phương pháp chủ yếu là phương pháp so sánh và phân tích tỷ lệ.
4.1. Phương pháp so sánh
Để áp dụng được phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện có thể
so sánh được của các chỉ tiêu (phải thống nhất về nội dung, phương pháp, thời
gian và đơn vị tính toán của các chỉ tiêu so sánh) và theo mục đích phân tích mà
xác địch gốc so sánh. Gốc so sánh có thể chọn là gốc về mặt thời gian hoặc
không gian. Kỳ (điểm) được chọn để phân tích gọi là kỳ phân tích (hoặc điểm
phân tích). Các trị số của chỉ tiêu tính ra ở từng thời kỳ tương ứng gọi là trị số
chỉ tiêu kỳ gốc, kỳ phân tích. Và để phục vụ mục đích phân tích người ta có thể
so sánh bằng các cách : so sánh bằng số tuyệt đối, so sánh bằng số tương đối, so
sánh bằng số bình quân.
Phương pháp so sánh sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp là:
• So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ
xu hướng thay đổi về tình hình tài chính của doanh nghiệp, thấy được
sự cải thiện hay xấu đi như thế nào để có biện pháp khắc phục trong
kỳ tới.
• So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu
của doanh nghiệp.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
4
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
• So sánh giữa số thự hiện kỳ này với mức trung bình của ngành để
thấy được tình hình tài chính của doanh nghiệp đang ở tình trạng tốt
hay xấu, được hay chưa được so với các doanh nghiệp cùng ngành.
• So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng loại trong tổng
hợp ở mỗi bản báo cáo. So sánh theo chiều ngang để thấy được sự
biến đổi về cả số tương đối và số tuyệt đối của một khoản mục nào
đó qua niên độ kế toán liên tiếp.
4.2. Phương pháp phân tích tỷ lệ
Đây là phương pháp truyền thống, được sử dụng phổ biến trong phân tích
tài hính. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng
ngày càng được bổ xung và hoàn thiện. Bởi lẽ:
Thứ nhất, nguồn thông tin kế toán tài chính được cải tiến và được cung cấp
đầy đủ hơn. Đó là cơ sở hình thành các chỉ tiêu tham chiếu tin cập cho việc đánh
giá mọi tỷ lệ tài chính của doanh nghiệp.
Thứ hai, việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích lũy dữ liệu và thúc
đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ lệ.
Thứ ba, phương pháp này giúp cho nhà phân tích khai thác có hiệu quả các
số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo chuỗi thời gian
liên tục hoặc theo từng giai đoạn.
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài
chính trong các quan hệ tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu
phải xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét đánh giá tình hình tài
chính doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với các tỷ lệ
tham chiếu.
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành
các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của
doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về nội dung thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
5
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
cấu vốn và nguồn vốn, nhóm các tỷ lệ về năng lực hoạt động, nhóm các tỷ lệ về
khả năng sinh lời.
4.3. Phương pháp tính toán chỉ số ngành
Do hạn chế của việc thu thập số liệu, nên việc tính toán chỉ số ngành dựa
vào tất cả các số liệu ngành là một công việc khó khăn. Chính vì vậy, đề tài xin
đưa ra 3 cách chọn mẫu phi xắc suất, từ đó tính ra chỉ số ngành theo nhóm các
ngân hàng được chọn lựa một cách ngẫu nhiên. Với phạm vi của đề tài, xin được
áp dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên
Khi tính toán ra chỉ số ngành cuối cùng, để tránh sự sai khác nhau về tính
qui mô của ngân hàng, các chỉ số của ngân hàng sẽ được nhân với một trọng số
đó là tổng tài sản của ngân hàng được chọn mà trong đề tài được đề cập đến là
ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu và ngân hàng ngoại thương
Vietcombank.
4.3.1. Chọn mẫu chủ quan
Quy trình chọn mẫu chủ quan hay còn gọi là chọn mẫu có chủ đích dựa
trên giả thiết cho rằng cán bộ nghiên cứu có thể chọn các yếu tố đại diện cho
một “mẫu điển hình” từ đối tượng nghiên cứu mục tiêu phù hợp. Chất lượng
mẫu được chọn sử dụng phương pháp này phụ thuộc vào tính chính xác của
những lý giải mang tính chủ quan của mẫu điển hình.
Rất khó thu được kết quả có ý nghĩa từ mẫu chủ quan bởi vì không bao
giờ có hai chuyên gia hoàn toàn nhất trí với nhau về nội dung chính xác của mẫu
điển hình. Vì vậy, khi không có tiêu chí từ bên ngoài, không có cách nào để có
thể đánh giá kết quả nghiên cứu thu được từ mẫu chủ quan này chính xác hơn
kết quả nghiên cứu thu được từ mẫu kia.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
6
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
4.3.2. Chọn mẫu tạo sự thuận tiện
Mẫu tạo sự thuận tiện là thuật ngữ được sử dụng để mô tả mẫu mà ở đó
các yếu tố được chọn từ đối tượng nghiên cứu mục tiêu trên cơ sở sự thuận tiện
mà chúng mang lại cho cán bộ nghiên cứu.
Mẫu tạo sự thuận tiện đôi khi được gọi là “mẫu ngẫu nhiên” bởi vì các
yếu tố được chọn mẫu chỉ đơn giản là vì chúng ở gần nơi cán bộ nghiên cứu tiến
hành thu thập số liệu (về mặt không gian và hành chính).
Giả thiết chính liên quan đến chọn mẫu tạo sự thuận tiện là các thành viên
thuộc đối tượng nghiên cứu mục tiêu là đồng nhất. Điều đó có nghĩa là sẽ không
có sự khác biệt nào trong kết quả nghiên cứu thu được từ mẫu ngẫu nhiên, mẫu
hợp tác hoặc mẫu được thu thập từ một bộ phận đối tượng không tiếp cận được.
Đối với chọn mẫu chủ quan, không có cách nào để cán bộ nghiên cứu có
thể kiểm tra độ chính xác của một mẫu thuận tiện so với mẫu kia. Thực ra,
những người chỉ trích phương pháp này cho rằng trong nhiều trường hợp nghiên
cứu, các yếu tố sẵn có và tiếp cận được của đối tượng nghiên cứu mục tiêu sẽ
khác đáng kể so với các yếu tố ít tiếp cận hơn. Vì vậy, họ kết luận rằng việc sử
dụng phương pháp chọn mẫu tạo sự thuận tiện có thể gây ra độ nghiêng đáng kể
trong ước tính mẫu về các thông số đối tượng nghiên cứu.
4.3.3. Chọn mẫu định mức
Chọn mẫu định mức là kiểu chọn mẫu phi xác suất thường được sử dụng.
Đôi khi kiểu chọn mẫu này thường được gọi với cái tên không chính xác là
“chọn mẫu đại diện” bởi vì số lượng các yếu tố thu được từ nhiều tầng đối tượng
nghiên cứu mục tiêu tỷ lệ với quy mô của các tầng này.
Mặc dù chọn mẫu định mức có sự hạn chế tương đối chặt chẽ về số lượng
các yếu tố mẫu cho mỗi tầng, thường là có rất ít hoặc không có sự kiểm soát về
quy trình sử dụng để chọn yếu tố trong các tầng này. Ví dụ, có thể áp dụng chọn
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
7
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
mẫu chủ quan hoặc mẫu tạo sự thuận tiện trong bất kỳ tầng nào hoặc tất cả các
tầng. Vì vậy, hình thức bề ngoài của tính chính xác liên quan đến tính đại diện
tương xứng của các tầng phải được xem xét trong bối cảnh là không có cách nào
để kiểm tra tính chính xác của các ước tính thu được từ bất cứ tầng nào hoặc từ
việc kết hợp các ước tính riêng lẻ của mỗi tầng.
Căn cứ theo phương pháp chọn mẫu được nêu trên, 2 ngân hàng được
chọn để đại diện cho mẫu và căn cứ vào tính chỉ số ngành đó là Vietcombank và
ACB.
5. Cấu trúc đề tài
• Phần mở đầu của đề tài sẽ nói rõ sự cần thiết của đề tài, mục đích
nghiên cứu, đề tài có ảnh hưởng đến những đối tượng nào, giới hạn –
phương pháp nghiên cứu.
• Trong chương I sẽ giới thiệu về cơ sở nền tảng về lý luận để xây
dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành. Người đọc sẽ được tiếp cận
với những kiến thức căn bản như: khái niệm ngành kinh tế được hiểu
là gì, các cách phân ngành của Việt Nam và thế giới, các chỉ tiêu tài
chính quan trọng…
• Chương thứ II sẽ bàn về thực trạng của hệ thống NHTM ở Việt Nam
hiện nay, các đặc điểm cơ bản của các ngân hàng thương mại, các
hoạt động cơ bản của các NHTM Việt Nam.
• Chương thứ III dựa vào những cơ sở lý thuyết đã trình bày ở chương
I & chương II sẽ áp dựng vào xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích
ngành Ngân Hàng.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
8
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chương I: Cơ sở lý luận về xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành
1.1. Khái quát về ngành kinh tế
1.1.1. Khái niệm ngành kinh tế
Ngành kinh tế “Industry” có gốc từ tiếng Latin “Industrius” có nghĩa là bộ
phận của nền kinh tế chuyên tạo ra hàng hóa – dịch vụ.
Trong nền kinh tế phong kiến, cơ cấu nền kinh tế còn nghèo nàn, các hoạt
động kinh tế ở quy mô nhỏ. Ngành kinh tế chủ yếu khi đó là nông nghiệp và
thương mại. Các ngành kinh tế được đa dạng hóa và hình thành như hiện nay bắt
đầu từ những năm 1800 (hơn 2 thế kỷ trước), và kể từ đó liên tục phát triển cho
đến ngày nay với sự trợ giúp bởi tiến bộ công nghệ. Rất nhiều nước phát triển
(như Hoa Kỳ, Anh quốc, Canada) phụ thuộc sâu sắc vào khu vực sản xuất. Các
quốc gia, các nền kinh tế và các ngành công nghiệp của các quốc gia đó đan xen,
liên kết, tương tác nhau trong một mạng lưới phức tạp mà không dễ hiểu biết
tường tận nếu chỉ nghiên cứu sơ sài.
(Nguồn : Wikipedia)
Ngành kinh tế cũng có thể được miêu tả như một hoạt động chính hay mang
tính chung nhất. Nếu một công ty hoạt động đa ngành đa nghề, đa lĩnh vực,
ngành nghề chính luôn được hiểu là hoạt dộng mang lại doanh thu nhiều nhất.
Một cách tiếp cận dễ dàng nhất: “Ngành được định nghĩa là một nhóm các
hoạt động chính của công ty, luôn được quyết định bằng nguồn doanh thu lớn
nhất”
Nhiều năm trước đây, những xu hướng của thị trường đã khẳng định rằng
các công ty với cùng khu vực địa lý thì có sự hoạt động tương tự nhau. Vì
nguyên nhân trên, nhiều nhà đầu tư đã cảm thấy rằng rất hữu ích khi so sánh sự
biến động của các cổ phiếu của công ty theo cùng và theo từng quốc gia khác
nhau. Cho đến tận bây giờ, việc phân chia các công ty cũng như các cổ phiếu
theo vùng vẫn tỏ ra rất hữu ích nhưng sẽ tốt hơn nữa nếu phân các cổ phiếu của
công ty đó theo từng ngành nghề cụ thể.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
9
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
1.1.2. Phân loại ngành kinh tế
Hiện nay trên thế giới, các nước có nền kinh tế đã phát triển như : Mỹ,
Nhật, Anh đều có cách phân ngành cụ thể. Nhưng nói chung các nền kinh tế của
các quốc gia khác đều áp dụng theo 2 cách phân ngành phổ biên nhất đó là :
GICS (Global Industry Classification Standard) và ICB (Industry Classification
Benchmark). Nhưng chung nhất, các công ty được phân loại theo ngành chiếm
60% tổng doanh thu của công ty.
Tại Việt Nam sử dụng cách phân ngành của tổng cục thống kê. Ngoài ra
công ty chứng khoán Biển Việt còn cung cấp một cách thức phân ngành CBV
của riêng mình gồm 10 ngành chính: Tiêu dùng, Tài chính, Công nghiệp,
Nguyên vật liệu, Dầu khí, Công nghệ, Dịch vụ, Y tế, Điện nước, Viễn thông.
Trong khuôn khổ của đề tài, xin được tập trung vào cách phân ngành của ICB –
một cách phân ngành được coi như chuẩn mực và áp dụng hầu hết tại các công
ty niêm yết và trên toàn thế giới. Bên cạnh đó cách phân ngành của tổng cục
thống kê và GICS được giới thiệu để tham khảo. Chi tiết về các ngành nghề sẽ
nằm trong phần phụ lục.
1.1.2.1. Phân ngành của tổng cục thống kê
Chính phủ Việt Nam áp dụng Hệ thống ngành kinh tế theo Quyết định số
Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ, gồm các 21 nhóm ngành, 642 hoạt động kinh tế cụ thể:
Tiêu chuẩn phân ngành của tổng cục thống kê dựa trên tiêu chí là xác địch
hệ số tương quan của một công ty với các công ty khác. Do vậy các kết quả tính
theo phương pháp này đều dựa vào số liệu trong quá khứ, và thiếu tính logic
trong việc nhóm các công ty.
• Nhóm A: Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản.
• Nhóm B: Khai khoáng.
• Nhóm C: Công nghiệp chế biến, chế tạo.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
10
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
• Nhóm D: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước
và điều hòa không khí.
• Nhóm E: Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước
thải.
• Nhóm F: Xây dựng.
• Nhóm G: Bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy, và xe có
động cơ khác.
• Nhóm H: Vận tải, kho bãi.
• Nhóm I: Dịch vụ lưu trú và ăn uống.
• Nhóm J: Thông tin và truyền thông.
• Nhóm K: Hoạt động ngân hàng-tài chính, bảo hiểm.
• Nhóm L: Hoạt động kinh doanh bất động sản.
• Nhóm M: Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ.
• Nhóm N: Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ.
• Nhóm O: Hoạt động của Đảng Cộng sản, tổ chức Chính trị-Xã hội,
quản lý Nhà nước, an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội bắt buộc.
• Nhóm P: Giáo dục-Đào tạo.
• Nhóm Q: Y tế và hoạt động trợ giúp Xã hội.
• Nhóm R: Nghệ thuật, vui chơi và giải trí.
• Nhóm S: Hoạt động dịch vụ khác.
• Nhóm T: Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình,
sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dung của hộ gia đình.
• Nhóm U: Hoạt động của các tổ chức và cơ quan quốc tế.
1.1.2.2. Phân ngành của GICS
Global Industry Classification Standard ( GICS) được phát triển bởi
Morgan Stanley Capital International (MSCI) và Standard & Poor's vào năm
1999. GICS được đưa ra nhằm thiết lập một tiêu chuẩn chung cho việc phân loại
các công ty vào các ngành và nhóm ngành có liên quan với nhau.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
11
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
GICS được xây dựng theo các tiêu chí:
- Universal (Toàn cầu)
- Accurate (chính xác)
- Flexible (linh hoạt)
- Elvolving (phát triển)
Hiện nay, GICS bao gồm 10 nhóm ngành chính (sectors), 24 nhóm ngành
(industry groups), 67 ngành (industries) và 147 ngành con (sub-industries).
10 nhóm ngành chính của GICS bao gồm:
• Năng lượng: bao gồm các công ty thăm dò, khai thác, chế biến, vận
tải ... các sản phẩm dầu khí, tha đá, nhiên liệu chất đốt.
• Nguyên vật liệu: đây là một nhóm ngành rộng bao gồm các công ty
hoá chất, vật liệu xây dựng, kính, giấy, lâm sản; các công ty khai mỏ
và luyện kim; các cty sản xuất các sản phẩm bao bì đóng gói (gồm cả
bao bì giấy, kim loại, thuỷ tinh).
• Công nghiệp: gồm các cty chế tạo các loại máy móc công nghiệp,
thiết bị điên; công nghiệp quốc phòng, xây dựng, giao thông vận tải
cùng các dịch vụ liên quan.
• Hàng tiêu dùng không thiết yếu. Gồm những nhóm hàng tiêu dùng
nhạy cảm với chu kì của nền kinh tế như: xe hơi, hàng gia dụng lâu
bền (đồ điện tử gia dụng), hàng may mặc và các thiết bị giải trí, giáo
dục. Nhóm dịch vụ bao gồm khách sạn, nhà hàng, trung tâm giải trí,
truyền thông.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
12
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
• Hàng tiêu dùng thiết yếu : bao gồm các công ty sản xuất và phân
phối lương thực, thực phẩm, nước giải khát, thuốc lá và các sản phẩm
gia dụng ko lâu bền, các vật dụng cá nhân. Nó cũng bao gồm các siêu
thị, trung tâm bán lẻ thực phẩm và thuốc.
• Chăm sóc sức khoẻ : bao gồm các cty cung cấp các dịch vụ, thiết bị
chăm sóc sức khoẻ và các công ty nghiên cứu, phát triển sản xuất
dược phẩm và các sản phẩm công nghệ sinh học.
• Tài chính: gồm các ngân hàng, cty bảo hiểm, các quỹ đầu tư tài
chính và bất động sản, các công ty cung cấp các dịch vụ tài chính
khác.
• Công nghệ thông tin : bao gồm các công ty nghiên cứu và sản xuất
phần mềm cùng các dịch vụ liên quan và các công ty sản xuất các
thiết bị công nghệ phần cứng cùng các công ty sản xuất chất bán dẫn
và thiết bị bán dẫn.
• Dịch vụ viễn thông : gồm các công ty cung cấp các dịch vụ viễn
thông như: dịch vụ viễn thông cố định, không dây, băng thông rộng...
• Dịch vụ Điện nước: gồm các công ty sản xuất và phân phối điện
năng, các cty quản lý hệ thống nước, gas sinh hoạt.
1.1.2.3. Phân ngành của ICB
Tiêu chuẩn phân ngành chuẩn quốc tế- Industry Classification Benchmark
( bản quyền của FTSE & Dow Jones Company)
ICB là một hệ thống đánh giá và phân ngành kinh tế mang tính toàn diện
bao gồm các chức năng so sánh các công ty từ 4 phân ngành và thuộc các quốc
gia khác nhau. Hệ thống này phân chia các doanh nghiệp vào từng phân ngành
một cách chi tiết nhất dựa trên tính chất kinh doanh của các doanh nghiệp đó.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
13
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Các chỉ tiêu phân ngành được xác định dựa trên nguồn doanh thu hay nguồn
doanh thu chính của một doanh nghiệp.
Các ngành của ICB phân ra gồm : 10 ngành lớn giúp nhà đầu tư theo dõi
hướng phát triển từng ngành, 18 phân ngành cấp 1 giúp nhà đầu tư phân tích
diễn biến kinh tế vĩ mô dể tìm kiếm cơ hội đầu tư, 39 phân ngành cấp 2 cung cấp
những chuẩn đầu tư, 104 phân ngành cấp 3 cung cấp cho nhà đầu tư thông tin
chi tiết cho phân tích kỹ thuật.
Trên thực tế thì trên thế giới và ngay cả ở Việt Nam, các công ty chứng
khoán đều áp dụng theo nguyên tắc này, trong phạm vi của đề tài nghiên cứu,
xin được
• Dầu khí: bao gồm các công ty thăm dò, khai thác, sảm xuất, lọc dâù và
cung cấp các sản phẩm dầu khí. Các công ty thăm dò, khai thác, sảm xuất, lọc và
phân phối các sản phẩm dầu khí. Các công ty cung cấp dịch vụ và thiết bị phục
vụ cho ngành dầu khí như xây dưng dàn khoan, khai thác, thăm dò địa chất.
Các công ty sở hữu, vận hành các ống dẫn dầu, dẫn khí hoặc các năng lượng
khác. Các công ty cung cấp, vận chuyển khí gas trực tiếp đến người tiêu dung sẽ
không được xếp trong hạng mục này. Các công ty này sẽ được xếp loại trong
nhóm ngành phân phối khí Ga.
• Nguyên vật liệu: bao gồm các nhà máy sản xuất gỗ, nhà máy cưa. Các
công ty sản xuất sản phẩm đồ gỗ hoàn thiện không được xếp vào hạng mục này
Các công ty sẽ dược xếp ở nhóm ngành Nguyên vật liệu xây dựng & thiết bị lắp
đặt. Các công ty sản xuất, phân phối giấy các loại. Các công ty in ấn các loại
biểu mẫu, sản xuất các loại sản phẩm bằng giấy như cốc giấy, tã, bỉm cho trẻ sơ
sinh không được xếp vào danh mục này mà được xếp trong danh mục Hàng
tiêu dùng nhanh. Các công ty khai thác, sản xuất, phân phối quặng nhôm phục
vụ các ngành công nghiệp khác. Ngoại trừ các công ty sản xuất các sản phẩm
nhôm đã thành phẩm. Các công ty này được xếp loại tuỳ thuộc vào loại hình
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
14
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
thành phẩm. Các công ty thăm dò, chế biến, tinh chế các loại đá quí và khoáng
sản khác.
• Công nghiệp: bao gồm các công ty chuyên sản xuất các nguyên vật liệu
và thiết bị lắp đặt phục vụ cho các công trình xây dựng. Các công ty phụ trách
xây dựng những công trình xây dựng như những chung cu, cao ốc…Các công ty
chế tạo máy bay và cung cấp các dịch vụ phục vụ cho lĩnh vực hàng không dân
dụng. Các công ty sản xuất thiết bị phục vụ ngành quốc phòng, bao gồm máy
bay quân sự, thiết bị radar và vũ khí. Các công ty sản xuất bao bì đóng gói vào
các ngành công nghiệp nói chung. Các công ty sản xuất và phân phối các thiết bị
điện tử sử dụng trong các ngành khác nhau, bao gồm máy chiếu laser, thẻ thông
minh, thanh scan, thiết bị phân biệt dấu vân tay và các thiết bị điện tử khác. Các
công ty cung cấp dịch vụ vận chuyển đường thủy, ví dụ như vận chuyển
container. Các cảng biển và các hãng đóng tàu không được xếp vào hạng mục
này. Cảng biển được xếp trong nhóm ngành Dịch vụ vận chuyển. Đóng tàu xếp
trong Xe tải & phương tiện vận chuyển. Các công ty cung cấp dịch vụ cho
ngành vận tải công nghiệp, gồm các công ty quản lý sân bay, quản lý trạm ga,
cầu đường, cảng và cung cấp dịch vụ hậu cần cho các tàu chở hàng, các công ty
cung cấp dịch vụ bảo dưỡng máy bay và các phương tiện vận chuyển. Các công
ty cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng hóa bằng xe tải. Các công ty quản lý cầu
đường, các công ty cung cấp dịch vụ Taxi, cho thuê xe không được xếp vào
hạng mục này mà xếp trong nhóm ngành Du lịch. Các công ty sản xuất cung cấp
thiết bị chống ô nhiễm môi trường; thiết bị phân hủy hoặc tái chế rác thải. Các
công ty sản xuất thiết bị lọc nước, không khí trong công nghiệp được xếp dưới
nhóm ngành Máy móc công nghiệp.
• Hàng tiêu dùng: Các hãng sản xuất chế tạo ô tô thể thao, ô tô con, xe tải
hạng nhẹ. Các hãng sản xuất xe tải hạng nặng không được xếp trong hạng mục
này mà xếp trong nhóm ngành Xe tải & phương tiện vận chuyển kinh doanh.
Các nhà sản xuất và phân phối phụ tùng mới, phụ tùng thay thế cho ô tô xe máy
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
15
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
như động cơ, pin. Các hãng sản xuất lốp xe không được xếp trong hạng mục này
mà trong nhóm ngành lốp xe. Các công ty sản xuất và phân phối đồ uống chế
xuất từ lúa mạch như bia, bia đen. Các hãng sản xuất, đóng chai, phân phối đồ
uống không cồn như sôđa, nước ngọt, chè, cà fê, và các loại nước đóng chai
khác. Các công ty hoạt động trong lĩnh vực chăn nuôi trồng trọt, nuôi trồng,
đánh bắt thủy, hải sản, các công ty sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Các công
ty sản xuất thuốc trừ sâu không được xếp vào hạng mục này mà xếp trong nhóm
ngành hoá chất. Các công ty chế biến thực phẩm, đồ ăn snack, rau quả, sản
phẩm từ sữa và hải sản đông lạnh. Các công ty chế biến đồ ăn cho vật nuôi,
vitamin các loại. Không tính các công ty sản xuất nươc quả, chè, cà phê, nước
đóng chai và các loại đồ uống không cồn khác. Các công ty sản xuất, phân phối
các loại nhạc cụ, thiết bị nhiếp ảnh, RVs, ATVs, các loại thuyền buồm, xuồng
hơi, xuồng máy phục vụ các họat động giải trí trên biển. Các công ty sản xuất và
phân phối hóa mỹ phẩm, các sản phẩm vệ sinh cá nhân – gồm thuốc khử mùi, xà
phòng, kem đánh răng, nước hoa, dầu gội đầu, dao cạo, sản phẩm vệ sinh cho
phụ nữ, các phương tiện phòng tránh thai không dùng thuốc. Các đồn điền trồng
thuốc lá, hãng sản xuất và phân phối thuốc lá, xì-gà, và các sản phẩm thuốc lá
liên quan khác.
• Y tế: Các tổ chức y tế, bệnh viện, trạm xá, phòng khám nha khoa, nhãn
khoa, trung tâm dưỡng lão. Các cơ sở thú y không được xếp trong hạng mục này
mà xếp trong nhóm ngành dịch vụ tiêu dùng chuyên dụng. Các hãng sản xuất và
phân phối các thiết bị y tế như máy scan MRI, chế tạo các bộ phận làm giả, máy
điều hòa nhịp tim, máy chụp Xquang và các thiết bị y tế khác. Các hãng sản xuất
và phân phối các vật dụng y tế cho các công ty sản xuất thiết bị và người tiêu
dùng, gồm nhà sản xuất kính áp tròng, kính mắt, băng cứu thương và các vật
dụng y tế khác. Các công ty hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển
các sản phẩm sinh hóa nhằm chế tạo thuốc chẩn đoán và chữa bệnh và có doanh
thu chủ yếu từ hoạt động bán bằng phát minh sáng chế thuốc và các phương
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
16
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
pháp chẩn đoán bệnh. Các hãng chế biến dược phẩm thông dụng như aspirin,
thuốc cảm, thuốc tránh thai, các hãng sản xuất vac-xin. Hãng sản xuất vitamin
không được xếp trong hạng mục này mà xếp tronh nhóm ngành Thực phẩm.
• Dịch vụ tiêu dùng: Các hiệu thuốc, bán buôn, bán lẻ , phân phối thuốc
các loại. Các siêu thị, các cửa hàng ăn, cửa hàng buôn bán thực phẩm các loại,
bao gồm cả đồ ăn kiêng và bổ xung vitamin. Các cửa hàng bán buôn bán lẻ các
sản phẩm gia dụng như thiết bị làm vườn, thảm, giấy dán tường, sơn, nội thất,
mành rèm và các vật liệu xây dựng khác. Các công ty cung cấp dịch vụ như tổ
chức đấu giá, trông nom nhà cửa, dịch vụ giặt là, cơ sở thú y, các thẩm mỹ viện,
dịch vụ bảo dưỡng bảo trì hệ thống máy sưởi, máy lạnh, bơm…Các cửa hàng
chỉ chuyên kinh doanh một loại sản phẩm như đồ điện tử, sách, phụ tùng ô tô…
Các đại lý ô tô, cửa hàng cho thuê băng đĩa, cửa hàng miễn thuế, các trạm xăng
không thuộc sở hữu các công ty xăng dầu. Các đài phát thanh, các hãng truyền
hình. Các rạp chiếu phim không được xếp dưới hạng mục này mà xếp trong
nhóm ngành Dịch vụ vui chơi giải trí. Các công ty cung cấp dịch vụ quảng cáo,
quan hệ công chúng, marketing qua điện thoại…Các nhà xuất bản các ấn phẩm
in ấn hoặc qua phương tiện truyền thông điện tửCác công ty cung cấp dịch vụ du
lịch, các đại lý du lịch, cung cấp dịch vụ đăng ký tour, các hãng cho thuê xe và
các công ty cung cấp dịch vụ vận chuyển hành khách như các hãng xe buýt,
hãng taxi, tàu phà…
• Viễn thông: Các hãng cung cấp dịch vụ điện thoại cố định, nội hạt &
quốc tế. Các công ty cung cấp dịch vụ Internet không được xếp trong hạng mục
này mà xếp trong nhóm ngành Internet. Các hãng cung cấp dịch vụ điện thoại di
động, nhắn tin, dịch vụ truyền phát qua vệ tinh…
• Dịch vụ tiện ích: Các công ty phát điện sử dụng năng lượng địa nhiệt,
năng lượng nguyên tử & năng lượng mặt trời. Các công ty phân phối gas đến
người tiêu dùng, không bao gồm các công ty cung cấp gas tự nhiên. Các công ty
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
17
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
cùng lúc cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích khác nhau. Các công ty cấp nước đến
người tiêu dùng, bao gồm cả dịch vụ tưới tiêu.
• Tài chính: Ngân hàng cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng như cho
vay, chuyển tiền, ngân hàng. Các công ty bảo hiểm đa dịch vụ như bảo hiểm
nhân thọ, bảo hiểm y tế, tài sản, tái bảo hiểm và không chuyên biệt về một lĩnh
vực nào. Các công ty & đại lý môi giới bảo hiểm. Các công ty họat động chủ
yếu trong lĩnh vực phi nhân thọ như bảo hiểm tai nạn, thương vong, cháy nổ,
bảo hiểm ô tô, hàng hải và các loại hình phi nhân thọ khác. Các công ty chủ yếu
họat động trong lĩnh vực tái bảo hiểm. Các công ty chủ yếu họat động trong lĩnh
vực bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm y tế. Các công ty đầu tư trực tiếp hoặc gián
tiếp vào lĩnh vực bất động sản thông qua việc phát triển, quản lý hoặc sở hữu bất
động sản. Các tập đòan, các quỹ ủy thác đầu tư bất động sản. Các công ty cung
cấp dịch vụ đầu tư tài chính chuyên biệt như các công ty chứng khoán, giao dịch
buôn bán qua mạng…Các công ty cung cấp dịch vụ thế chấp, bảo hiểm cầm cố
và các dịch vụ liên quan khác. Các quỹ đóng hoạt động trong lĩnh vực đầu tư
vào cổ phiếu hoặc bất động sản. Các quỹ đầu tư mở, hoạt động dưới hình thức
phi doanh nghiệp như unit trust. ETFs, quỹ tiền tệ.
• Công nghệ: Các công ty cung cấp dịch vụ tư vấn về công nghệ thông tin
cho các doanh nghiệp khác, như cung cấp hệ thống thiết kế máy tính, kết nối hệ
thống mạng, vận hành hệ thống, quản lý và lưu trữ giữ liệu, dịch vụ sửa chữa và
hỗ trợ kỹ thuật. Các công ty cung cấp dịch vụ Internet, cung cấp các công cụ tìm
kiếm, đăng kí tên miền và dịch vụ email. Các công ty sản xuẩt, phát triển và
cung cấp phần mềm phục vụ cho gia đình và văn phòng. Các công ty cung cấp
phần mềm games máy tính không được xếp vào hạng mục này mà xếp vào
nhóm ngành Đồ chơi. Các công ty sản xuất và phân phối máy tính, hệ thống
máy chủ và các thiết bị phần cứng khác như ổ ghi dữ liệu, chuột, bàn phím và
máy in... Các công ty sản xuất, phân phối các thiết bị điện tử văn phòng như
máy photocopy, máy fax. Các hãng sản xuất và phân phối các thiết bị bán dẫn,
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
18
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
chip điện tử, các sản phẩm phục vụ cho ngành công nghiệp bán dẫn như bảng
mạch chính, thíêt bị bán dẫn chủ... Các công ty sản xuất bảng mạch in không
được xếp vào hạng mục này mà xếp trong nhóm ngành thiết bị bán dẫn. Các
công ty sản xuất và phân phối thiết bị viễn thông công nghệ cao như vệ tinh,
điện thoại di động , sợi cáp quang, thiết bị chuyển mạch, thiết bị kết nối mạng
máy tính, thiết bị phục vụ hội nghị qua điện thoại…
1.2. Hệ thống chỉ tiêu phân tích
1.2.1. Khái niệm hệ thống chỉ tiêu phân tích
Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của
nhà nước, các DN thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước
pháp luật trong kinh doanh do đó có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tào
chính của doanh nghiệp như chủ doanh nghiệp, nhà cho vay, nhà cung cấp,
khách hàng, nhà bảo hiểm…kể cả những cơ quan chính phủ và những người lao
động. Mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp dưới
một góc độ khác nhau. Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh
nghiệp mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng tài trợ.
Đối với chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm chủ yếu của
họ là các yếu tố rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi và khả năng thanh toán
vốn…Nhìn chung họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra dòng tiền mặt, khả năng
sinh lời, khả năng thanh toán và mức sinh lời tối đa.
Các báo cáo kế toán, báo cáo tài chính phản ánh một cách tổng hợp toàn
diện tình hình tài sản, nguồn vốn công nợ, kết quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trong một niên độ kế toán, song những thông tin riêng biệt đó
chưa thể hiện được nhiều ý nghĩa và chưa thể hiện hết các yêu cầu, nội dung mà
người sử dụng thông tin quan tâm do đó họ thường dùng các công cụ và kỹ thuật
cơ bản để phân tích tài chính doanh nghiệp, để thuyết minh các mối quan hệ chủ
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
19
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
yếu trong báo cáo tài chính nhằm nghiên cứu tình hình tài chình hiên tại từ đó
đưa ra những quyết định tài chính trong tương lai.
Để có thể bắt đầu tính toán các chỉ số của một ngành, các bản báo cáo tài
chính công ty được sử dụng như một công cụ quan trọng không thể thiếu.
Nhưng có một vấn đề ngay lập tức được nẩy sinh, đó là làm sao có thể so sánh
các công ty có qui mô khác nhau?.
Vậy bằng cách nào đó, chúng ta phải tiêu chuẩn hóa các bản báo cáo tài
chính. Một cách thức hữu ích và thông dụng là tính toán các chỉ tiêu theo tỷ lệ
phần trăm và so sánh các chỉ số tài chính. Những chỉ số này cho phép chúng ta
có thể so sánh và tìm ra mối quan hệ giữa những phần khác nhau của thông tin
tài chính. Bởi vì có rất nhiều chỉ tiêu trong các bảng báo cáo tài chính, do vậy sẽ
có một khối lượng lớn các chỉ số tài chính khác nhau được tạo nên. Trong quá
trình phân tích, ta chỉ sử dụng một số các chỉ tiêu được chia thành 5 nhóm cơ
bản được áp dụng rộng rãi:
• Nhóm tỷ số thanh toán hiện hành.
• Nhóm tỷ số hoạt động.
• Nhóm tỷ số đòn bẩy tài chính.
• Nhóm tỷ số sinh lợi.
• Nhóm tỷ số giá trị thị trường.
Một vấn đề khác cần được quan tâm, cùng một tỷ số tài chính nhưng những
cá nhân khác nhau lại đưa ra những đánh giá hoàn toàn trái ngược nhau, và
chính vì thế mà ra những quyết định đầu tư khác nhau. Phần dưới đây sẽ đề cập
đến 5 nhóm chỉ tiêu tài chính cơ bản mà được sử dụng một cách thông dụng hiện
nay.
1.2.2. Các chỉ số tài chính cơ bản trong phân tích tài chính
1.2.2.1. Nhóm tỷ số thanh toán
• Tỷ số thanh toán hiện hành
Tỷ số thanh toán hiện hành R
c
= Tài sản lưu động / Nợ ngắn hạn
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
20
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tài sản lưu động bao gồm các khoản vốn bằng tiền, đầu tư tài chính ngắn
hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho và các tài sản lưu động khác.
Nợ ngắn hạn là các khoản nợ phải trả trong năm bao gồm: vay ngắn hạn,
vay dài hạn đến hạn phải trả và các khoản phải trả khác.
Trong quản lý tài sản ngắn hạn, doanh nghiệp đánh đổi giữa khả năng sinh
lời và khả năng thanh toán. Khả năng sinh lời cao, khả năng thanh toán thấp và
ngược lại.
Tỷ số R
c
cho biết công ty có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi thành tiền
mặt để đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tỷ số này đo lường khả
năng trả nợ của công ty. Nếu tỷ số thanh toán hiện hành giảm sẽ cho ta thấy khả
năng thanh toán giảm và báo trước những khó khăn tài chính có thể xảy ra. Nếu
tỷ số thanh toán hiện hành cao điều đó có nghĩa là công ty luôn sẵn sang thanh
toán các khoản nợ. Tuy nhiên, nếu tỷ số thanh toán hiện hành quá cao sẽ làm
hiệu quả hoạt động vì công ty đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động hay nói
cách khác việc quản lý tài sản lưu động không hiệu quả. Một công ty nếu dự trữ
qua nhiều hàng tồn kho thì sẽ có tỷ số thanh toán hiện hành cao, nhưng các hàng
tồn kho là tài sản rất khó chuyển đổi thành tiền, nhất là hàng tồn kho ứ đọng,
kém phẩm chất. Vì vậy, đôi khi tỷ số thanh toán hiện hành không phản ánh đúng
khả năng thanh toán của công ty.
• Tỷ số thanh toán nhanh
Tỷ số thanh toán nhanh R
q
= (Tài sản lưu động - Hàng tồn kho) / Nợ ngắn
hạn
Tỷ số thanh toán nhanh được tính toán dựa trên những tài sản lưu động có
thể chuyển hóa thành tiền, đôi khi chúng được gọi là : “Các tài sản có tính thanh
khoản” bao gồm tất cả tài sản lưu động trừ hàng tồn kho.
1.2.2.2. Nhóm tỷ số hoạt động
Các tỷ số hoạt động đo lường hoạt động kinh doanh của một công ty. Để
nâng cao tỷ số hoạt động, các nhà quản trị phải biết là những tài sản chưa dùng
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
21
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
hoặc không dùng không tạo ra thu nhập vì thế công ty cần phải biết cách sử
dụng chúng cho hiệu quả hoặc là loại bỏ chúng đi. Tỷ số hoạt động đôi khi còn
được gọi là tỷ số hiệu quả hoặc tỷ số luân chuyển.
• Vòng quay các khoản phải thu và kỳ thu tiền bình quân
Các khoản phải thu là các hóa đơn bán hàng chưa thu tiền về do công ty
thực hiện chính sách bán chịu và các khoản tạm ứng chưa thanh toán, khoản trả
trước cho người bán….
Số vòng quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận việc
thanh toán các khoản phải thu…Khi khách hàng thanh toán tất cả các hóa đơn
của họ, lúc đó các khoản phải thu quay được một vòng.
Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu / Các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu / Doanh thu bình quân
ngày
Vòng quay các khoản phải thu hay kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp phụ
thuộc vào chính sách bán chịu của công ty. Nếu số vòng quay thấp thì hiệu quả
sử dụng vốn kém do vốn bị chiếm dụng nhiều. Nhưng nếu số vòng quay các
khoản phải thu cao quá thì sẽ giảm sức cạnh tranh dẫn đến giảm doanh thu.
Ngoài ra khi xem xét cần phải phát hiện ra các khoản nợ đã quá hạn trả và có
biện pháp xử lý.
• Vòng quay hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho là chỉ tiêu đánh giá công ty sử dụng hàng tồn
kho của minh hiệu quả như thế nào :
Vòng quay hàng tồn kho = Doanh thu thuần / Hàng tồn kho bình
quân
Số vòng luân chuyển hàng tồn kho cao hay thấp tùy thuộc vào đặc điểm
ngành kinh doanh
• Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
22
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tỷ số này nói lên một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu. Qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định ở công ty.
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định = Doanh thu thuần / Tài sản cố định
bình quân.
• Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản
Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản đo lường một đồng tài sản tham gia vào
quá trình sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
• Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần
Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần là một chỉ tiêu rất hữu ích trong việc phân
tích khái cạnh tài chính của công ty. Thể hiện mối quan hệ giữa doanh thu và
vốn cổ phần.
Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần = Doanh thu thuần / Vốn cổ phần
bình quân.
1.2.2.3. Tỷ số đòn bẩy tài chính
Tỷ số đòn bẩy tài chính đánh giá mức độ mà một công ty tài trợ cho hoạt
động kinh doanh của mình bằng vốn vay. Khi công ty vay tiền, công ty luôn
phải thực hiện một chuỗi thanh toán cố định. Và các cổ đông chỉ nhận được
những gì còn lại sau khi thanh toán cho chủ nợ, nợ vay được xem như là tạo ra
đòn bẩy. Trong thời kỳ khó khăn, các công ty có đòn bẩy tài chính cao có khả
năng không trả được nợ. Vì thế công ty muốn vay tiền, ngân hàng sẽ đánh giá
xem công ty có vay qua nhiều hay không? Ngân hàng cũng xem xét công ty có
duy trì nợ vay của mình trong hạn mức cho phép hay không?
Các nhà cung cấp tín dụng căn cứ vào tỷ số đòn bẩy tài chính để ấn định
mức lãi suất cho vay đối với công ty (vì công ty càng có nhiều nợ vay, rủi ro về
mặt tài chính càng tăng). Ở các nước phát triển, người ta đánh giá được rủi ro
này (β) và tính vào lãi suất cho vay. Điều đó có nghĩa là công ty càng vay nhiều
thì lãi suất cang cao.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
23
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đối với công ty, tỷ số đòn bẩy tài chính sẽ giúp các nhà quản trị tài chính
lựa chọn cấu trúc vốn hợp lý nhất cho công ty của mình. Qua tỷ số đòn bẩy tài
chính nhà đầu tư thấy được rủi ro về tài chính của công ty dẫn đến quyết định
đầu tư của mình.
Nếu tử số được xác định theo kỳ, mẫu số được xác định tại thời điểm thì
phải lấy số bình quân.
• Tỷ số nợ trên tài sản
Tỷ số này cho ta thấy bao nhiêu phần trăm tài sản của công ty được tài trợ
bằng vốn vay.
Tỷ số nợ = Tổng nợ / Tổng tài sản
Tổng nợ: bao gồm toàn bộ khoản nợ ngắn hạn và dài hạn tại thời điểm lập
báo cáo tài chính gồm : các khoản phải trả vay ngắn hạn, nợ dài hạn do đi vay
hay phát hành trái phiếu dài hạn.
Tổng tài sản : toàn bộ tài sản của công ty tại thời điểm lập báo cáo.
• Tỷ số nợ trên vốn cổ phần
Một tỷ số khác cũng được sử dụng để tính toán mức độ đi vay( rủi ro về
tài chính) mà công ty đang gánh chịu đó là tỷ số tổng tài sản trên vốn cổ phần.
Tổng tài sản trên vốn cổ phần = Toàn bộ tài sản / Vốn cổ phần .
• Khả năng thanh toán lãi vay
Lãi vay hằng năm là chi phí cố định và chúng ta muốn biết công ty sẵn
sàng trả lãi đến mức nào. Cụ thể hơn nữa chúng ta muốn biết rằng liệu số vốn đi
vay có thể sử dụng tốt đến mức nào, có thể đem lại khoản lợi nhuận bao nhiêu?
Có thể bù đắp lại lãi vay hay không. Tỷ số này dùng để đo mức độ mà lợi nhuận
phát sinh do sử dụng vốn để đảm bảo trả lãi vay như thế nào. Nếu công ty quá
yếu về khoản này, công ty có thể đi đến kiện tụng và tuyên bố phá sản.
Khả năng thanh toán lãi vay = Lãi trước thuế và lãi vay (EBIT) / Lãi
vay
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
24
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích ngành Ngân Hàng Việt Nam
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
1.2.2.4. Tỷ số sinh lợi
Tỷ số sinh lơi đo lường thu nhập của công ty với các nhân tố khác tạo nên
lợi nhuận như doanh thu, tổng tài sản, vốn cổ phần.
• Tỷ số sinh lợi trên doanh thu
Tỷ số này nói lên một đồng doanh thu tạo ra được bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Tỷ suất sinh lơi trên doanh thu = Lợi nhuận ròng / Doanh thu thuần
• Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA)
Chỉ tiêu này đo lường khả năng sinh lợi trên một đồng vốn bỏ ra đầu tư
vào công ty
ROA = Lợi nhuận ròng / Tổng tài sản bình quân (%).
• Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROE)
Chỉ tiêu này cho thấy khả năng tạo lãi của một đồng vốn họ bỏ ra để đầu
tư vào công ty.
ROE = Lơi nhuận ròng / Vốn cổ phần bình quân (%)
Sự khác nhau giữa tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản và tỷ suất sinh lời trên
vốn cổ phần là do công ty có sử dụng vốn vay. Nếu công ty không có sử dụng
nợ vay thì hai chỉ số này bằng nhau.
1.2.2.5. Tỷ số giá trị thị trường
• Thu nhập mỗi cổ phần (EPS)
Thu nhập trên mỗi cổ phần là một yếu tố quan trọng nhất, quyết định giá
trị của cổ phần bởi vì nó đo lường sức thu nhập chứa đựng trong một cổ phần
hay nói cách khác nó thể hiện thu nhập mà nhà đầu tư có được khi mua cổ phần.
Thu nhập mỗi cổ phần = Thu nhập ròng mỗi cổ phần thường / Số
lượng cổ phần thường lưu hành.
Thu nhập ròng của mỗi cổ phần thường được tính bằng cách lấy lãi ròng
trừ đi tiền lãi của cổ phần ưu đãi.
• Tỷ lệ chi trả cổ tức
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nguyễn Thanh Phúc
TCDN47A, Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân
25