Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Lý thuyết hành vi tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.02 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC
ĐỀ TÀI
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH HÀNH VI
Lớp: VB16BQT01
Khoá: 2013 – 2015
GVHD: Ths. Trương Minh Tuấn
SVTH: nhóm 7.
Tp, Hồ Chí Minh, năm 2014.
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
Danh sách sinh viên thực hiện và phân công công việc.
TT HỌ TÊN CÔNG VIỆC CHỮ KÝ Ghi chú
124 Trần Thanh Xuân Nguồn gốc của tài
chính hành vi và
Điều kiện tồn tại lý
thuyết tài chính
hành vi
02 Văn Hoàng Anh
38 Trần Minh Hoàng Những nguyên lý
cơ bản và lý thuyết
của tài chính hành
vi
45 Nguyễn Chu Hòa
Khánh
123 Trương Trường Vũ Tìm hiểu hành vi
đầu cơ ( hiện tượng
đầu cơ bong bóng
trong chứng khoán)
82 Phạm Sắc
30 Trần Thanh Hải Tìm hiểu thị trường


chứng khoán trong
giai đoạn bong
bóng đầu cơ.
117 Nguyễn Hải Vân
34 Phan Trọng Hiển Làm powpoint
101 Nguyễn Văn Tín Thuyết trình
09 Trịnh Ngọc Chính
Chỉnh sửa và hoàn
thiện
Nhóm 07 2
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
Mục Lục Trang
Mục Lục Trang 3
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU 5
I. Mục tiêu của việc nghiên cứu: 5
CHƯƠNG II. TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH HÀNH VI 5
I. Nguồn gốc của tài chính hành vi 5
II. Điều kiện tồn tại lý thuyết tài chính hành vi: 5
1. Tồn tại các hành vi không hợp lý: 6
2. Hành vi bất hợp lý mang tính hệ thống: 6
3. Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính: 7
III. Những nguyên lý cơ bản và lý thuyết của tài chính hành vi 8
1. Thuyết triển vọng ( (Prospect Theory): 8
2. Sự tiếc nuối (regret ): 9
3. Thuyết quá tự tin (Overconfidence): 9
4. Lý thuyết tâm lý bầy đàn, tâm lý đám đông (Herd Behavior) 10
5. Tính toán bất hợp lý, theo cảm tính (mental accounting) : 11
6. Sự không yêu thích rủi ro(Sợ thất bại): 12
7. Lệch lạc do tình huống điển hình (Representativeness): 12
8. Tính bảo thủ (Conservatism) : 13

IV. Tìm hiểu hành vi đầu cơ ( hiện tượng đầu cơ bong bóng trong chứng khoán): 13
1. Hiện tượng bong bóng là gì: 13
2. Sụp đổ thị trường chứng khoán: 14
3. Những nguyên nhân hình thành bong bóng chứng khoán: 14
CHƯƠNG III: TÌM HIỂU THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TRONG GIAI ĐOẠN
BONG BÓNG ĐẦU CƠ 18
I. Thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn bong bóng đầu cơ 18
II. Thực trạng thị trường sau “bong bóng đầu cơ”: 19
CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN 21
Tài liệu tham khảo 22
Nhóm 07 3
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn


























Nhóm 07 4
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU
I. Mục tiêu của việc nghiên cứu:
- Tìm hiểu các lý thuyết về tài chính hành vi.
- Tìm hiểu nguyên nhân gây ra hiện tượng bong bóng đầu cơ trên thị trường chứng khoán
Việt Nam trong thời kỳ cuối năm 2006 đến cuối năm 2007.
CHƯƠNG II. TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH HÀNH VI
I. Nguồn gốc của tài chính hành vi
- Tâm lý học là ngành khoa học nghiên cứu hoạt động, tinh thần và tư tưởng của con
người cụ thể đó là những cảm xúc, ý chí và hành động. Tâm lý học cũng chú tâm đến
sự ảnh hưởng của hoạt động thể chất, trạng thái tâm lý và các yếu tố bên ngoài lên
hành vi và tinh thần của con người.
- Tài chính là phạm trù kinh tế, phản ánh các quan hệ phân phối của cải xã hội dưới
hình thức giá trị. Phát sinh trong quá trình hình thành, tạo lập, phân phối các quỹ tiền
tệ của các chủ thể trong nền kinh tế nhằm đạt mục tiêu của các chủ thể ở mỗi điều kiện
nhất định.
- Tài chính hành vi: là sự kết hợp tâm lý học vào tài chính, sử dụng các lý thuyết cơ
bản dựa trên tâm lý con người để giải thích những bất thường trên thị trường tài chính.
II. Điều kiện tồn tại lý thuyết tài chính hành vi:
- Các mô hình được đề xuất bởi lý thuyết tài chính hành vi sẽ có thể đúng nếu trên thị
trường tồn tại một trong ba điều kiện cơ bản sau. Nếu cả ba đều tồn tại, lý thuyết tài

chính hành vi dự báo rằng việc định giá sai không những là tồn tại, mà còn là rất đáng
kể (lớn hoặc đến mức nghiêm trọng) và kéo dài. Ba điều kiện đó bao gồm:
+ Tồn tại các hành vi không hợp lý.
+ Hành vi không hợp lý mang tính hệ thống.
+ Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính.
Nhóm 07 5
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
1. Tồn tại các hành vi không hợp lý:
- Các nhà đầu tư sẽ có hành vi không hợp lý khi họ không phân tích và xử lý đúng
những thông tin mà họ có và thị trường cung cấp, từ đó dẫn đến những kỳ vọng lệch
lạc về tương lai của cổ phiếu mà họ đầu tư vào. Những nghiên cứu về các hành vi
không hợp lý là kết hợp giữa tâm lý học, mà chủ yếu là trường phái tâm lý nhận thức
với trường phái tâm lý hành vi.
- Một số dạng lệch lạc nhận thức trong thị trường chứng khoán :
+ Tự tin thái quá: Được xem như là niềm tin mù quáng vào những lập luận, đánh giá
theo cảm tính cũng như khả năng nhận thức của một ai đó. Nếu họ tin rằng cổ phiếu
của những công ty họ tin tưởng là cổ phiếu tốt, cố gắng tìm kiếm những thông tin để
ủng hộ cho nhận định và quyết định của mình dẫn đến đánh giá sai
+ Phụ thuộc vào kinh nghiệm hay thuật toán: Các kinh nghiệm, hay quy tắc học
được giúp chúng ta dễ dàng và nhanh chóng hơn trong việc ra quyết định nhưng trong
một số trường hợp, dựa dẫm quá nhiều vào các quy tắc đôi khi sẽ dẫn đến sai lầm, đặc
biệt là khi các điều kiện bên ngoài thay đổi.
+ Lệch lạc do tình huống điển hình: Thường được diễn tả một cách đơn giản là xu
hướng không quan tâm nhiều đến những nhân tố dài hạn, mà thường đặt nhiều quan
tâm đến những tình huống điển hình ngắn hạn. Thường đánh giá xác suất xảy ra của
những sự kiện trong tương lai dựa vào mức độ “tương tự” với một tình huống điển
hình nào đó, thường chỉ quan tâm đến một tình huống điển hình của một giai đoạn
ngắn thay vì quan tâm đến một mẫu hình điển hình trong một giai đoạn dài.
+ Bảo thủ: Khi điều kiện thay đổi người ta có xu hướng chậm phản ứng với những
thay đổi đó, và gắn nhận định của mình với tình hình chung trong một giai đoạn dài

trước đó.
+ Định nghĩa hẹp: Cô lập một khái niệm, phân tích một vấn đề trong một khuôn khổ
hạn hẹp, tách biệt, và cố gắng đưa ra quyết định tối ưu cho khuôn khổ hạn hẹp ấy.
2. Hành vi bất hợp lý mang tính hệ thống:
- Nếu chỉ một nhà đầu tư đơn lẻ có hành vi không hợp lý, thì ảnh hưởng lên giá cổ
phiếu trên thị trường là không đáng kể. Chỉ khi hành vi không hợp lý là mang tính hệ
Nhóm 07 6
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
thống, nghĩa là một nhóm nhiều nhà đầu tư cùng có một hành vi không hợp lý như
nhau thì việc định giá sai sẽ xuất hiện và có thể bắt đầu kéo dài.
- Lý thuyết tài chính hành vi cho rằng sự bất hợp lý trong hành vi là khá phổ biến đối
với nhiều nhà đầu tư, nó tạo thành “hiệu ứng bầy đàn”, khiến cho giá một số cổ phiếu
không phản ánh giá trị thực của chúng. Hiệu ứng bầy đàn sẽ không tốt cho thị trường
trong trường hợp tất cả đều hành động theo một mẫu hình hành vi lệch lạc, không hợp
lý, thấy ai làm sao thì làm vậy.
- Hiệu ứng bầy đàn thể hiện tương đối rõ nét nhất là ở trong giai đoạn đầu thị trường
mới thành lập biểu hiện qua giá của đa số các cổ phiếu đều lên hoặc đều xuống, sự
biến động này không phản ánh hoạt động sản xuất kinh doanh mà chủ yếu do yếu tố
tâm lý nhà đầu tư.
- Quan niệm nếu có rất nhiều người cùng thực hiện một việc gì đó thì việc đó chắc
chắn đúng.
3. Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính:
- Lý thuyết thị trường hiệu quả tin rằng nếu tồn tại định giá sai thì sẽ tồn tại cơ hội
để kinh doanh chênh lệch giá thu lợi nhuận, và chính hành vi kinh doanh chênh lệch
giá sẽ điều chỉnh giá trên thị trường về cân bằng. Nhưng nếu tồn tại định giá sai, mà
lại không thể thực hiện kinh doanh chênh lệch giá để tận dụng các khoản lợi nhuận
này thì như thế nào? Và tại sao lại không thể thực hiện kinh doanh chênh lệch giá khi
có định giá sai?
- Một giải thích được chấp nhận rộng rãi trong trường phái tài chính hành vi là có 2
dạng:

+ Định giá sai thường xuyên xảy ra và có thể kinh doanh chênh lệch giá được.
+ Định giá sai không thường xảy ra, kéo dài và không thể kinh doanh chênh lệch giá
được (nói một cách khác, khó mà xác định được khi nào mức định giá sai đã đạt tới
giới hạn trên hay dưới và điều chỉnh lại).
- Barberis và Thales (2003) chỉ ra rằng: “Kinh doanh chênh lệch giá không thể xảy ra
vì có những tài sản về lý thuyết là có tính thay thế lẫn nhau hoàn hảo và có thể kinh
Nhóm 07 7
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
doanh chênh lệch giá 2 tài sản đó, nhưng thực tế thì không như vậy, do đó tạo ra rủi ro
tăng thêm cho hoạt động kinh doanh chênh lệch giá (vốn được xem là rủi ro thấp đến
mức phi rủi ro). Ngoài ra, chi phí thực hiện các chiến lược hưởng chênh lệch giá và sự
tồn tại của các giao dịch của những nhà đầu tư không hợp lý (gọi là noise trading)
cũng ngăn cản điều này”.
- Chúng ta đã từng thấy trong lịch sử nhiều vụ bong bóng giá ở Nhật (thập niên 1980),
Đài Loan (1990), cổ phiếu công nghệ truyền thông của Mỹ (1999-2000), rồi gần đây là
chứng khoán Trung Quốc và Việt Nam cũng bị xem là “quá nóng”. Tuy nhiên, rõ ràng
không hề có
những điều chỉnh tức thời như người ta kỳ vọng, mà những vụ bong bóng này kéo dài
nhiều năm (nhất là ở các nước châu Á đang phát triển). Đây là dấu hiệu của giới hạn
khả năng kinh doanh chênh lệch giá.
III. Những nguyên lý cơ bản và lý thuyết của tài chính hành vi
1. Thuyết triển vọng ( (Prospect Theory):
- Lý thuyết này được đưa ra bởi 2 nhà tâm lý học: Daniel Kahneman and Amos
Tversky nhằm giái thích cách con người quản lý sự rủi ro và không chắc chắn, lý
thuyết này cho rằng con người có khuynh hướng xem khả năng bù đắp một khoản lỗ
quan trọng hơn khả năng kiếm được nhiều lợi nhuận. Cụ thể hơn: thuyết triển vọng
cho rằng mọi người có xu hướng không thích rủi ro trong vùng lãi khi mọi việc tiến
triển tốt và thích mạo hiểm trong vùng lỗ.
- Khi khoản đầu tư có khuynh hướng mang lại lợi nhuận, họ thích nắm chắc ngay
khoản lợi nhuận hiện tại hơn là cố gắng tiếp tục đầu tư để thu được nhiều lợi nhuận

hơn trong tương lai. Nhưng ngược lại, khi khoản đầu tư có nguy cơ thua lỗ thì họ lại
cố gắng duy trì với hy vọng sẽ nhận được khoản lời trong tương lai, mặc dù lúc này rủi
ro thua lỗ nhiều hơn là rất lớn.
Ví dụ: Một nhà đầu tư đang nắm giữ những cổ phiếu đang tăng giá sẽ nhanh chóng
bán cổ phiếu đó khi giá cổ phiếu tăng bởi họ tin vào thông tin của họ và cho rằng giá
cổ phiếu hiện đã phản ánh đầy đủ thông tin này. Khi cảm thấy đã đạt được lợi nhuận
Nhóm 07 8
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
mong muốn thì sẽ bán cổ phiếu đi để kiếm lời mà không phân tích khả năng tăng thêm
lợi nhuận. Ngược lại một nhà đầu tư đang nắm giữ những cổ phiếu đang giảm giá sẽ
cố gắng duy trì với hy vọng giá cổ phiếu sẽ tăng và họ sẽ nhận được khoản lời trong
tương lai.
2. Sự tiếc nuối (regret ):
- Con người có khuynh hướng tiếc nuối sau khi ra các quyết định, hành động sai lầm
hoặc bỏ lỡ cơ hội đầu tư sinh lời. Nhà đầu tư luôn nghĩ rằng, những cổ phiếu bị lỗ sẽ
nhanh chóng tốt trở lại, họ sợ phải nuối tiếc khi bán lỗ cổ phiếu. Vì thế, khi đối mặt
với tình trạng thua lỗ, họ càng kỳ vọng vào lợi nhuận trong tương lai và thể hiện sự
liều lĩnh của mình. Lý thuyết này lý giải cho xu hướng “giữ cổ phiếu lỗ quá lâu khi giá
cổ phiếu đang đi xuống”.
Ví dụ: một nhà đầu tư sẽ cảm thấy tiếc nuối vì đã quyết định đầu tư vào cổ phiếu ABC
nhưng sau đó giá cổ phiếu giảm xuống. Một nhà đầu tư sẽ cảm thấy tiếc nuối khi bỏ
qua cơ hội đầu tư sinh lời vì đã không mua cổ phiếu ABC, khi cổ phiếu ABC liên tục
tăng giá.
3. Thuyết quá tự tin (Overconfidence):
- Con người đặt quá nhiều tự tin vào những quyết định đầu tư của mình, thường xem
bản thân tốt hơn những người khác, đánh giá cao bản thân hơn những gì người khác
đánh giá, và họ thường phóng đại những hiểu biết của mình. Những nhà đầu tư quá tự
tin đã được chứng minh rằng, họ giao dịch nhiều hơn những nhà đầu tư khác. Sự quá
tự tin làm tăng các hoạt động giao dịch bởi vì nó là lý do khiến nhà đầu tư sẵn sàng về
quan điểm của họ, không cần tham khảo thêm những quan điểm thích đáng của những

nhà đầu tư khác nên khả năng gặp rủi ro sẽ cao. Sự quá tự tin cũng làm tăng tính
không đồng nhất trong niềm tin của nhà đầu tư. Nhà đầu tư quá tự tin cho rằng, hành
động quyết định của họ ít rủi ro hơn các nhà đầu tư khác cảm nhận. Những nhà đầu tư
quá tự tin nhiều khi hiểu sai giá trị thông tin họ nhận được, không những tính chính
xác của thông tin mà còn hiểu sai cả ý nghĩa của thông tin.
Nhóm 07 9
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
4. Lý thuyết tâm lý bầy đàn, tâm lý đám đông (Herd Behavior)
- Tâm lý bầy đàn là từ ghép giữa từ "bầy đàn" có nghĩa là một "nhóm động vật" và từ
"tâm lý" ngụ ý một hoàn cảnh nhất định của suy nghĩ.
- Tâm lý bầy đàn khác với hành vi bầy đàn, vì hành vi bầy đàn chỉ dùng cho những
nhóm động vật, trong khi đó "tâm lý" là một thứ đặc trưng riêng của loài người. Tâm
lý bầy đàn là một phản ứng tâm lý gây ra bởi phản ứng sợ hãi áp lực lên tâm lý cá
nhân làm xuất phát ra hành động để tránh cảm giác "bị loại ra khỏi nhóm". Tâm lý bầy
đàn đôi khi cũng được gọi là tâm lý đám đông.
- Làm theo đám đông không chỉ giới hạn với những nhà đầu tư chưa có kinh nghiệm
mà việc làm theo đám đông xuất hiện trực tiếp đến những tình huống không chắc chắn
và mơ hồ. Khi một tình huống ra quyết định trở nên không chắc chắn thì ảnh hưởng
hành vi và quan điểm của đám đông sẽ làm cho các cá nhân trở nên chắc chắn hơn.
- Tâm lý đám đông luôn tồn tại trong quá trình ra quyết định của con người cũng như
nhà đầu tư, không phân biệt việc có kinh nghiệm hay không. Và lý thuyết ảnh hưởng
đám đông này càng thấy rõ khi nhà đầu tư buộc phải đưa ra các quyết định nhanh
chóng, chưa có đầy đủ thông tin cần thiết.
- Để có những quyết định đầu tư hợp lý và đạt được nhiều lợi nhuận, nhà đầu tư nên
hạn chế những ảnh hưởng tâm lý trong các lý thuyết nêu trên, thay vào đó là sử dụng
tổng hợp các công cụ phân tích tài chính, tạo tiền đề vững chắc cho các quyết định.
- Môt yếu tố quan trọng nữa của bầy đàn là truyền miệng. Người ta, nói chung, tin
tưởng bạn bè, họ hàng và đồng nghiệp hơn báo chí và truyền hình. Phương tiện truyền
thông truyền thống, tivi, và radio có khả năng truyền thông tin, nhưng khả năng của
chúng để tạo ra hành vi chủ động thì vẫn còn hạn chế. Nói với người khác và các loại

giao tiếp khác nữa là trong số những kết nối xã hội quan trọng mà con người có. Vì
thế thông tin về cơ hội mua sẽ lan truyền nhanh chóng. Trong một nghiên cứu, những
nhà đầu tư cá nhân được hỏi là cái gì cuốn hút họ đầu tiên khi họ đầu tư vào một công
ty. Chỉ 6% trả lời là báo chí và thời gian. Thậm chí nếu một người nào đó đọc nhiều,
sự quan tâm và hành động cũng dường như bị kích thích bởi sự giao tiếp lẫn nhau.
Nhóm 07 10
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
- Tâm lý bày đàn là một trong những xu hướng tâm lý được nhắc nhiều đến nhất về
Tài chính hành vi và được sử dụng chủ yếu để giải thích các vụ bong bóng đầu cơ.
5. Tính toán bất hợp lý, theo cảm tính (mental accounting) :
- Nhà đầu tư có xu hướng tách riêng các quyết định mà đúng ra phải được kết
hợp lại với nhau vào các tài khoản ảo trong trí tưởng tượng của chúng ta và tối
đa hoá lợi ích từng tài khoản. Và vì thế, họ đưa ra các quyết định nhìn tưởng là
hợp lý, mà thật ra là sai lầm.
- Trong tính toán có cả phần lợi nhuận và thua lỗ và các nhà đầu tư thường nhìn
nhận hai phần này rất khác nhau.
- Thuật ngữ này được đưa ra và áp dụng lần đầu tiên bởi Richard Thaler.
- Đây là một dạng của định nghĩa hẹp- cô lập một khái niệm hay phân tích một vấn đề
trong một khuôn khổ hạn hẹp, tách biệt, và cố gắng đưa ra quyết định tối ưu cho
khuôn khổ hạn hẹp ấy, thay vì cho toàn cục. Phương pháp này có thể hữu ích trong
một số trường hợp giới hạn về nguồn lực, hay không đủ thời gian phân tích nhiều. Tuy
nhiên, nó cũng có thể đưa đến sai lầm. Chúng ta có xu hướng tách riêng các quyết
định mà đúng ra phải được kết hợp lại với nhau vào các tài khoản ảo trong trí tưởng
tượng của chúng ta (mental account) và tối đa hoá lợi ích từng tài khoản. Và vì thế, đôi
khi chúng ta đưa ra các quyết định nhìn tưởng là hợp lý, mà thật ra là sai lầm.
- Sử dụng tính toán bất hợp lý và định nghĩa hẹp, chúng ta có thể giải thích nhiều hiện
tượng như lựa chọn nghịch với sở thích (preference reversals), sợ thua lỗ (loss
aversion), và hiệu ứng phân bổ tài khoản khá phổ biến, thể hiện cơ bản ở chỗ người ta
sẵn sàng thực hiện ngay những lệnh mang lại lời nhỏ, nhưng trì hoãn không thực hiện
lệnh dừng lỗ khi xuất hiện những khoản lỗ nhỏ.

- Ví dụ, khi mua tỷ giá đạt 20.693, sau đó giá giảm xuống 20.300, người ta vẫn không
bán (thậm chí còn mua tiếp) và chờ đến khi giá lên trên 21.000 một chút mới bán
ngay kiếm lời. Giá có giảm tiếp người ta cũng cứ giữ đồng tiền đó. Vì họ đã tách biệt
giữa “tài khoản lời” và “tài khoản lỗ” trong tâm trí của mình, cho nên họ cố tối đa hoá
tài khoản lời, và tối thiểu hoá tài khoản lỗ, nên giá lên một chút thì bán, giá xuống thì
Nhóm 07 11
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
cứ giữ, xem như nó chưa bị chuyển qua tài khoản lỗ. Hiệu ứng phân bổ tài khoản này
cũng có thể được lý giải bằng hiệu ứng tự lừa dối (sợ rằng nếu bán mà bị lỗ thì sẽ cảm
thấy bản thân ra quyết định đầu tư kém), hay hiệu ứng tiếc nuối (lỡ bán rồi mà giá lên
thì sao). Hiệu ứng phân bổ tài khoản lý giải một phần vì sao trong thị trường tăng giá
thì khối lượng giao dịch tăng cao hơn khi thị trường giảm giá.
6. Sự không yêu thích rủi ro(Sợ thất bại):
- Tính không cân xứng trong tâm lý rõ ràng giữa những giá trị mà con người kỳ vọng
vào lợi nhuận và thua lỗ, được gọi là sự không yêu thích rủi ro. Những bằng chứng
thực nghiệm chỉ ra rằng thua lỗ thì được cân nặng gấp nhiều lần so với lợi nhuận. Điều
này có thể diễn tả như là khái niệm mà mọi người có xu hướng đánh cược trong việc
mất mát, chẳng hạn, nhà đầu tư có xu hướng giữ ở vị thế lỗ với hy vọng rằng giá cuối
cùng sẽ phục hồi. Không yêu thích rủi ro có thể giải thích rằng xu hướng của nhà đầu
tư giữ chứng khoán bị lỗ quá lâu trong khi bán chứng khoán lời quá sớm.
7. Lệch lạc do tình huống điển hình (Representativeness):
- Nhà đầu tư có xu hướng không quan tâm nhiều đến những nhân tố dài hạn, mà
thường đặt nhiều quan tâm đến những tình huống điển hình ngắn hạn. Ví dụ khi giá cổ
phiếu bắt đầu tăng liên tục 3, 4 năm hoặc dài hơn như trường hợp của Mỹ và Tây Âu
từ năm 1982 đến 2000, hay Trung Quốc trong 10 năm trở lại đây thì nhiều nhà đầu tư
cho rằng lợi nhuận cao từ cổ phiếu là việc “bình thường”. Nhưng khi thị trường đi
xuống trong ngắn hạn thì mức sinh lời cao là “không bình thường”.
- Con người có xu hướng đánh giá xác suất của một sự kiện bằng cách lấy một sự kiện
đặc trưng có thể so sánh được và giả định rằng xác suất là tương tự. Điều này chủ yếu
dựa vào những kinh nghiệm mà chúng ta có được trong quá khứ. Ngay từ khi mới sinh

ra, con người đã có xu hướng phân loại các hiện tượng, sự vật và suy nghĩ. Khi con
người đối mặt với một hiện tượng mới, không hoàn toàn phù hợp với hiện tượng đã
phân loại trước đó, họ cũng sẽ cố đưa chúng vào một tập hợp nào đó dựa trên những
sự tương đồng đã có được và từ đó sẽ định hình nên nền tảng để họ có thể hiểu biết về
những nhân tố mới. Cách thức tiếp thu này cung cấp một công cụ hữu hiệu cho việc
Nhóm 07 12
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
xử lý thông tin mới bằng cách đồng thời kết hợp với những kinh nghiệm có liên quan
trong quá khứ. Tuy nhiên, sai lầm chính là do giả định
rằng sự tương tự trong khía cạnh này tạo ra sự tương tự trong khía cạnh khác. Tương
tự, con người thường có xu hướng nhận biết xác suất của các vấn đề tương đồng với
những gì đã xảy ra trước đó.
8. Tính bảo thủ (Conservatism) :
- Khi điều kiện kinh tế vĩ mô hay vi mô thay đổi người ta có xu hướng chậm phản ứng
với những thay đổi đó, họ gắn nhận định của mình với tình hình chung trong một giai
đoạn dài hạn trước đó. Tức là khi có tin nền kinh tế suy giảm, họ cho rằng kinh tế kém
đi chỉ là tạm thời, dài hạn vẫn là đi lên, mà không nhận thấy có thể tin đó phát đi tín
hiệu một chu kỳ suy thoái nhiều năm đã bắt đầu.
- Hiệu ứng này ngược lại với lệch lạc do tình huống điển hình. Con người chậm phản
ứng trước những sự thay đổi do những thói quen dài hạn trước đó. Nhưng nếu thời
gian đủ dài, họ sẽ điều chỉnh để phù hợp với điều kiện thay đổi. Ví dụ, khi ban đầu tin
tức công bố của một công ty cho thấy lợi nhuận giảm, người ta vẫn tin rằng đây chỉ là
giảm tạm thời, và phản ứng chậm với thông tin này, nên giá cổ phiếu công ty có tin
xấu vẫn giảm chậm. Đến khi liên tục vài quý sau, tình hình vẫn xấu, thì người ta đã
“phát hiện” ra một tình huống điển hình mới: Công ty này quý trước cũng kinh doanh
kém, quý này cũng kinh doanh kém, vậy nên bán tống cổ phiếu công ty này đi để tránh
lỗ. Thế là mọi người đổ xô đi bán cổ phiếu. Kết quả, lại dẫn đến phản ứng thái quá.
IV. Tìm hiểu hành vi đầu cơ ( hiện tượng đầu cơ bong bóng trong chứng khoán):
1. Hiện tượng bong bóng là gì:
- Hiện tượng bong bóng kinh tế (đôi khi còn gọi là "bong bóng đầu cơ", "bong bóng

thị trường", "bong bóng tài chính" ) là hiện tượng chỉ tình trạng thị trường trong đó giá
hàng hóa hoặc tài sản giao dịch tăng đột biến đến một mức giá vô lý hoặc mức giá
không bền vững. Mức giá cao thái quá này của thị trường không hề phản ánh mức độ
thỏa dụng hay sức mua của người tiêu dùng theo như các lý thuyết kinh tế thông
thường.
Nhóm 07 13
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
- Trong thị trường chứng khoán: hiện tượng bong bóng mô tả hiện tượng giá chứng
khoán vượt quá giá trị thực ( giá trị chính xác ) của chúng và cứ tiếp tục tăng cho đến
khi giá đột ngột rơi tự do và quả bong bóng vỡ.
2. Sụp đổ thị trường chứng khoán:
- Sụp đổ thị trường chứng khoán là hiện tượng suy giảm nhanh của tổng giá trị toàn thị
trường, thông thường là gắn với sự vỡ của bong bóng chứng khoán.
- Hành động bán một cách hoản loạn là biểu hiện chung của thị trường sau khi bong
bóng bị vỡ, khi đó ai cũng muốn bán đi, đẩy loại cổ phiếu đang giảm giá từng giây mà
mình đang nắm giữ cho người khác, nhưng trong tình cảnh đó việc mua vào là rất ít.
- Kết quả của tình trạng bán một cách điên cuồng là thị trường đi xuống rất nhanh trên
mọi khía cạnh, dẫn đến sự sụp đổ và tác động đến tất cả nhà đầu tư.
- Thông thường sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán sẽ là một giai đoạn suy
thoái kinh tế.
- Mối liên hệ giữa bong bóng đầu cơ và sụp đổ thị trường chứng khoán có thể so sánh
với mây và mưa. Có thể có mây nhưng không có mưa, nhưng đã có mưa thì chắc chắn
phải có mây, bong bóng là mây và tình trạng sụp đổ của thị trường là mưa. Lịch sử
cho thấy sụp đổ thị trường là hệ quả bắt nguồn từ tình trạng bong bóng thị trường bị
vỡ, mây càng dầy, bong bóng sẽ càng to và mưa sẽ càng lớn.
3. Những nguyên nhân hình thành bong bóng chứng khoán:
- Nguyên nhân hình thành bong bóng chứng khoán có nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên
nguyên nhân chính là do tâm lý đầu tư bầy đàn, đầu tư theo phong trào tạo vô hình đã
tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có tổ chức có nguồn vốn lớn làm giá cổ phiếu.
- Làm giá cổ phiếu: Những người có nguồn vốn lớn trên thị trường chứng khoán sẽ

lợi dụng tâm lý bầy đàn để thao túng thị trường hay còn gọi là hoạt động làm giá cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán.
Nhóm 07 14
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
3.1. Hoạt động làm giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán:
- Theo quy định điều 28, mục 6 về phạm vi quy định về giao dịch chứng khoán của
Nghị định 36/2007/NĐ-CP, hành vi thao túng giá cổ phiếu thị trường chứng
khoán được ghi rõ: “là hành vi của các nhà đầu tư cá nhân hoặc nhà đầu tư tổ
chức thực hiện các giao dịch nhầm làm cho các nhà đầu tư khác hiểu sai lệch
về thị trường, tạo ra cung cầu giả tạo, hay việc cấu kết, lôi kéo người khác liên
tục mua bán để thao túng giá chứng khoán”.
- Tạo ra giao dịch vòng tròn, tức là người này bán cho người kia, sau một vòng giao
dịch cổ phiếu trở về người bán ban đầu, nhưng giữa người bán và người mua thu về
lợi nhuận không đáng kể hoặc thậm chí là không có lợi nhuận, hành động này nhằm
tạo tâm lý cho nhà đầu tư tâm lý chứng khoán đó có tính ổn định cao, thường xuyên
giao dịch trên thị trường, khối lượng giao dịch bình quân mỗi ngày tương đối lớn, có
tính thanh khoản cao.
3.2. Quy trình làm giá cổ phiếu:
- Cung và cầu có tác động lớn, trực tiếp đến giá cả, từ đó phát sinh những toan tính
không lành mạnh tác động đến giá cả thông qua việc tác động mạnh đến cung và cầu
theo một cách giả tạo. Có nhiều cách để thực hiện cho mục đích này. Dù thực hiện
dưới dạng hành vi nào đi chăng nữa thì cũng chỉ nhầm tạo ra cơn sốt ảo về việc có một
lượng lớn người mua. Như một tất yếu theo quy luật cung cầu: cầu tăng, lượng cổ
phiếu không đổi thì giá sẽ tăng mạnh.
- Quy trình làm giá cổ phiếu: có 2 bước: đẩy giá và xả hàng.
Bước 1: đẩy giá:
+ Họ tiến hành bán ra mạnh ở mức giá cao gần trần trong tài khoản A. Các nhà đầu tư
nhỏ nhận thấy lượng đặt bán ở giá cao nhiều quá nên nghĩ rằng giá khó tăng cao hơn
nên họ bán ra ở các mức giá thấp hơn.
+ Khi khối lượng bán tăng cao và ở các mức giá thấp thì nhà đầu tư lớn tiến hành mua

lại ở tài khoản B, khối lượng bán suy giảm thì các nhà đầu tư nhỏ khác lại tranh mua
giá cao hơn và nhà đầu tư lớn không tốn nhiều sức lực để đưa giá lên cao. Biện pháp
Nhóm 07 15
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
bán mua “xoay vòng đảo hàng” này rất hiệu quả vì vừa có lợi nhuận ngay trong ngày
vừa đạt mục tiêu đẩy giá lên cao.
+ Đặc điểm của cách thức đẩy giá này là khối lượng giao dịch vẫn tốt trong các phiên
giao dịch, giá vẫn tăng mặc dù có thể không tăng trần liên tiếp.
Ở hình thức này các nhà đầu nhỏ có thể tham gia nếu nhận định tốt xu hướng của thị
truờng nhưng không nên mạo hiểm tham gia khi mức giá đã tăng quá cao. Thời gian
qua, có một cổ phiếu đã tăng hơn 200% từ 26.000đ/CP lên đến đỉnh cao gần
80.000đ/CP trong trường hợp này.
Bước 2: xả hàng
+ Sau quá trình đẩy giá, các nhà đầu tư lớn sẽ hoạch định việc xả hàng ở các mức giá
cao. Họ đặt mua ào ạt cổ phiếu ở giá trần nhằm tạo tâm lý hưng phấn cho các nhà đầu
tư khác.
+ Trên bảng điện tử xuất hiện một lượng lớn cổ phiếu được đặt mua giá trần, các nhà
đầu tư nghĩ rằng giá sẽ vẫn còn tiếp tục tăng mạnh nên cũng đặt mua ào ào theo ở giá
trần. Khi thấy lượng đặt mua đủ lớn, nhà đầu tư lớn sẽ dùng tài khoản B bán dần cổ
phiếu ra, với số lượng bán lớn hơn số lượng đặt mua.
+ Cách thức đẳng cấp cao hơn là nhà đầu tư lớn đầu giờ đặt mua giá trần và ATO
(ATO là lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh xác định giá mở cửa, là lệnh đặt mua
hoặc đặt bán chứng khoán tại mức giá mở cửa) với khối lượng lớn, các nhà đầu tư
khác cũng tranh giành đặt lệnh mua giá trần để chờ khớp, vì lượng mua quá lớn nên
phiên đầu tiên khối lượng khớp thường không đáng kể.
+ Trong phiên khớp lệnh liên tục nhà đầu tư lớn thực hiện huỷ lệnh mua giá trần đang
ở thứ tự chờ khớp ưu tiên nhưng cũng đồng thời đặt lại ngay một lượng mua tương tự
ở mức giá trần trong tài khoản khác, việc huỷ và đặt lệnh mua lại diễn ra rất nhanh
trong tích tắc nên trên bảng điện tổng số lượng mua hầu như không đổi nhưng các nhà
đầu tư khác đang ở thứ tự ưu tiên khớp đầu tiên.

+ Lúc này nhà đầu tư lớn sẽ tiến hành bán số cổ phiếu phù hợp với lượng mua của các
nhà đầu tư khác rồi tạm ngưng bán. Thấy số lượng mua giá trần vẫn còn nhiều (nhưng
Nhóm 07 16
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
thực chất là lượng mua của chính nhà đầu tư lớn), các nhà đầu tư khác “yên tâm” đặt
mua giá trần, quá trình cứ thế tiếp diễn.
+ Tuy nhiên trong các trường hợp đặc biệt do biến động của thị trường, nhà đầu tư lớn
có thể chấp nhận bán dần ở giá thấp hoặc giá sàn để “xả hàng” mà không mua lại vì họ
đã có được lợi nhuận cực lớn trong quá trình đưa giá từ các mức thấp lên đỉnh cao.
+ Khi nhà đầu tư lớn không tiến hành mua lại nữa thì giá cổ phiếu sẽ đứng hoặc đi
xuống, các nhà đầu tư mua ở vùng giá đỉnh cao sẽ thiệt hại rất nặng.
Nhóm 07 17
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
CHƯƠNG III: TÌM HIỂU THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TRONG
GIAI ĐOẠN BONG BÓNG ĐẦU CƠ
I. Thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn bong bóng đầu cơ .
- Năm 2007 được xem là mốc đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ nhất của thị trường
chứng khoán Việt Nam. Giai đoạn này thị trường chứng khoán chia làm hai giai đoạn
chính:
Biều đồ: Tình hình thị trường chứng khoán ViệtNam năm2007
- Đầu năm 2007 đến giữa năm 2007: thị trường tăng trưởng nhanh và là một trong
những thị trường thị trường tài chính mới nổi có tình hình chứng khoán nóng và đã
xuất h Hiện tượng “khát chứng khoán” và hiện tượng “nổi bong bóng” khiến cho một
số chuyên gia lo ngại sẽ có hiện tượng đảo chiều dòng vốn. Họ thậm chí đã nghĩ đến
biện pháp kiểm soát vốn. “Qúa nóng” là từ mà các chuyên gia nhận định về thị trường
chứng khoán Việt Nam năm 2007, chỉ số P/E lên tới 38-40 trong khi thông thường chỉ
ở mức 15-17 lần.
- Trên thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư ngoại gọi thị trường Việt Nam là
“Second China” ở châu Á và nhận xét đây là điểm sáng về đầu tư. Thị trường chứng
khoán Việt Nam được đánh giá là thành công, với mức tăng trưởng chỉ số VN-Index

là 23.3% và HASTC Index là 33.2% so với năm 2006. Tổng giá trị vốn hàng hóa thị
trường (cả hai sàn HOSE và HASTC, chưa tính đến trái phiếu) đã đạt trên 43% so với
Nhóm 07 18
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
GDP, vượt xa mức so với mục tiêu của nhà nước đặt ra là tới năm 2010. Hơn 330.000
tài khoản đã được mở ra so với hơn 130.000 tài khoản trong năm ngoái. Điều này thể
hiện mức độ quan tâm của công chúng đầu tư lên thị trường chứng khoán ngày càng
lớn. Số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài gần 5900 tài khoản
( 5400 tài khoản cá nhân và 500 tài khoản tổ chức) tăng gấp 3 lần so với năm 2006.
Nhà đầu tư nước ngoài hiện đang nắm giữ từ 25-30% cổ phần của các doanh nghiệp
niêm yết và chiếm khoảng 18% giao dịch toàn thị trường. Giá trị danh mục đầu tư của
nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chính thức ước khoảng 7.6 tỷ USD (nếu tính cả
thị trường không chính thức con số này đạt 20 tỷ USD) tăng gấp 3 lần so với năm
2006.
- Rất nhiều lý do được đưa ra để giải thích cho sự phát triển quá nóng của Thị trường
chứng khoán Việt Nam. Nhà đầu tư trong nước đổ lỗi cho nhà đầu tư nước ngoài, nhà
đầu tư nước ngoài đổ lỗi cho sự "điên cuồng” của nhà đầu tư trong nước. Tuy nhiên
quy chung lại phần lớn đồng tình cho rằng nguyên nhân chính là do tâm lý đầu tư bầy
đàn, đầu tư theo phong trào của các nhà đầu tư trong nước- thiếu kiến thức cũng như
không có kỳ vọng riêng. Và chơi chứng khoán trong thời gian vừa qua đã được báo
chí nói tới như một thứ “mốt”, một “phong trào” lan truyền nhanh hơn bất cứ dịch
bệnh nào, trên khắp cả nước.
II. Thực trạng thị trường sau “bong bóng đầu cơ”:
- Tình hình thị trường chứng khoán ViệtNam năm 2008
Nhóm 07 19
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
Biểu đồ: Tình hình thị trường chứng khoán ViệtNam năm 2008
+ Trong khi trong quí I, VN-Index mất 43,9% điểm so với đầu năm (921,07 từ ngày
2/1/2008). Đáy của quí I là 496,64 điểm vào ngày 25/3/2008.
+ Trong quí 2 cả khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch đều giảm và là quý có tính

thanh khoản kém nhất trong năm (bình quân mỗi phiên giao dịch với khối lượng
5.942.920 cổ phiếu).
+ Trong quý 3, VN-Index thiết lập đỉnh trong 10 phiên tăng điểm liên tục với mức
gía đóng cửa là 561,85 vào ngày 27/8/2008. Đáy của VN-Index trong quý 3 với mức
giá đóng cửa là 409,61 điểm vào ngày 1/7/2008.
+ Quý 4, VN-Index với xu hướng tiếp tục giảm điểm với đáy là 286.85 vào ngày
10/12/2008 và đây cũng là mức đáy của năm 2008.
- Tình hình thị trường chứng khoán ViệtNam năm 2009:
Nhóm 07 20
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
Biểu đồ: Tình hình thị trường chứng khoán ViệtNam năm 2009
CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN
Sau khi tìm hiểu đề tài, chúng ta có thể thấy rằng: phần lớn các nhà đầu tư trong năm
2007 đến 2008 dường như nhận ra được tính nghiêm trọng của bong bóng đầu cơ, tuy
nhiên, họ vẫn tiếp tục đầu tư mặc dù biết rằng rủi ro sụp đổ rất cận kề. Điều này chính
nó có thể được mô tả là hành vi bất hợp lý. Dường như không có sự khác biệt hành vi
đáng kể giữa cả nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức vì cả hai nhóm nhà đầu tư
này đều thực hiện những thay đổi tương đồng về đặc điểm đầu tư và các hành động
chủ yếu của họ thông qua những hành vi tâm lý giống nhau, bất kể một ít khác biệt về
sự quá tự tin của nhà đầu tư có tổ chức. Thuyết triển vọng và phương pháp giải quyết
vấn đề bằng kinh nghiệm giúp ta hiểu các yếu tố có thể có nằm dưới hiện tượng bong
bóng đầu cơ, mặc dù không đưa ra câu trả lời toàn diện cho mọi vấn đề quanh những
yếu tố lạ thường của thị trường. Tuy nhiên, một cách hiểu phổ biến hơn của các yếu tố
này và cái cách mà các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến việc ra quyết định của chúng ta
Nhóm 07 21
Lý thuyết hành vi tài chính GVHD: Th.s Trương Minh Tuấn
giúp ta tránh được những bong bóng đầu cơ tương tự và nâng cao hiệu quả của thị
trường tài chính toàn cầu ngày nay. Bất chấp những thua lỗ không thể tránh được
được nhận ra bởi các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, như là vụ nổ của bong bóng đầu
cơ, niềm tin vào thị trường cuối năm 2008 dường như rất cao. Từ nhận thức lịch sử

đầu tư dài hạn vào thị trường chứng khoán ta đã có thể rút ra và hiểu các yếu tố ảnh
hưởng thị trường, nó có thể giúp để hiểu rõ hơn tính không thể dự đoán được.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Thị Ngọc Lan, Nghiên cứu lý thuyết hành vi trên thị trường chứng khoán Việt Nam,
Luận văn Thạc sĩ kinh tế, 06/2009.
2. Ths Hồ Quốc Tuấn, Tài chính hành vi: Nghiên cứu ứng dụng tâm lý học vào tài chính, Tạp
chí kinh tế phát triển.
3. Nguồn báo chí: tạp chí kinh tế Sài Gòn, tạp chí Saigon Time, tạp chí Kinh tế phát triển.
4. Nguồn điện tử website:
/>
/>chung-khoan-46115/
Nhóm 07 22

×