Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

tại nạn thương tích ở trẻ em và biện pháp phòng tránh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.32 KB, 5 trang )

| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16) 49
Tai nạn thương tích trẻ em có thể xảy ra đối với tất cả các lứa tuổi và hiện đang là vấn đề y tế công
cộng được quan tâm. Tại các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, so với các nguyên
nhân tử vong do bệnh truyền nhiễm và không truyên nhiễm, tai nạn thương tích trẻ em đang trở thành
nguyên nhân tử vong hàng đầu đối với trẻ. Tai nạn thương tích trẻ em hoàn toàn có thể phòng tránh
được thông qua các biện pháp khác nhau, trong đó nâng cao kiến thức, kỹ năng phòng chống tai nạn
thương tích và tạo dựng môi trường học tập, vui chơi an toàn là không thể thiếu. Để thực hiện các
biện pháp đó, hướng tiếp cận dựa vào nhà trường được xem là khả thi và hiệu quả.
Từ khóa: Học sinh tiểu học, tai nạn thương tích trẻ em, phòng tránh tai nạn thương tích trẻ em, phòng
tránh dựa vào nhà trường.
Child injury and school-based
prevention methods
Nguyen Thuy Quynh (*), Le Vu Anh (**), Nguyen Duc Quang (***)
Child injury, a majorly concerned public health problem, may happen to all age groups. Beside
causes of death by communicable and uncommunicable diseases, child injury has become the leading
cause of death in children in developing countries in general and in Vietnam in particular.
Child injury is preventable via various types of different intervention of which improvement of
knowledge and skills on injury prevention and creation of a safe environment for children to study
and play are essential. To achieve these interventions, school based approach is considered as
feasible and effective.
Key words:
Primary school students, child injury, child injury prevention, school- based intervention.
Tác giả:
(*): Ths. Nguyễn Thúy Quỳnh - Bộ môn Vệ sinh lao động - Bệnh nghề nghiệp - Trường Đại học Y tế công cộng -
138 Giảng Võ - Ba Đình - Hà Nội-
(**) GS.TS. Lê Vũ Anh - Trường Đại học Y tế công cộng - 138 Giảng Võ - Ba Đình - Hà Nội
(***) PGS.TS. Nguyễn Dục Quang, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, 101 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Tai nạn thương tích ở trẻ em và biện pháp
phòng chống dựa vào nhà trường
Nguyễn Thúy Quỳnh (*), Lê Vũ Anh (**), Nguyễn Dục Quang (***)


50 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
1. Giới thiệu
Tai nạn thương tích (TNTT) hiện nay đang là
vấn đề nổi cộm của Y tế công cộng. Trên thế giới
mỗi năm có khoảng 5 triệu tử vong do TNTT, chiếm
9% của tổng số tử vong và 12% của gánh nặng bệnh
tật toàn cầu. 90% tử vong do chấn thương xảy ra ở
các nước thu nhập thấp và trung bình. Đông Nam Á
và Tây Thái Bình Dương là khu vực có số tử vong
do chấn thương cao nhất [10].
Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới, hàng
năm có khoảng hàng triệu trẻ em tử vong bởi những
nguyên nhân có thể phòng tránh được trong đó
nguyên nhân do TNTT đóng góp một phần đáng kể.
Với mỗi trường hợp tử vong do TNTT có hàng ngàn
trẻ phải sống trong tàn tật ở các mức độ khác nhau
do TNTT gây nên. Ảnh hưởng của TNTT đối với xã
hội, gia đình và cộng đồng là rất lớn cả về sức khỏe,
kinh tế và các vấn đề tâm lý xã hội. TNTT trẻ em
cũng được phân bố đặc trưng theo nhóm tuổi cả về
tỷ trọng và loại thương tích. Tử vong do TNTT có
xu hướng gia tăng theo tuổi. Đối với trẻ em dưới 1
tuổi, thương tích chỉ là nguyên nhân của 1-1,5% các
trường hợp tử vong; trẻ 1-4 tuổi là 6%; trẻ 5-9 tuổi
thương tích chiếm 25% số tử vong; 10-14 tuổi chiếm
31%; 15-17 tuổi tương đương nhóm tuổi cũng chiếm
31% tương đương với nhóm tuổi 10-14 tuổi. Như
vậy trung bình đối với trẻ trong độ tuổi 5-14 tuổi,
thương tích là nguyên nhân tử vong của hơn ¼ số

trường hợp tử vong trên toàn cầu [12]
Kết quả điều tra quốc gia về tình hình TNTT tại
Việt Nam tiến hành năm 2001 cho thấy TNTT đang
dần trở thành một trong những nguyên nhân hàng
đầu gây tử vong ở Việt Nam, đặc biệt ở lứa tuổi trẻ
em. Hàng năm, cứ 100.000 trẻ dưới 18 tuổi thì có
gần 84 trẻ bò tử vong, cao gấp hơn 5 lần so với số
tử vong do bệnh truyền nhiễm (14,9/100.000) và
gấp hơn bốn lần so với bệnh không truyền nhiễm
(19,3/100.000). Đuối nước là nguyên nhân TNTT
gây tử vong lớn nhất cho trẻ em, TNGT đứng hàng
thứ 2, thứ 3 là ngã, ngộ độc đứng ở vò trí thứ tư và
TNTT do vật sắc nhọn là nguyên nhân gây tử vong
đứng hàng thứ năm [3]. Sau gần 10 năm thực hiện
Chính sách quốc gia về phòng chống TNTT, chưa
có nghiên cứu quốc gia nào khác đánh giá thực
trạng tình hình TNTT trẻ em Việt Nam. Hiện tại hệ
thống ghi nhận thường xuyên tử vong do TNTT từ
các xã của 63 tỉnh thành trong cả nước mặc dù còn
khá nhiều hạn chế về phân loại nguyên nhân và sự
đầy đủ của số liệu, tuy nhiên cho đến nay đây vẫn
được coi là nguồn số liệu tham khảo cho những
người làm công tác phòng chống TNTT. Kết quả từ
hệ thống giám sát số liệu này cho thấy, trong giai
đoạn từ năm 2005 - 2007, số trường hợp tử vong do
TNTT ở trẻ em từ dưới 18 tuổi hàng năm có gia tăng
nhưng tỷ suất tử vong lại giảm xuống (số TV theo
các năm 2005-2006-2007 là: 6938 - 7,198 - 7894; tỷ
suất TV theo các năm trên 100 .000 trẻ là: 25,8/100
000 - 26,3/100 000 - 21,7/100. 000). Con số này

được lý giải có thể do tốc độ tăng dân số nhanh
chóng hoặc hạn chế về số liệu như đã đề cập ở trên.
Số liệu cũng cho thấy đuối nước là nguyên nhân gây
tử vong hàng đầu cho trẻ em Việt Nam, thứ nhì là
TNGT, thứ 3 là ngã và ngộ độc [1,2]. Một số nghiên
cứu khác về tình hình TNTT trẻ em ở 6 tỉnh Hải
Phòng, Hải Dương, Quảng Trò, Thừa Thiên Huế và
Cần Thơ năm 2003 và 2008 cũng cho thấy mô hình
TNTT tương tự như kết quả các nghiên cứu trên
đuối nước, TNGT là những nguyên nhân hàng đầu
gây TNTT cho trẻ [4,5]
Mặc dù số liệu về TNTT ở trẻ em Việt Nam còn
hạn chế nhưng các thông tin hiện có cho thấy TNTT
là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh
tật và tử vong cho trẻ em Việt Nam.
2. Tai nạn thương tích trẻ em có thể
phòng ngừa được
Kinh nghiệm của nhiều nước có thu nhập cao
cho thấy nếu có chiến lược phòng chống TNTT phù
hợp dựa trên các bằng chứng khoa học, TNTT trẻ
em hoàn toàn có thể dự phòng được. Tại một số
nước thành viên của Tổ chức hợp tác và Phát triển
kinh tế, số lượng tử vong do thương tích ở trẻ dưới
15 tuổi giảm một nửa trong giai đoạn 1975-1995. Có
được thành tựu này là do kết quả của sự kết hợp giữa
nghiên cứu, xây dựng hệ thống số liệu, áp dụng các
biện pháp dự phòng cụ thể, cải thiện môi trường an
toàn, xây dựng và thực thi pháp luật, giáo dục cộng
đồng, cải thiện chất lượng dòch vụ sơ cấp cứu, chăm
sóc chấn thương thiết yếu [11].

Tai nạn thương tích có thể phòng ngừa được
thông qua một số các biện pháp như pháp chế và
thực thi, sửa đổi sản phẩm, cải thiện môi trường,
khuyến khích sử dụng các thiết bò an toàn, giáo dục
kỹ năng và thay đổi hành vi và tăng cường các dòch
vụ chăm sóc chấn thương thiết yếu. Các biện pháp
này đã được chứng minh là có hiệu quả, ví dụ như
tại các quốc gia có thu nhập cao số ca ngộ độc ở trẻ
em giảm đáng kể thông qua các pháp luật đòi hỏi
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16) 51
việc đóng gói các loại chất độc phòng TNTT cho trẻ
em; ở Malaysia việc phân luồng xe máy đã làm
giảm 27% các vụ va chạm hay sử dụng mũ bảo hiểm
khi đi xe đạp làm giảm tới 63-88% nguy cơ thương
tích vùng đầu và chấn thương sọ não nghiêm trọng
trong số những người đi xe máy ở tất cả các độ tuổi
[14]. Cải thiện môi trường là một chiến lược phòng
chống TNTT được xem là có hiệu quả đối với mọi
lứa tuổi, đặc biệt phù hợp đối với trẻ em. Chiến
lược này phát huy được hiệu quả rất nhiều khi sử
dụng kết hợp với hai chiến chiến lược khác là thực
thi luật pháp và truyền thông giáo dục [7].
Tại Việt Nam, chương trình phòng chống TNTT
trẻ em của Bộ Y tế dưới sự tài trợ của UNICEF được
tiến hành ở 6 tỉnh trọng điểm đã áp dụng chiến lược
cải thiện môi trường tại các cấp độ như hộ gia đình,
cộng đồng và trường học và cũng đã thu được những
thành công đáng kể. Ví dụ như với cấp độ hộ gia
đình, lắp đặt các giá cao ngoài tầm với của trẻ để

để dao và các vật sắc nhọn, giá đựng phích, đậy
giếng và bể nước, cũi cho trẻ nhỏ, tủ thuốc…; tại
cộng đồng làm hàng rào chắn quanh ao, đèn đường,
hạn chế tốc độ và cải tạo sân chơi công cộng; tại
trường học lắp đặt các biển báo giao thông, biển báo
phòng chống TNTT, chắn ban công và cải tạo hệ
thống điện…[8]. Bên cạnh việc cải thiện môi trường,
việc giáo dục truyền thông và tăng cường kỹ năng
về phòng chống TNTT cho trẻ được thực hiện song
song thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,
các chương trình truyền thông tại cộng đồng và tư
vấn tại hộ gia đình là không thể thiếu. Chiến dòch
truyền thông giáo dục cộng đồng nhằm nâng cao
kiến thức về đội mũ bảo hiểm đã được thực hiện
trước khi Luật đội mũ bảo hiểm được ban hành tại
Việt Nam 2007 là một bằng chứng cho thấy vai trò
tích cực của truyền thông trong thành công của các
chương trình can thiệp phòng chống TNTT.
3. Phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ em
trong độ tuổi tiểu học dựa vào nhà trường, một
giải pháp được xem là khả thi và hiệu quả.
Trẻ em trong độ tuổi tiểu học là giai đoạn trẻ có
sự thay đổi về môi trường sống, trẻ bắt đầu nhỏ rời
khỏi môi trường gia đình để dành nhiều thời gian
hơn với bạn bè trang lứa cho các sinh hoạt tại trường
học và cộng đồng. Trong thời kỳ này, trẻ có thể học
hỏi để tự khẳng đònh bản thân, xây dựng được niềm
tin vào bản thân, tự đánh giá bản thân và có đònh
hướng về những hành vi tốt và không tốt. Giai đoạn
này có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển về tinh

thần, trí tuệ và xã hội sau này [8].
Giáo dục trẻ em thực hành an toàn cho trẻ
không chỉ có tác dụng giảm tỷ lệ TNTT hiện tại mà
còn có tác dụng thay đổi hành vi an toàn cho thế hệ
tương lai. Nếu trẻ em được trang bò kiến thức cơ bản
ban đầu để nhận biết những yếu tố nguy cơ gây
TNTT và kỹ năng ứng phó với các nguy cơ đó sẽ rất
có ích cho việc nâng cao kỹ năng sống cho trẻ trong
suốt cuộc đời. Quá trình giáo dục môi trường an
toàn và phòng chống TNTT cho trẻ diễn ra thường
xuyên liên tục thông qua các hoạt động vui chơi ở
trường, lớp sẽ dần tạo cho trẻ những phản xạ linh
hoạt, nhạy bén, thói quen ý thức thường trực đối với
những rủi ro, nguy hiểm gây tai nạn bất thường.
Trẻ em học cách cư xử qua cả sự chỉ dẫn và
quan sát từ cha mẹ, giáo viên, người thân, bạn bè…
và những người đóng vai trò làm hình mẫu cho cách
ứng xử của chúng và qua quan sát. Hành vi của trẻ
sẽ được củng cố và điều chỉnh bởi những hậu quả
do những hành động của chúng mang lại và sự đáp
ứng của người khác đối với hành vi của chúng. Trẻ
nhỏ học cách ứng xử qua quan sát và tương tác với
xã hội hơn là chỉ từ những lời chỉ dẫn. Tương tự như
vậy, trẻ nhỏ cần được dạy dỗ các kỹ năng thông qua
quá trình hướng dẫn, tập luyện (lặp lại nhiều lần)
và phản hồi hơn là chỉ nói lý thuyết [6]. Sự tự tin
về khả năng thể hiện những hành vi phù hợp, là rất
quan trọng đối với việc duy trì và học tập cách cư
xử, đặc biệt trước những áp lực của xã hội bắt phải
cư xử theo cách khác.

Các phương pháp thu nhận kỹ năng bao gồm
học tập có sự tham gia, thảo luận nhóm, đóng vai và
thực hành, có sự phản hồi kòp thời và xây dựng kỹ
năng giao tiếp với bạn bè và những người xung
quanh. Các phương pháp này được thiết kế đơn giản
gần với những hoạt động thông thường trong cuộc
sống như thông qua các trò chơi; phân tích trường
hợp; làm việc nhóm nhỏ Người cung cấp cho các
em kỹ năng sống cần thiết vừa phải có chuyên môn
vừa phải có trách nhiệm. Kinh nghiệm cho thấy
những người giảng dạy các kỹ năng sống có hiệu
quả thường là các nhà hoạt động xã hội, giáo viên
và các nhà tâm lý học. Họ có vai trò rất quan trọng
trong việc quyết đònh hay sự thành công của chương
trình [13].
Lứa tuổi tiểu học đang trong giai đoạn quan sát,
học tập, thực hành ứng xử với môi trường xung
quanh, các hành vi an toàn đang trong quá trình
52 Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
hình thành và hoàn thiện. Vì vậy việc tạo dựng một
môi trường sống, học tập và vui chơi an toàn cho trẻ
sẽ góp phần đáng kể trong việc phòng chống TNTT.
Hơn nữa, nếu trẻ nếu trẻ em trong những giai đoạn
đầu đời này được học tập trong môi trường an toàn
và được khuyến khích tham gia vào việc xây dựng
môi trường an toàn trong trường học cũng sẽ nâng
cao được kiến thức và kỹ năng sống an toàn và tạo
cho trẻ có trách nhiệm tham gia tạo dựng môi trường
sống, học tập an toàn cho bản thân, làm nền tảng

cho cuộc sống sau này của trẻ.
4. Tiếp cận phòng chống tai nạn thương tích
cho học sinh tiểu học dựa vào nhà trường
Mô hình và nội dung can thiệp phòng chống tai
nạn thương tích cho học sinh tiểu học dựa trên các
nguyên tắc chia sẻ về trách nhiệm trong các vấn đề
về chấn thương và các giải pháp phòng chống của
các chuyên gia và các thành viên của cộng đồng, và
là sự tham gia chòu trách nhiệm xác đònh những ưu
tiên và những can thiệp phù hợp. Việc thực hiện sẽ
được dựa trên một mạng lưới tổ chức và xã hội và
nhấn mạnh về tầm quan trọng của sự tham gia của
cộng đồng. Mô hình can thiệp này được xây dựng
dựa trên các nguyên lý được đề cập ở trên với một
mối liên kết giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội
và gắn kết chặt chẽ với cộng đồng để cùng nhau giải
quyết một vấn đề sức khỏe đó là phòng chống tai nạn
thương tích cho học sinh tiểu học. Điều này được thể
hiện cụ thể qua việc tham gia của lãnh đạo, giáo
viên trong ngành giáo dục, cán bộ y tế, cán bộ đoàn
đội, các chuyên gia phòng chống TNTT và chuyên
gia giáo dục trung ương, đòa phương và các chuyên
gia quốc tế sẽ cùng nhau hoạt động để đạt được mục
đích chung này. Chương trình can thiệp sẽ được xây
dựng với 2 cấu phần cơ bản: nâng cao kiến thức, kỹ
năng về phòng chống TNTT cho học sinh và tạo
dựng môi trường học tập an toàn cho trẻ.
Sau khi mô hình can thiệp được thống nhất,
chương trình can thiệp cụ thể sẽ được xây dựng với
sự tham gia của các chuyên gia có kiến thức, kinh

nghiệm về phòng chống tai nạn thương tích và các
chuyên gia có kiến thức và kinh nghiệm xây dựng
chương trình giảng dạy tuyến trung ương sẽ phối
hợp với nhóm kỹ thuật đòa phương là những người
có kinh nghiệm, kỹ năng sư phạm và thực tế giảng
dạy cho học sinh tiểu học để cùng nhau xây dựng
nội dung chương trình can thiệp. Với cách thức tiếp
cận như vậy, chương trình sẽ vừa mang tính hàn
lâm vừa mang tính thực tiễn.
Chương trình giáo dục phòng chống tai nạn
thương tích cho học sinh tiểu học nhằm giúp học sinh
(1) Hình thành và nâng cao những hiểu biết về các
yếu tố có thể gây tai nạn thương tích cho trẻ em (2)
Rèn kó năng về phòng chống tai nạn thương tích, có
khả năng ứng phó với những nguy cơ gây tai nạn
thương tích, qua đó giảm thiểu TNTT cho trẻ em.
Chương trình được xây dựng thông qua việc khai
thác và tích hợp với chương trình học tập của học
sinh và bổ xung thêm các hoạt động ngoại khóa, dựa
trên nguyên tắc giúp trẻ "học mà chơi, chơi mà học",
đảm bảo không gây gánh nặng cho trẻ và nhà trường,
vừa đáp ứng được tính khoa học và thực tiễn phù hợp
với hoàn cảnh giáo dục hiện tại của Việt Nam.
Chương trình được thực hiện theo các bước sau:
- Rà soát nội dung của tất cả các bài học thuộc
các môn học từ lớp 1 đến lớp 5 đề xuất những môn
học sẽ tích hợp, với từng môn học lựa chọn bài học,
loại hình TNTT dự kiến được tích hợp, mức độ, thời
lượng và phương pháp giảng dạy tích hợp PC TNTT
phù hợp với từng lớp học.

- Lựa chọn nội dung phòng chống TNTT để lồng
ghép: các loại TNTT thường gặp ở trẻ em trong độ
tuổi học sinh tiểu học được xây dựng dựa trên kết
quả nghiên cứu TNTT trẻ em thực tế tại Đà Nẵng
và Việt Nam. Dựa trên các phân tích về mô hình lý
thuyết và các số liệu thực tế, chương trình sẽ đưa ra
các nội dung cơ bản về phòng chống TNTT dự kiến
được giảng dạy trong chương trình tiểu học và phân
bổ nội dung đó phù hợp đối với từng khối lớp và cho
từng môn học. Các nội dung này sẽ được chuyển tải
dưới các dạng thông điệp mang tính lặp lại để học
sinh có thể ghi nhớ.
- Sau khi có môn học tích hợp và nội dung phòng
chống TNTT, có 3 cấp độ tích hợp có thể áp dụng
là: (1) Tích hợp toàn phần - Khi mục tiêu và nội
dung bài học hoàn toàn phù hợp với mục tiêu và nội
dung giáo dục phòng chống TNTT; (2) Mức độ bộ
phận - Khi chỉ có 1 bộ phận bài học có nội dung giáo
dục phù hợp với giáo dục phòng chống TNTT và (3)
Mức độ liên hệ - Khi nội dung và bài học có điều
kiện liên hệ một cách logic với nội dung giáo dục
phòng chống TNTT.
- Bên cạnh đó, chương trình giảng dạy ngoại
khóa phòng chống tai nạn thương tích được xây
dựng như một cấu phần đi kèm, hỗ trợ và củng cố
kiến thức đã học ở chương trình tích hợp chính khóa.
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 11.2010, Số 16 (16) 53
Do đó, nội dung các bài học được xây dựng phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, sử

dụng phương pháp giảng dạy tích cực và tài liệu
giảng dạy phong phú.
Tạo dựng môi trường trường học an toàn cho
học sinh được thực hiện thông qua mô hình bảng
kiểm trường học an toàn (THAT) nhằm giảm thiểu
nguy cơ TNTT cho học sinh trong trường học.
Chương trình được thực hiện thông qua các bước:
- Dựa vào các tài liệu trong nước và quốc tế, xây
dựng bảng kiểm THAT và Tài liệu hướng dẫn sử
dụng bảng kiểm có sự tham gia của cộng đồng và
phù hợp với hoàn cảnh thực tế của đòa phương.
- Sử dụng bảng kiểm THAT để đánh giá và đề
xuất danh mục các yếu tố nguy cơ gây TNTT cho
học sinh cần được cải thiện.
- Xác đònh và lựa chọn giải pháp can thiệp: Tùy
theo loại nguy cơ cụ thể gây thương tích cho trẻ và
nguồn lực thực tế để đưa ra giải pháp phù hợp. Các
giải pháp được đề cập theo các cấp độ (1) cảnh báo
nguy cơ (2) giảm thiểu nguy cơ (3) loại bỏ nguy cơ.
- Triển khai thực hiện giải pháp can thiệp đã
được lựa chọn ở bước trên.
- Đánh giá sự hiện diện của các yếu tố nguy cơ
gây TNTT cho học sinh trong trường học sau quá
trình thực hiện can thiệp số yếu tố nguy cơ được loại
bỏ hay giảm thiểu và xem xét xem có yếu tố nguy
cơ mới phát sinh không.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1. Bộ Y tế, Thống kê tử vong trẻ em và vò thành niên từ 0-
19 tuổi do tai nạn thương tích 2005 - 2006, Hà Nội 2008

2. Bộ Y tế, Thống kê tử vong do tai nạn thương tích năm
2007, Hà Nội 2008
3. Lê Vũ Anh, Lê Cự Linh, Phạm Việt Cường (2003), Điều
tra liên trường về chấn thương ở Việt Nam, Hà Nội 2003.
4. Lê Vũ Anh, Nguyễn Thuý Quỳnh, Lê Cự Linh, Trần Thò
Hồng, Nguyễn Thò Trang Nhung, Lã Ngọc Quang, Trần
Trọng Hà (2004). Điều tra cơ bản tình hình chấn thương và
các yếu tố ảnh hưởng ở trẻ dưới 18 tuổi tại 6 tỉnh Hải Phòng,
Hải Dương, Thừa Thiên Huế, Quảng Trò, Cần Thơ, Đồng
Tháp năm 2004. Trường Đại học Y tế công cộng - UNICEF
Việt Nam, 2004.
5. Nguyễn Trọng Hà, Phạm Việt Cường, Lã Ngọc Quang,
Nguyễn Thúy Quỳnh, Nguyễn Trang Nhung, Lê Thò Kim
Ánh, Nguyễn Y Vân, Phạm Công Tuấn (2008). Điều tra cơ
bản tình hình chấn thương và các yếu tố ảnh hưởng ở trẻ dưới
18 tuổi tại 6 tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Thừa Thiên Huế,
Quảng Trò, Cần Thơ, Đồng Tháp năm 2008. Trường Đại học
Y tế công cộng - UNICEF Việt Nam, 2009.
Tiếng Anh
6. Badura, A (1977a), Self-efficacy: Toward a Unifying
Theory of Behavior Change. Psychological Review.
7. Bunn F, Collier T, Frots C, Ker K, Roberts I, Wentz R,
Traffic calming for prevention of road traffic injuries:
systematic review and meta-analysis. Injury prevention
2003; 9(3): 200-204
8. Csikszentmihalyi, M.and Schneider, B (2000), Becoming
Adult: How Teenagers Prepare for the world of work. New
York: basic book.
9. Doyle J. Child injury prevention. The story of UNICEF's
interventions in Vietnam, Hanoi 2008.

10. Dean T. Jamison, Henry Mosley et al. (editors). Disease
Control Priorities in Developing Countries. Published for
the World Bank - Oxford University Press.
11. Florence, Innocenti Research Centre (2001), A league
table of child deaths by injury in rich nations. Innocenti
report No2.
12. Krug, E., et al (2002), World report on violence and
Health, World Health Organization: Geneva.
13. Pan American Health Organization (2001), Life skill
approach to child and adolescent healthy human
development. Washing DC.
14. WHO (2008), World report on child injury prevention,
Geneva.

×